BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
............/............
BỘ NỘI VỤ
....../......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TẠ THỊ MINH THU
VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành
: Quản lý công
Mã số
: 8340403
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGỌ VĂN NHÂN
HÀ NỘI - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và
kết quả trình bày trong luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong
bất kỳ các công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 29 tháng 2 năm 2020
Tác giả luận văn
Tạ Thị Minh Thu
i
LỜI CẢM ƠN
Em rất vinh dự khi được học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành
Chính Quốc gia. Để hoàn thành được cuốn luận văn này, em xin chân thành
cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo tại Học viện Hành Chính Quốc gia đặc biệt
Thầy giáo, TS. Ngọ Văn Nhân giảng viên Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ
em trong quá trình thực hiện, hoàn thiện luận văn cao học về nội dung “Vai
trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã
hội”. Đây là công trình nghiên cứu mang tính cá nhân, nhận định của bản
thân. Do vậy, mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian và năng lực có hạn
nên chắc chắn Luận văn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp ý kiến quý báu của các thầy, các cô.
Em xin trân trọng cảm ơn!
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
i
ii
iii
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ
NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
1.1. Quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản biện xã hội
1.2. Khái quát về Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
1.3. Nội dung, phương thức hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
1.4. Các yếu tố ảnh hướng tới việc thực hiện vai trò giám sát, phản biện
xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP
PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
2.1. Nguyên nhân, kết quả và những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai
trò giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
2.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện vai trò của
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN
HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI
3.1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, quyết liệt
cụ thể hơn các chính sách, pháp luật của Nhà nước về giám sát, phản
biện xã hội
3.2. Tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát, phản biện
xã hội
3.3. Tăng cường công tác phổ biến, tuyển truyền nâng cao nhận thức của
các cấp Hội, hội viên về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
trong giám sát, phản biện xã hội
3.4. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện vai trò của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
iii
12
12
33
38
54
62
62
77
80
80
85
91
94
104
106
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Giám sát và phản biện xã hội là hoạt động quan trọng nhằm phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức
trong hệ thống chính trị. Đồng thời kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai
phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, vận động,
đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các
chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống góp
phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội” [12, tr.124]. Từ sự nhấn mạnh vị
trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, Đảng ta yêu cầu:
“Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện
tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp ủy đảng và cấp chính quyền
có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý
kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước về
những vấn đề mà nhân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính sách,
pháp luật. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy chế dân chủ ở
mọi cấp để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây
dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị” [12, tr.124].
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Hội) là tổ chức chính trị - xã hội trong
hệ thống chính trị, có tư cách pháp nhân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển
của phụ nữ và bình đẳng giới. Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Hiến pháp
1
năm 2013, cùng với Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam là “tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở
tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành
viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận
phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Hội
cũng là thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế và Liên đoàn các
tổ chức phụ nữ ASEAN. Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội
có vai trò tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám
sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ,
gia đình, trẻ em và bình đẳng giới.
Đối với hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức thành viên, sự ra đời của Quy chế giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo
Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị) và Quy định
về việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham
gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền (Ban hành kèm theo Quyết
định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị) thực sự là kết tinh
của ý chí và sự hòa quyện giữa ý Đảng với lòng dân. Việc Bộ Chính trị (khóa
XII) ban hành quy chế, quy định nói trên đã tạo điều kiện, phương tiện để Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, trong đó có Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, thực hiện tốt hơn vai trò đại diện bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân; cũng là phương thức mở rộng dân chủ, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Trong những năm qua, bên cạnh việc tổ chức, thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ khác của mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã và đang tham
gia ngày càng sâu rộng vào hoạt động giám sát và phản biện xã hội, đạt được
2
nhiều kết quả quan trọng. Hoạt động giám sát của Hội đã góp phần xây dựng,
thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và
đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến
nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những
nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp
phần xây dựng Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền nói chung, các cấp Hội
nói riêng trong sạch, vững mạnh. Hoạt động phản biện xã hội của Hội góp
phần phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp
trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, chính quyền các
cấp; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn,
phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, của hội viên; phát huy dân chủ,
tăng cường đồng thuận xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giám sát của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng còn bộc lộ những hạn chế, nhược điểm nhất định.
Vẫn còn tình trạng cán bộ, hội viên của Hội nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn
về vị trí, vai trò của hoạt động giám sát, phản biện xã hội, dẫn đến tình trạng e
ngại, sợ va chạm trong giám sát, né tránh phản biện xã hội. Có lúc, có nơi
hoạt động giám sát và phản biện xã hội còn mang tính hình thức, thực hiện
qua loa, chiếu lệ cho có... Tình hình trên đây có ảnh hưởng nhất định tới vị
thế, uy tín của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nũng như các cấp Hội trong
việc thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội, làm suy hiệu quả của hoạt
động này.
Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao nhận thức, thực hiện đúng đắn,
đầy đủ vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát
và phản biện xã hội vừa là yêu cầu cấp thiết, vừa là nhiệm vụ cấp bách đang
3
được đặt ra đối với Hội nói chung, các cấp Hội nói riêng. Đó cũng là lý do
học viên lựa chọn chủ đề “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong
giám sát và phản biện xã hội” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành
Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Giám sát, phản biện xã hội là một trong những vấn đề quan trọng trong
đời sống chính trị ở nước ta hiện nay, bởi thông qua hoạt động giám sát, phản
biện xã hội sẽ thấy được sự tham gia của người dân, của các đoàn thể nhân
dân trong việc giám sát, kiểm tra các kế hoạch thực hiện phát triển kinh tế - xã
hội ở các cấp Hội, địa phương, tính dân chủ, minh bạch và công khai trong
đời sống xã hội. Đó cũng là lý do vấn đề giám sát, phản biện xã hội thu hút
được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu ở các
cấp độ, các cách tiếp cận khác nhau.
2.1. Các công trình nghiên cứu về giám sát, phản biện xã hội nói chung
- Trần Đăng Tuấn, Phản biện xã hội: một số vấn đề chung, Tạp chí
Cộng sản số 17 (tháng 9/2007); Phương thức thực hiện phản biện xã hội, Tạp
chí Cộng sản số 23 (tháng 12/2007). Trong hai bài viết này, tác giả đã luận
bàn dưới nhiều góc độ khác nhau về những vấn đề chung của phản biện xã
hội, phân tích khái niệm phản biện, phản biện xa hội, chủ thể, nội dung,
phương thức thực hiện phản biện xã hội; khẳng định vai trò quan trọng của
phản biện xã hội trong xây dựng chế độ dân chủ hiện đại và dân chủ pháp
quyền trong mọi chế độ xã hội, đặc biệt là trong trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; đề xuất các
giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của phản biện xã hội.
- Hồ Bá Thâm và Nguyễn Thị Tường Văn, Phản biện xã hội và phát
huy dân chủ pháp quyền, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Các tác giả
đã khảo sát thực trạng phản biện xã hội trên các vấn đề tham nhũng, đất đai, ô
nhiễm môi trường, giáo dục, y tế, giao thông... của Mặt trận Tổ quốc Việt
4
Nam thành phố Hồ Chí Minh như một mô hình phản biện xã hội ở Việt Nam;
từ đó, chỉ ra những khó khăn, trở ngại khi thực hiện phản biện xã hội ở nước
ta hiện nay.
- Ngọ Văn Nhân, Dư luận xã hội với tư cách là phương thức thực hiện
phản biện xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 5(105) 2007. Theo tác giả bài viết, việc tìm kiếm những phương thức cụ thể, hữu
hiệu để thực hiện phản biện xã hội ở nước ta hiện nay đang là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Do những đặc điểm, tính chất của
mình, dư luận xã hội được coi là một trong những kênh chủ yếu, là phương
thức để thực hiện phản biện xã hội. Nội dung của phản biện xã hội thông qua
dư luận xã hội là xác định tính đúng đắn, hợp lý; tính hợp hiến, hợp pháp; tính
tất yếu khách quan và tính khả thi của các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ
đặt ra trong các đường lối, chính sách kinh tế - xã hội, trong các dự án, dự
thảo luật của Đảng và Nhà nước. Để làm được điều đó thì nhất thiết phải tiến
hành điều tra, thăm dò dư luận xã hội.
- Hoàng Thị Ngân, Một số vấn đề về giám sát xã hội và phản biện xã
hội, bài tham luận tại Hội thảo khoa học “Vấn đề phản biện và giám sát xã hội
ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay - thực trạng và giải pháp” do Viện Nghiên
cứu khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 2007. Bài viết trình
bày khái lược về các vấn đề như khái niệm, nội dung, mục đíc, hậu quả, đặc
trưng, vai trò, ý nghĩa của giám sát và phản biện xã hội; chỉ ra những thuận
lợi và khó khăn trong thực hiện giám sát và phản biện xã hội.
- Trần Hậu, Các hình thức và giải pháp thực hiện giám sát xã hội và
phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, Đề tài
nghiên cứu khoa học thuộc Chương trình khoa học và công nghệ KX10.0610, Hà Nội, 2009. Công trình tập trung luận giải khái niệm giám sát xã hội và
phản biện xã hội, phân tích bản chất và nững đặc trưng cơ bản của hoạt động
giám sát và phản biện xã hội; vai trò, tác dụng của giám sát, phản biện xã hội
5
đối với quyền lực chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong điều
kiện cụ thể của nước ta; xác định chủ thể, khách thể, các hình thức, giải pháp
thực hiện giám sát xã hội và phản biện xã hội; vận dụng chúng để xử lý các tình
huống thực tiễn trong hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, có thể kể đến nhiều công trình nghiên cứu có liên quan khác,
như: Nguyễn Trọng Bình, Một số ý kiến về phản biện xã hội, Thông tin Nhà
nước và Pháp luật số 4/2007, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh; Trương Thị Hồng Hà, Xây dựng cơ chế pháp lý bảo
đảm cho nhân dân tham gia hoạt động giám sát và phản biện xã hội, Tạp chí
Cộng sản số 8)778)/2007, Hà Nội; Hoàng Hải, Về phản biện và giám sát xã
hội, Tạp chí Xây dựng Đảng số 9/2009; Trần Hậu, Góp phần tìm hiểu về phản
biện xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2009, Hà Nội; Trần Quang Hải,
Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội trong sự nghiệp đổi mới, Tạp chí
Cộng sản, số 17/2009, Hà Nội; Đoàn Minh Huấn, Vũ Thị Như Hoa, Một số
vấn đề về giám sát xã hội và phản biện xã hội, bài viết trong sách “Chính trị
học - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2010; Hoàng Minh Hội, Thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối
với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị,
Tạp chí Khoa học, Đại học quốc gia Hà Nội, số 2/2014, Hà Nội... Các công
trình, bài viết nêu trên đề cập một cách đa dạng, phong phú các vấn đề, khía
cạnh liên quan đến giám sát và phản biện xã hội. Những công trình này là nguồn
tài liệu tham khảo hữu ích đối với tác giả luận văn khi luận bàn các vấn đề về
kháu niệm, đặc trưng, vai trò của hoạt động giám sát và phản biện xã hội.
2.2. Các công trình nghiên cứu về giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đề án nghiên cứu “Phát huy
vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc”, Hà Nội, 2008. Đây là công
trình nghiên cứu khá quy mô của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập
6
hợp sự đóng góp ý kiến, các tham luận, thảo luận trong hội thảo của các nhà
khoa học, cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành; đã góp phần làm rõ quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về Mặt trận Tổ quốc
trong bối cảnh hiện nay, đánh giá thực trạng vai trò, vị trí, chức năng giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Thanh Bình, Điều kiện đảm bảo cho hoạt động giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp chí Mặt trận, số 70,
tháng 8/2009, Hà Nội. Nội dung bài viết khẳng định tính đúng đắn trong quan
điểm của Đảng về giám sát, phản biện xã hội; trên cơ sở đó, kiến nghị Đảng,
Nhà nước tạo các điều kiện, cơ chế cần thiết nhằm bảo đảm phát huy vai trò
của hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Nguyễn Đăng Dung, Cơ sở pháp lý nào cho sự hoàn thiện chức năng
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp chí Mặt
trận, số 81, tháng 7/2010, Hà Nội. Trong bài viết, từ sự phân tích chức năng
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, tác giả đi sâu vào việc luận
giải cơ sở pháp lý mà Nhà nước cần tập trung xây dựng, hoàn thiện nhằm phát
huy chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Trần Ngọc Nhẫn, Giám sát và phản biện xã hội là cơ chế quan trọng
để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy dân chủ, tham gia xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Mặt trận, số 88, tháng 2/2011, Hà Nội.
Từ sự phân tích khái niệm, bản chất của nền dân chủ, đặc trưng của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ghi nhận vai trò quan trọng của giám
sát và phản biện xã hội, tác giả bài viết khẳng định rằng, trong giai đoạn hiện
nay, giám sát và phản biện xã hội là cơ chế quan trọng để Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam phát huy dân chủ, tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
- Nguyễn Thọ Ánh, Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học
7
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2010. Xuất phát
từ quan điểm coi quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, tác giả luận án coi giám sát và phản biện xã hội là một trong những
phương thức cơ bản để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. là một yêu
cầu tất yếu khách quan của quá trình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Từ sự luận giải nội hàm khái niệm giám sát, phản biện xã hội nói chung, tham
chiếu hệ thống giám sát, phản biện xã hội của một số thể chế chính trị trên thế
giới, luận án đã luận giải chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện một đảng cầm quyền; khẳng định Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là một chủ thể đặc biệt, nhiều tiềm năng nhất trong thực
hiện giám sát và phản biện xã hội.
- Hoàng Thị Ánh, Giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội,
2015. Nội dung luận văn khoa học này đề cập cơ sở lý luận về giám sát, phản
biện xã hội, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng; từ đó, luận giải một số giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc thành
phố Đà Nẵng.
- Nguyễn Văn Pha, Để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện tốt vai trò
giám sát và phản biện xã hội, Tạp chí Xây dựng Đảng số 1+2/2016, Hà Nội.
Bài viết đề cập, phân tích nội hàm khái niệm giám sát, phản biện xã hội; đề
xuất một số cơ chế, chính sách, giải pháp có thể thúc đẩy Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát và phản biện xã hội.
- Liên quan đến vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam còn có hàng loạt bài viết đăng tải trên các tạp chí khoa học, như: Trần
Ngọc Nhẫn, Vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp chí
Lý luận chính trị, 2007, Hà Nội; Đặng Đình Tân, Lại bàn về giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí
8
Dân vận, số 08/2008; Minh Đức, Để thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
05/2008, Hà Nội... Các bài viết này đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong
thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong điều kiện một đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay; đưa ra một loạt các điều
kiện để thực hiện tốt chức năng này, như phải luật hóa chức năng giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phải tạo điều kiện và có cơ chế để
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện giám sát, phản biện xã hội trên thực tế, đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam...
Sự tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu khoa học đề cập, luận bàn một cách đa dạng, đa chiều về giám
sát, phản biện xã hội nói chung, về hoạt động giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công
trình nào nghiên cứu, đề cập chuyên sâu về hoạt động giám sát, phản biện xã hội
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Chính vì vậy, học viên chọn thực hiện đề
tài “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã
hội” với hy vọng kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có, tập trung nghiên cứu
về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã
hội; làm sáng tỏ thực trạng hoạt động giám sát, phản biện xã hội, các kết quả đạt
được và hạn chế, bất cập, cũng như chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá
thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám
sát, phản biện xã hội, xác định rõ nguyên nhân để từ đó đề xuất một số giải
pháp bảo đảm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong
giám sát, phản biện xã hội ở nước ta hiện nay.
9
3.2. Nhiệm vụ
Đề hiện thực hóa mục đích nghiên cứu, đề tài triển khai thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội.
Thứ hai, đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế,
bất cập trong việc thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong
giám sát, phản biện xã hội; làm rõ nguyên nhân dẫn đến thực trạng.
Thứ ba, đề xuất, luận giải tính khả thi của một số giải pháp phát huy vai
trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề vai trò của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn theo không gian, thời gian và
nội dung:
- Theo không gian: Đề tài giới hạn việc nghiên cứu vai trò giám sát,
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nói chung, của một số
cấp Hội tại các địa phương ở nước ta nói riêng
- Theo thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình triển khai
các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền từ năm 2014 đến năm 2018 trong hệ thống Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam.
- Theo nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ vai trò của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
Triết học Mác - Lênin về hệ thống chính trị, về các tổ chức chính trị - xã hội;
10
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, về giám sát và phản biện xã hội...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng các
phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương
pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp phân tích nguồn thông tin, tài liệu có sẵn;
phương pháp thống kê; phương pháp so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Đề tài góp phần khái quát hóa, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về vai trò
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội; đánh
giá được thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
trong giám sát và phản biện xã hội, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số bài
học kinh nghiêm; đồng thời đề xuất, luận giải được một số giải pháp khoa
học, khả thi nhằm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong
giám sát và phản biện xã hội.
6.2. Về mặt thực tiễn
Với những kết quả nghiên cứu đạt được, đề tài có ý nghĩa thực tiễn
quan trọng, có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với học viên, sinh
viên các cơ sở giáo dục đại học trong quá trình học tập, nghiên cứu những vấn đề
có liên quan đến giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể là nguồn tài liệu tham khảo
hữu ích đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nói chung, các cấp Hội, hội
viên nói riêng trong việc triển khai giám sát, phản biện xã hội phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ của từng cấp Hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu gồm 03 chương, 11 tiết.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
1.1. Quản lý nhà nước về hoạt giám sát, phản biện xã hội
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm giám sát
Giám sát là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản của
Đảng và Nhà nước; tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có được sự thống nhất
trong cách hiểu khái niệm này. Theo Từ điển Tiếng Việt, giám sát được hiểu
là “sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định”; hoặc
được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy
định không” [37, tr.55]. Còn theo Từ điển Luật học, “Giám sát là sự theo dõi,
quan sát mang tính chủ động thường xuyên của các cơ quan tổ chức và nhân
dân đối với hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát và tác động bằng các
biện pháp tích cực để buộc và hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy
chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm
cho hiến pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh” [51, tr.292].
Theo cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Giám sát là sự theo dõi, kiểm tra, phát hiện,
đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người này đối với cá nhân, tổ chức,
cộng đồng người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế- xã hội; trong việc
thực hiện chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật,
chính sách của Nhà nước, các quyền, nghĩa vụ công dân, của các tổ chức
chính trị- xã hội và những kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối
với các nhân, tổ chức có những hành vi sai trái” [30, tr.149].
Theo Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số
12
217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị): “Giám sát là việc theo dõi,
phát hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ
chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước về
việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước” [4, tr.2].
Như vậy, giám sát phải luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải
trả lời được các câu hỏi: giám sát ai? giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa rất
quan trọng ở chỗ, nó giúp phân biệt “hoạt động giám sát” với “hoạt động
kiểm tra”. Trong “hoạt động kiểm tra” thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu
sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, như việc tự kiểm tra
của chủ thể hoạt động. Nói cách khác, chủ thể của hoạt động kiểm tra hoàn
toàn có thể tự mình căn cứ vào chương trình, mục tiêu, kế hoạch đã đề ra để
tự xem xét, đánh giá tình trạng tốt, xấu của công việc mình đang làm. Còn
trong “hoạt động giám sát” thì chủ thể không thể tự mình giám sát hoạt động
của chính mình được, nghĩa là không thể “tự ngắm mình” được, mà hoạt động
giám sát là hoạt động của chủ thể ở bên ngoài hệ thống hướng tới “theo dõi,
xem xét”đối tượng thuộc một hệ thống khác, tức là chủ thể thực hiện hoạt
động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát không nằm trong cùng một hệ
thống phụ thuộc nhau.
Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá có tính
bao quát của chủ thể từ bên ngoài hệ thống đối với đối tượng không nằm
trong cùng một hệ thống phụ thuộc nhau nhằm bảo đảm việc thực hiện đúng
những chuẩn mực, quy định.
Trên bình diện chung, hoạt động giám sát được tiến hành trên cơ sở các
quyền và nghĩa vụ của chủ thể tiến hành hoạt động giám sát và đối tượng chịu
sự giám sát. Hoạt động giám sát có thể mang tính quyền lực nhà nước hoặc
không mang tính quyền lực nhà nước tùy thuộc vào chủ thể tiến hành hoạt
động giám sát:
13
- Hoạt động giám sát mang tính quyền lực nhà nước được tiến hành bởi
chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một hay một số hệ
thống cơ quan nhà nước khác. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 69 Hiến
pháp năm 2013, Quốc hội thực hiện việc giám sát tối cao đối với hoạt động
của Nhà nước (Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao); thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội (Điều 70). Hoặc, hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương.
- Hoạt động giám sát không mang tính quyền lực nhà nước là loại hình
giám sát được tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà nước, như hoạt động giám
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ
quốc (Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Nông dân...) và công dân đối với bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước; hoặc đơn giản chỉ là hoạt động giám sát quá trình thi công
một công trình.
1.1.1.2. Khái niệm hoạt động phản biện xã hội
Trong đời sống chính trị của một đất nước, các thiết chế cầm quyền
luôn đứng trước nhu cầu là phải lựa chọn, đắn đo cân nhắc trong số rất nhiều
các dữ kiện chủ quan và khách quan cũng như các lợi ích của các giai cấp, các
nhóm xã hội, dân tộc, quốc tế.v.v. khác nhau để đưa ra những quyết sách
đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất nhằm giải quyết những vấn đề mà thực tiễn
cuộc sống đặt ra. Do vậy, họ cố tranh thủ ý kiến, nhận xét, đánh của các tổ
chức, cá nhân, cộng đồng xã hội. Các lực lượng xã hội khác nhau, vì lợi ích
của chính mình và lợi ích chung của cả cộng đồng cũng dưới hình thức này
hoặc bằng hình thức khác cũng tìm cách đưa ra những quan điểm, chính kiến
của mình xung quanh những các vấn đề mà họ quan tâm. Kết quả là, nhờ
thông qua sự tranh luận, nhận xét, đánh giá, tìm tòi mà các chủ thể khác nhau
đã đưa ra được những quyết sách đúng đắn, phù hợp nhất có thể, áp dụng vào
14
cuộc sống để đem lại lợi ích chung cho tổ chức, cộng đồng, đất nước. Đó là
lúc chúng ta nói đến hoạt động phản biện xã hội.
Phản biện xã hội khác với phản biện khoa học. Phản biện khoa học là
hình thức được áp dụng khi tiến hành nghiên cứu, xét duyệt, nghiệm thu các
công trình nghiên cứu khoa học để đưa ra các quyết định về tính đúng sai; chủ
thể tiến hành các cuộc phản biện khoa học là hội đồng nghiệm thu, đánh giá
các công trình nghiên cứu khoa học, đề án, dự án có những thẩm quyền xác
định (nghiệm thu - không nghiệm thu, tán thành - không tán thành) đối với
công trình nghiên cứu, phát minh, sáng chế được đưa ra xét duyệt, còn phản
biện xã hội là hình thức được áp dụng để tìm được sự đồng thuận xã hội về lợi
ích trong thẩm định, xét duyệt các chủ trương, đường lối, trong ban hành các
đạo luật, trong hoạch định các đề án, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội. Chủ thể phản biện xã hội rất rộng, bao gồm toàn bộ xã hội nói chung,
song không nằm trong quan hệ “đối lập hai bên” với bên đề ra chủ trương,
đường lối, chính sách, kế hoạch (Đảng, cơ quan nhà nước, cơ quan đề xuất
sáng kiến pháp luật, chủ đầu tư...); mà giữa chủ thể phản biên và chủ thể được
phản biện gắn kết với nhau trong một mối quan hệ thống nhất, ràng buộc lẫn
nhau và cùng hướng tới mục tiêu chung. Phản biện xã hội gắn với hoạt động
công quyền, có tính chính trị - pháp lý. Đặc trưng cơ bản của phản biện xã hội
(phân biệt với phản biện trong các lĩnh vực khác như tranh tụng tư pháp, nghiên
cứu khoa học, thẩm định chất lượng các báo cáo, đề án) thể hiện ở chỗ, phản
biện xã hội là phản biện đối với hoạt động tổ chức và thực thi quyền lực chính trị
mà ở đó, quan hệ giữa các chủ thể - phản biện và được phản biện - nằm trong
mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau: một bên là những thiết chế đại diện có trách
nhiệm đưa ra các quyết định lãnh đạo, quản lý chung đối với xã hội; bên kia là
các cá nhân công dân và các tổ chức xã hội, đoàn thể nhân dân có mối liên hệ về
quyền dân chủ, về quyền công dân và sự quan tâm đến lợi ích chung đã đứng ra
nêu lên nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến về những vấn đề do các thiết chế thực
15
thi quyền lực công đưa ra với mong muốn quyết định đó trở nên phù hợp hơn,
khả thi hơn và đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Phản biện xã hội là phản
biện mang tính nhân dân, tính xã hội rộng rãi.
Hoạt động phản biện xã hội với nội dung này đã luôn hiện hữu trong
các chế độ nhà nước từ trước đến nay. Từ ngàn xưa, đó là chế độ “chiêu hiền,
đãi sĩ” để tranh thủ ý kiến người hiền tài, là chế độ can gián vua chúa. Trong
chế độ tư bản đó là hoạt động đảng phái đối lập, lobby, mít tinh, biểu tình.
Còn trong chế độ ta, biểu hiện rõ rệt nhất là nguyên tắc đấu tranh phê bình và
tự phê bình trong Đảng, sự xem xét, đánh giá hoạt động trong các cơ quan, tổ
chức nhà nước. Sự phê bình không phải đơn giản chỉ là nhận xét cá nhân, sự
phê phán giữa các cá nhân với nhau, mà phải hiểu sâu xa hơn là cả sự phản
biện chủ trương, đường lối, chính sách.
Ở nước ta, phản biện hay phản biện xã hội được đề cập nhiều trong
khoảng 15 năm trở lại đây. Phản biện xã hội dần trở thành một chức năng
quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Một số nhà khoa học cho rằng, phản biện xã hội là nhận xét, đánh giá
của xã hội, của nhân dân và các nhà khoa học về nội dung, phương hướng,
chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công
nghệ, giáo dục, y tế, môi trường, trật tự, an ninh... Theo cuốn Tìm hiểu một số
thuật ngữ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng:
“Phản biện là nhận xét, đánh giá, bình luận, thẩm định công trình khoa học,
dự án, đề án trong các lĩnh vực khác nhau, là sự phát hiện sai trái và có lập
luận về sự sai trái, bắt buộc giải trình” [30, tr.151]; còn “Phản biện xã hội là
sự phản biện nói chung, nhưng là phản biện nằm ngoài nhà nước, mang tính
xã hội, có quy mô và lực lượng rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân và các
nhà khoa học về nội dung, phương hướng, chủ trương giải pháp phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại của Đảng, Nhà nước
và các tổ chức liên quan” [30, tr.151].
16
Khi hoạt động phản biện xã hội diễn ra, người ta hiểu rằng, trước đó đã
tồn tại một số vấn đề nhất định trong sự kiến tạo chính sách, pháp luật của cơ
quan nhà nước chuyên trách công việc này và khiếm khuyết ấy có thể làm cho
bản thân chính sách, pháp luật đó trở nên bất khả thi khi áp dụng vào điều
kiện thực tế - không loại trừ khả năng gây nên những hiệu ứng tiêu cực cho
các đối tượng chịu tác động trực tiếp của chúng; chẳng hạn, các cộng đồng
dân tộc thiểu số hay các nhóm dân cư nông thôn. Cho nên, phản biện xã hội
thực chất là đưa ra một cách nhìn khác của cộng đồng xã hội đối với chất
lượng và triển vọng của chính sách, pháp luật - một cách “nhìn từ bên ngoài”
so với cách “nhìn từ bên trong” của người trong cuộc. Hơn nữa, vì đại diện
cho trí tuệ và lương tâm cộng đồng nên tự thân cách “nhìn từ bên ngoài” cũng
đã hàm chứa tinh thần mới mẻ, khoa học và thực tiễn.
Phản biện xã hội là một nhu cầu tất yếu, khách quan trên con đường
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Để
hướng tới một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, phản biện xã hội được
coi là hoạt động không thể thiếu, là một trong những phương thức đặc trưng
của việc thực thi nền dân chủ. “Phản biện xã hội là sự phản ánh những dư
luận xã hội, ý kiến, kiến nghị và kháng nghị của cộng đồng xã hội, của tập
thể, tập đoàn người (xây dựng trên mối quan hệ chung về sản xuất, gia đình,
chính trị, văn hóa, phong tục, tập quán, lễ giáo...) về một hay nhiều sự việc,
vấn đề có liên quan đến lợi ích chung của cộng đồng, tập thể, tập đoàn người
ấy trên cơ sở tổng hợp, phân tích, lập luận (luận giải) khách quan, khoa học,
có tính thuyết phục nhằm phân định rõ giữa cái tốt với cái xấu, cái đúng với
cái sai, cái khẳng định với cái phủ định, cái được với cái chưa được, cái hoàn
thiện với cái cần tiệp tục hoàn thiện... nhằm đáp ứng đúng những yêu cầu do
cuộc sống đặt ra, thỏa mãn được lợi ích chung của cộng đồng, tập thể, tập
đoàn cũng như của toàn xã hội” [50, tr.54].
17
Từ những điểm phân tích, luận giải nêu trên, có thể định nghĩa: Phản
biện xã hội là hoạt động phân tích, luận chứng một cách khách quan, khoa
học về tính đúng đắn, hợp lý của các đường lối, chính sách, quyết định liên
quan tới lợi ích chung của các cộng đồng xã hội do các chủ thể lãnh đạo,
quản lý xã hội đưa ra dựa trên các ý kiến, kiến nghị của các tầng lớp xã hội.
Xét theo phạm vi, phản biện xã hội có thể được phân chia thành phản
biện xã hội phạm vi rộng và phản biện xã hội phạm vi hẹp.
Đối tượng của phản biện xã hội phạm vi rộng là các chủ trương, đường
lối, chính sách, quyết định lớn, các dự thảo, dự án luật... Bất cứ cá nhân, tổ
chức, tầng lớp xã hội nào cũng có thể tham gia phản biện phạm vi rộng, trong
đó, ba chủ thể chính và cũng là ba kênh chính để thực hiện phản biện xã hội
gồm: (i) Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp mà quan
trọng nhất là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; (ii) Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp; (iii) Dư luận xã hội.
Phản biện xã hội phạm vi hẹp là loại phản biện được tiến hành trong
phạm vi đối tượng tham gia hẹp, không thông tin và công bố rộng rãi về quá
trình và nội dung phản biện. Đối tượng của phản biện phạm vi hẹp là những
chính sách, đề án có tính chuyên biệt cao, chưa chính thức trở thành chủ
trương của nhà nước, có thể bị kẻ địch lợi dụng để xuyên tạc hoặc có thể gây
nguy hại cho nền an ninh quốc gia... Chủ thể của phản biện phạm vi hẹp
phải là các chuyên gia, các nhà khoa học, các cơ quan, đơn vị có chuyên
môn sâu, có khả năng đưa ra các nhận xét, đánh giá, quan điểm mang tính
khoa học cao [33, tr.82-83].
1.1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản biện
xã hội
Trên diễn đàn khoa học quản lý hiện nay, khái niệm quản lý đã có được
cách hiểu tương đối thống nhất, theo đó, quản lý là sự tác động liên tục, có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trên các mặt
18
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... thông qua hệ thống chính sách, pháp luật,
các nguyên tắc, quy định và bằng các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi
trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng quản lý. Như vậy, hiểu
một cách đơn giản nhất, quản lý chính là sự tác động của chủ thể quản lý tới
đối tượng quản lý thông qua các công cụ quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý nhà nước là một dạng đặc biệt của quản lý xã hội, mang tính
quyền lực nhà nước. Đặc trưng nổi bật của quản lý nhà nước là sử dụng chính
sách, pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội do các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước thực hiện
nhằm phục vụ nhân dân, duy trì trật tự, kỷ cương, bảo đảm sự ổn định và
phát triển của xã hội. Theo nghĩa rộng, hoạt động quản lý nhà nước có 03
chức năng cơ bản, gồm: (i) Chức năng lập pháp do cơ quan lập pháp thực
hiện; (ii) Chức năng hành pháp (chấp hành và điều hành) do hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước đảm nhiệm; (iii) Chức năng tư pháp do các cơ
quan tư pháp thực hiện.
Tuy vậy, nếu hiểu theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động hành
chính do cơ quan thực thi quyền lực nhà nước (quyền hành pháp) triển khai
thực hiện nhằm quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy
định của pháp luật. Theo nghĩa này, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động
quản lý được giới hạn trong các cơ quan hành pháp, gồm Chính phủ và Uỷ
ban nhân dân các cấp. Hệ thống các cơ quan quyền lực, xét xử và kiểm sát
thực hiện quyền lập pháp và tư pháp không thuộc hệ thống quản lý hành chính
nhà nước. Nếu tiếp cận khái niệm quản lý nhà nước dưới góc độ này thì quản
lý nhà nước có 02 chức năng cơ bản, bao gồm: (i) Chức năng lập quy, được
thực hiện bằng việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để
hướng dẫn việc thực hiện pháp luật; (ii) Chức năng tổ chức, điều hành, phối
hợp các hoạt động kinh tế - xã hội để đưa pháp luật đi vào thực tiễn đời sống
xã hội.
19
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, với mục đích
tăng cường sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân, nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm tra, giám sát, Đảng ta chủ trương: “Xây dựng quy chế giám
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết
định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và
cán bộ” [12, tr.135].
Trong thời kỳ tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, việc phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị được Đảng,
Nhà nước ta xác định là yêu cầu, nhiệm vụ, giải pháp đặc biệt quan trọng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt
trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ,
phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.
Các đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được
xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính
sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn
viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây
dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội” [10, tr.87].
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 cũng đã khẳng định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã
.
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
20
thức; 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”.
Với những tư duy chính trị - pháp lý mới đó, lần đầu tiên ở nước ta có
sự phân công quyền lực nhà nước một cách rành mạch giữa các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp và kiểm soát quyền lực trở thành một nguyên tắc
hiến định. Đến nay, bộ máy nhà nước được xây dựng và hoàn thiện thêm một
bước; nhiệm vụ và quyền hạn của các thiết chế trong bộ máy nhà nước được
quy định một cách minh bạch, hạn chế được sự dựa dẫm, ỷ lại; nhân dân có
điều kiện để đánh giá hiệu lực và hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mỗi quyền; giữa các quyền có điều kiện để kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước được giao. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt
động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và
các tổ chức chính trị - xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước
được tăng cường.
Trong bộ máy nhà nước, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước có
vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Hoạt động của hệ thống cơ quan này diễn
ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, tác động trực tiếp và thường xuyên
đến quyền, lợi ích của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần xã hội. Do
vậy, hoạt động kiểm tra, giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước là yêu
cầu khách quan, cần thiết và không chỉ đơn thuần từ phía các cơ quan nhà
nước, mà quan trọng hơn là cần phải thiết lập được cơ chế giám sát bên ngoài,
trước hết là cơ chế giám sát thường xuyên và có hiệu quả từ phía nhân dân đối
với cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan hành chính nhà nước nhằm bảo
đảm tất cat quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.
Như vậy, quản lý nhà nước về hoạt động giám sát và phản biện xã hội
được hiểu là các cơ quan quản lý nhà nước dùng quyền lực nhà nước (quyền
hành pháp) quản lý tất cả các hoạt động giám sát và phản biện xã hội trên tất
21