LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Vũ Trọng Hách. Các số liệu thống kê, kết quả nghiên
cứu là trung thực, bảo đảm tính khách quan, khoa học và chưa từng được công
bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào.
Các số liệu, tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn đều có chú thích
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2018
Tác giả
Đỗ Hoàng Khang
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài “Quyền của bị can trong giai đoạn
khởi tố vụ án - Từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng” tác giả
luận văn đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ và động viên của quý
thầy, cô, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè.
Trước tiên tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc,
Ban Quản lý Đào tạo Sau đại học - Học viện Hành chính Quốc gia.
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với thầy PGS.TS. Vũ
Trọng Hách, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn
này.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Công an quận Hồng Bàng và
Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi được tham dự khóa học và cung cấp tài liệu báo cáo cho tôi
hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tác giả luận văn luôn ghi nhớ sâu sắc những tình cảm quan tâm
của gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên, khích lệ và giúp đỡ trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2018
Tác giả
Đỗ Hoàng Khang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA BỊ
CAN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................................... 8
1.1. Khái quát chung về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ...... 8
1.2. Ý nghĩa và nội dung của bảo đảm thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự ....................................................................................................... 17
1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền của bị can ....................................... 26
Chương 2 : THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI
ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HỒNG BÀNG,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG........................................................................................... 34
2.1. Thực trạng khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố
Hải Phòng ......................................................................................................................... 34
2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về quyền của bị can trong
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tại quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng ............ 39
2.3. Những hạn chế trong thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự và nguyên nhân ............................................................................................. 46
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN – TỪ THỰC TIỄN QUẬN HỒNG
BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ............................................................................. 56
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ... 56
3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự ....................................................................................................................................... 60
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 85
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Số trang
Bảng 2.1.
Số liệu khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn quận Hồng
38
Bàng thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến 2017
Bảng 2.2.
Tổng hợp số vụ án được đưa ra khởi tố và số vụ án
40
không đưa ra khởi tố trên địa bàn quận Hồng Bàng
thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến 2017
Bảng 2.3.
Tổng số vụ án và người không tiến hành khởi tố vụ án
40
hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn
quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến
2017
Bảng 2.4.
Tổng số tin báo tội phạm và giải quyết tin báo tội
40
phạm trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng
từ năm 2013 đến 2017
Bảng 2.5.
Số liệu phân loại tin báo tội phạm trên địa bàn quận
Hồng Bàng thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến 2017
1
41
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
NNPQ Nhà nước pháp quyền
QCN Quyền con người
THTT Tiến hành tố tụng
TTHS Tố tụng hình sự
VKS Viện kiểm sát
VAHS Vụ án hình sự
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là trách nhiệm mà
Đảng và Nhà nước ta hướng tới trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền
(NNPQ). Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu lên những vấn đề cần phải
đảm bảo như quyền con người, sự dân chủ hóa trong hoạt động tư pháp nhằm
xây dựng một nền tư pháp vững mạnh, hạn chế đến mức thấp nhất việc oan sai,
bỏ lọt tội phạm trong các vụ án hình sự (VAHS).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền
làm chủ của nhân dân” [24]. Gần đây, thể chế hóa đường lối của Đảng, Hiến
pháp năm 2013, Chương về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân” đã được đưa lên vị trí thứ 2, chỉ sau Chương I về “Chế độ chính trị”.
Quy định này phản ánh quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong
thực hiện quyền con người, quyền công dân [51]. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm
2013 còn quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con
người, quyền và nghĩa vụ công dân.
Từ khi Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 được ban hành và có
hiệu lực thi hành, việc quy định quyền của những người tham gia tố tụng trong
VAHS đã được định hình khá rõ và ngày càng được các văn bản hướng dẫn cố
gắng hoàn thiện phù hợp với tình hình phát triển của kinh tế xã hội, xu thế phát
triển của nền kinh tế và các hiệp ước mà Việt Nam ký kết với các khối kinh tế
trên thế giới và gần đây nhất là việc ban hành BLTTHS 2015 lần đầu tiên trong
lịch sử tố tụng Việt Nam xuất hiện khái niệm bị can, bị cáo là pháp nhân. Tuy
nhiên, qua quá trình thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng nói
1
chung mà đặc biệt là quyền của bị can nói riêng trong thực tiễn vẫn chưa được
hiệu quả. Bị can với địa vị pháp lý bất lợi của mình khi tham gia vào các hoạt
động tố tụng hình sự (TTHS) thường gặp những trở ngại khi thực hiện các
quyền của mình
Việc bảo đảm thực hiện các quyền của con người nói chung và quyền của
bị can nói riêng bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để
thực hiện quyền con người, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật TTHS. Hoạt
động TTHS chính là công cụ sắc bén của Nhà nước và xã hội trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo vệ cuộc sống bình yên, bảo đảm những giá trị vật
chất, tinh thần chân chính của con người và xã hội. Việc quy định và bảo đảm
quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS bằng hoạt động của các cơ quan
THTT trong việc thực thi pháp luật có hiệu quả là hết sức quan trọng. Bởi quyền
của bị can trong TTHS là một trong những nội dung thể hiện quyền con người
trong TTHS là quyền dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương, nhất là quyền an toàn
về thân thể (quyền được sống, được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe…), danh
dự và nhân phẩm của cá nhân. Khởi tố VAHS là giai đoạn TTHS đầu tiên mà
trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của
pháp luật TTHS tiến hành việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội
phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành
quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) VAHS liên quan đến hành vi
đó.
Quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng là một quận trung tâm, với dân số
đông, tốc độ phát triển kinh tế xã hội nhanh, các giao dịch dân sự, kinh tế diễn ra
sôi động. Chính vì lẽ đó, tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn quận Hồng Bàng
diễn ra rất phức tạp. Hàng năm, Cơ quan điều tra (CQĐT) công an quận Hồng
Bàng khởi tố hàng trăm vụ án với hàng trăm bị can, số lượng VAHS đã khởi tố
trên địa bàn quận Hồng Bàng luôn dẫn đầu toàn thành phố Hải Phòng. Trong
quá trình giải quyết VAHS nói chung trong đó có hoạt động khởi tố VAHS nói
riêng các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về
2
bảo đảm quyền của bị can nói chung trong TTHS. Tuy nhiên, có những thời
điểm, tại một số vụ án cụ thể vấn đề này chưa thực sự được quan tâm, còn xảy ra
một số hạn chế, tồn tại nhất định.
Thực tiễn cho thấy, trong quá trình giải quyết VAHS trong đó có giai
đoạn khởi tố VAHS nhìn chung quyền và lợi ích hợp pháp của công dân về cơ
bản đã được bảo đảm, đã hạn chế được tình trạng oan, sai. Tuy nhiên, thực tế
vẫn còn có nhiều trường hợp các cơ quan THTT, đặc biệt là CQĐT chưa bảo
đảm thực hiện đầy đủ các quyền của bị can đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố
VAHS. Có thể là các cơ quan tố tụng và những người THTT lạm dụng việc bắt
giữ, khởi tố, bắt tạm giam sau đó phải đình chỉ điều tra do không phạm tội…
Việc nghiên cứu vấn đề về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các
vụ án hình để đánh giá thực trạng, làm rõ nguyên nhân và đề xuất những giải
pháp hoàn thiện Bộ luật TTHS (BLTTHS), là hết sức cần thiết, góp phần nâng
cao nhận thức của cán bộ, điều tra viên, kiểm sát viên về vai trò, trách nhiệm,
quyền hạn của mình trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công,
nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội pham, bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tư an toàn xã hội, bảo đảm các quyền con người, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
Với lý do đó, học viên đã chọn đề tài “Quyền của bị can trong giai đoạn
khởi tố vụ án - Từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng”, làm đề
tài Luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền con người nói
chung, quyền của bị can trong TTHS nói riêng như:
- “Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS
trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam” [8]. Đề tài khoa học cấp Đại học
Quốc gia Hà Nội, do Lê Văn Cảm; Nguyễn Ngọc Chí và Trịnh Quốc Toản đồng
chủ trì, năm 2005. Đây là công trình nghiên cứu trực tiếp về vấn đề bảo đảm
quyền con người trong luật hình sự và TTHS. Trong nội dung nghiên cứu của
3
công trình cũng có những nội dung đề cập trực tiếp đến việc bảo vệ quyền con
người dưới góc độ áp dụng biện pháp ngăn chặn.
- Luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can
trong TTHS Việt Nam” [57], của Lại Văn Trình, TP. Hồ Chí Minh, bảo vệ năm
2011. Đây là công trình nghiên cứu trực tiếp về bảo đảm quyền của người bị bắt
tạm giữ, tạm giam. Biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp ngăn
chặn tác động tiêu cực tới đảm bảo quyền của người bị áp dụng, do đó cần phải
tiến hành một cách chặt chẽ và đảm bảo điều kiện cũng như thủ tục nghiêm túc.
- Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS [10], của Nguyễn
Ngọc Chí (2007), Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật (23). Trong bài
viết của mình, tác giả phân tích về những nội dung liên quan đến bảo đảm quyền
con người bằng pháp luật TTHS có liên quan.
Đặc biệt nghiên cứu về địa vị pháp lý của bị can trong TTHS đặc biệt là
quyền của bị can trong TTHS có thể thấy một số công trình sau:
- Luận án tiến sỹ luật học “Hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về
quyền của bị can, bị cáo” năm 2015 của tác giả Nguyễn Sơn Hà; Đề tài khoa học
cấp Đại học quốc gia “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp
luật TTHS trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam” - Khoa Luật Đại học
quốc gia Hà Nội năm 2006; Các bài tạp chí “Bảo đảm quyền của người bị bắt,
người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong TTHS Việt Nam” của Hoàng Thị
Minh Sơn, Tạp chí Luật học số 3/2011; Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát số 01/2009; “Bảo vệ quyền con
người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp” của Trần Văn Độ, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2011; Võ Quốc Tuấn
(2015), “Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động tranh luận tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm các VAHS”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7...
Các công trình khoa học, bài viết nêu trên, các tác giả đã luận giải những
vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung
hoặc quyền con người của một nhóm đối tượng nhất định (như người bị tạm giữ,
4
bị can nói chung hoặc người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can), trong
toàn bộ quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử, hoặc chỉ tập
trung vào giai đoạn xét xử VAHS. Trong Luận văn, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu
về vấn đề quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS nhằm đưa ra những đánh
giá về thực trạng quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS, từ đó đề ra
những giải pháp hoàn thiện nhằm phát huy các phương thức đảm bảo quyền của bị
can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc xâm
phạm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để
thực hiện luận văn, tác giả đã lựa chọn, kế thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận, trên cơ sở khảo sát thực tiễn, làm rõ những vướng
mắc, khó khăn và những hạn chế để đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện quyền của bị can trong TTHS, đặc biệt là trong giai đoạn
khởi tố các VAHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như khái
niệm quyền của bị can, quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án, đặc điểm
của quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS, quy định của pháp luật
TTHS về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS.
- Phân tích thực trạng quy định về quyền của bị can trong giai đoạn khởi
tố các VAHS theo BLTTHS năm 2015 có so sánh đối chiếu với các quy định
của BLTTHS trước đó. Từ đó rút ra những hạn chế, bất cập của một số quy định
pháp luật và hạn chế, bất cập trong thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong
giai đoạn khởi tố các VAHS những năm qua.
5
- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong TTHS nói chung
và trong giai đoạn khởi tố VAHS nói riêng trên địa bàn quận Hồng Bàng thành
phố Hải Phòng, từ đó đánh giá được những ưu điểm và hạn chế bất cập trong
thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao thiệu quả bảo đảm quyền của bị
can trong giai đoạn khởi tố các VAHS theo BLTTHS ở Việt Nam hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên
quan đến quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS theo quy định của
BLTTHS 2015 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải
Phòng.
Về thời gian Luận văn nghiên cứu: Những vấn đề thực tiễn liên quan đến
đề tài gắn với quá trình thi hành BLTTHS năm 2003 và 2015 trong địa bàn quận
Hồng Bàng thành phố Hải Phòng trong 05 năm (2013-2017).
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người, các quan điểm của Đảng về cải
cách tư pháp, về xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể và
đặc thù của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính như: phương pháp
phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra,
Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác
như: phương pháp logic, các phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê... để tổng
hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu
trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp khoa học của Luận văn
6
Luận văn đề cập một số vấn đề lý luận về quyền con người, quyền của bị
can trong TTHS, đặc biệt là luận giải việc bảo đảm quyền của bị can trong một
giai đoạn tố tụng cụ thể là giai đoạn khởi tố VAHS. Làm rõ cơ sở xác định nội
dung, mục đích, nhiệm vụ bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các
VAHS.
Phân tích và đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về quyền của bị
can trong giai đoạn khởi tố các VAHS cũng như thực tiễn thực hiện quyền của
bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố
Hải Phòng. Thông qua đó, Luận văn đưa ra được số giải pháp, kiến nghị sửa đổi,
bổ sung BLTTHS và một số các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền của bị can trong
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng
Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện quyền của bị can
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự - từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố
Hải Phòng
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái quát chung về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự
Để xác định được vấn đề quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố chúng
ta cần xác định các nội dung sau:
1.1.1. Khái niệm quyền của bị can
* Khái niệm bị can
Trong các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng thường quy định các
chủ thể tham gia tố tụng và nêu định nghĩa thế nào là bị can tùy vào các đặc
điểm, tùy vào các giai đoạn THTT khác nhau. Do đó, nghiên cứu và tìm ra một
khái niệm thống nhất về bị can trong pháp luật TTHS là điều cần thiết để đi đến
nghiên cứu địa vị pháp lý nói chung hay quyền của bị can nói riêng.
Bị can là người bị buộc tội. Những người này chưa có bản án, quyết định
kết tội của Tòa án có hiệu lực nên họ không bị coi là có tội. Đây là nguyên tắc
cơ bản, có tính hiến định. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [51].
Những chủ thể bị buộc tội được xác lập địa vị pháp lý tùy theo các giai
đoạn tố tụng khác nhau, qua đó có các chủ thể được định danh thành các khái
niệm cụ thể. Từ trước tới nay, chưa có khái niệm bị can mang tính pháp lý. Ngay
cả BLTTHS năm 2015 cũng chỉ quy định mang tính chỉ định, liệt kê từng chủ
thể mà theo luật trong từng trường hợp khác nhau họ có tên gọi khác nhau trong
hoạt động TTHS. BLTTHS năm 2015 cũng quy định tương tự như vậy, mặc dù
lần đầu tiên trong lịch sử tố tụng thừa nhận bị can có thể là pháp nhân.
Từ những phân tích trên tác giả cho rằng, khi đưa ra khái niệm về một chủ
thể có địa vị pháp lý trong TTHS thì khái niệm đó cần phải thể hiện được nội
8
dung các thành tố tạo nên chủ thể đó. Cho nên, khái niệm bị can phải có đầy đủ
các yếu tố tạo nên một khái niệm, không thể chỉ dưới hình thức liệt kê là các chủ
thể tham gia tố tụng theo luật định. Bị can là người bị tình nghi phạm tội tuy
nhiên không phải tình nghi một cách thiếu căn cứ, mà sự tình nghi này phải
được đặt trong một tiến trình TTHS theo luật định. Việc tình nghi phạm tội trong
TTHS khác với sự ngờ vực hay suy đoán chủ quan mang tính cảm tính của cơ
quan cơ quan THTT, người THTT với một cá nhân bình thường trong đời sống
xã hội.
Người bị tình nghi phạm tội được đặt trong bối cảnh bị cơ quan cơ quan
THTT, người THTT thực hiện quyền lực nhà nước dựa vào các căn cứ trên thực
tế để xác định rằng người bị tình nghi đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội và
hành vi này được quy định trong BLHS là tội phạm. Không dừng lại ở đó, bị can
phải là người đã bị cơ quan cơ quan THTT, người THTT đưa ra một quyết định
cụ thể như quyết định khởi tố bị can. Các quyết định đó đều gắn với chủ thể bị
buộc tội và họ có các quyền và nghĩa vụ được luật định trong các giai đoạn tố
tụng khác nhau, họ trở thành những người tham gia tố tụng.
Những điều cơ bản được trình bày ở trên hoàn toàn tách biệt bị can theo
pháp luật TTHS đối với những đối tượng bị tình nghi là đã có hành vi trái pháp
luật trong trường hợp bình thường khác khác.
Ví dụ: - A lén lút lấy trộm điện thoại iphone 6s của B để trên quầy hàng
và bị C, D phát hiện bắt quả tang. Trong trường hợp này thì rõ ràng A đã có
hành vi trộm cắp được quy định trong BLHS. Tuy nhiên, lúc này A chưa thể
xem là bị can trong TTHS. Từ những nội dung đã nêu ở trên chúng tôi đưa ra
khái niệm bị can trong TTHS như sau:
Bị can là đối tượng bị điều chỉnh bởi các quyết định tố tụng của cơ quan
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật khi có căn cứ rằng chủ thể đó có dấu
hiệu thực hiện hành vi phạm tội hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội được quy
định trong BLHS.
* Khái niệm quyền của bị can trong tố tụng hình sự
9
Trước khi bàn đến khái niệm quyền của bị can cần tìm hiểu khái niệm
quyền và quyền con người, quyền công dân. Quyền là điều mà pháp luật hoặc xã
hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi. Về khái niệm quyền
con người, hiện nay có nhiềuf. định nghĩa khác nhau. Một định nghĩa phổ biến
thường được trích dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: Quyền
con người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được
thừa hưởng đơn giản vì họ là con người. Một khái niệm khác của Văn phòng cao
ủy Liên hợp quốc cho rằng: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động
hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ
bản của con người [64, tr.255].
Quyền con người được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những
giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Quyền con
người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công dân. Quyền
con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang
sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc
vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Quyền công dân là khái niệm
gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được
xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công dân là tập hợp những quyền con
người được pháp luật của một nước ghi nhận và chỉ những người mang quốc
tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền công dân mà pháp luật nước
đó quy định. Theo Điều 28 Hiến pháp năm 2013 thì công dân có quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà
nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để
công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc
tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân [51].
Như đã trình bày ở trên thì bị can trước hết là con người, là công dân có
đầy đủ mọi quyền và nghĩa vụ được hiến pháp công nhận và bảo vệ, nhưng kể từ
10
khi phát sinh sự kiện pháp lý và được điều chỉnh bằng các hoạt động tố tụng vì
bị nghi ngờ phạm tội, bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì lúc này họ là bị can.
Do đó họ gặp các bất lợi bởi bị hạn chế hoặc bị mất một phần hay toàn bộ các
quyền công dân. Thế nhưng, những bị can không phải là người có tội, họ có tội
hay không phải do Tòa án quyết định và chỉ đến lúc có bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật thì người đó mới được xem là có tội. Bị can chưa bị coi là có tội vì vậy
họ vẫn được cơ quan THTT, người THTT đảm bảo và bảo vệ các quyền con
người, quyền công dân. Khi bị buộc tội thì những bị can cũng có những quyền
được pháp luật trao cho được hưởng, được làm và được đòi hỏi. Vì là trong thời
gian bị buộc tội nên họ là những người tham gia tố tụng, chịu sự điều chỉnh của
pháp luật tố tụng trong các quan hệ pháp luật giữa họ với cơ quan, người THTT
và người tham gia tố tụng khác.
Do vậy, có thể kết luận về quyền của bị can như sau: Quyền của bị can là
những điều mà pháp luật quy định cho người đã bị khởi tố về hình sự được
hưởng, được làm, được đòi hỏi khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
* Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
“Khởi tố VAHS là giai đoạn mở đầu của TTHS, trong đó cơ quan có thẩm
quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc
quyết định không khởi tố”[14, tr.235].
Như vậy, khởi tố VAHS là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, ở giai
đoạn này cơ quan có thẩm quyền tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để thu thập,
xử lý các thông tin ban đầu, khi có đủ chứng cứ, sẽ ra quyết định khởi tố VAHS
hoặc không khởi tố VAHS.
Hiến pháp năm 2013 có quy định “mọi công dân điều bình đẳng trước
pháp luật” [51] và công dân có những quyền cơ bản được pháp luật bảo vệ,
không ai có thể xâm phạm những quyền hiến định được pháp luật ghi nhận. Căn
cứ vào quy định đó, Điều 3 BLTTHS năm 2015 quy định nguyên tắc pháp chế
11
XHCN trong TTHS, mục đích nhằm giải quyết vụ án tuân theo pháp luật và đảm
bảo quyền và lợi ích của công dân trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên tắc
này không thừa nhận việc áp dụng các hoạt động tố tụng mà không được quy
định trong BLTTHS.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì quá trình TTHS bao gồm năm
giai đoạn là: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong đó khởi tố
VAHS là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, ở giai đoạn này cơ quan có
thẩm quyền (cơ quan THTT và các cơ quan được giao quyền tiến hành một số
hoạt động điều tra ban đầu), thu thập, xử lý các thông tin ban đầu và ra quyết
định khởi tố VAHS hoặc không khởi tố VAHS. Xác định những dấu hiệu tội
phạm trong giai đoạn này là việc xác định những dấu hiệu, hành vi và sự kiện
phạm tội nhưng chưa kết luận một cách chắc chắn về tội phạm và người phạm
tội [52].
Quyết định khởi tố VAHS là cơ sở để các cơ quan THTT tiến hành các
hoạt động tiếp theo là điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Quyết định khởi tố
có ý nghĩa rất quan trọng làm phát sinh quan hệ pháp luật TTHS giữa cơ quan có
thẩm quyền và người tham gia tố tụng. Khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố vụ án sẽ là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện việc điều tra [14, tr.190].
Khởi tố VAHS là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, từ đó các quan
hệ tố tụng bắt đầu phát sinh. Trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền
trên cơ sở những thông tin ban đầu thu thập được đi đến xác định có hay không
có căn cứ để khởi tố VAHS hoặc không khởi tố VAHS và trên cơ sở đó mà ra
quyết định cho phù hợp. Kết quả của giai đoạn này làm cơ sở cho việc mở ra các
hoạt động TTHS tiếp theo hoặc có thể chấm dứt mọi hoạt động TTHS đối với tin
báo về tội phạm.
* Đặc điểm của khởi tố VAHS
Là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của quá trình TTHS, thời điểm của
giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc
12
thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố hoặc
không khởi tố VAHS có liên quan đến hành vi đó.
Chủ thể có thẩm quyền khởi tố VAHS là cơ quan THTT và các cơ quan
được giao quyền tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu. Khi tiếp nhận
thông tin, các cơ quan này có trách nhiệm kiểm tra, xác minh nguồn tin nhận
được bằng các biện pháp nghiệp vụ như: Khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai
của người bị hại, nhân chứng, người bị tạm giữ.......
Giai đoạn khởi tố VAHS không cần phải xác minh toàn bộ sự thật của vụ
án, mà là không để bỏ lọt bất cứ một dấu hiệu tội phạm nào mà không được xem
xét và không để cho bất cứ hành vi tội phạm nào mà không bị phát hiện. Mọi
hoạt động tố tụng điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn và những biện pháp
khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố VAHS.
Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố VAHS được tính từ khi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhận được những tin tức về tội phạm và kết thúc khi cơ
quan THTT ra một trong hai quyết định khởi tố VAHS hoặc quyết định không
khởi tố VAHS.
Vì vậy, khởi tố VAHS là giai đoạn đầu tiên của quá trình TTHS, trong đó,
các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có căn cứ để ra quyết định
khởi tố VAHS hoặc quyết định không khởi tố VAHS. Kết thúc giai đoạn khởi tố
VAHS sẽ là sự khởi đầu cho một giai đoạn mới hoặc chấm dứt quá trình tố tụng.
Khởi tố VAHS là một giai đoạn TTHS cơ bản và quan trọng để tăng
cường pháp chế, bảo vệ các quyền của công dân trước khi khởi tố bị can và áp
dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn
TTHS khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm
trong toàn xã hội.
* Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố VAHS
- Chứng minh có hoặc không có tội phạm xảy ra
Khi tiếp nhận về tin tức về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền khởi tố
VAHS phải xác định sự tồn tại của sự việc đó có hay không có dấu hiệu tội
13
phạm để quyết định việc khởi tố hay không khởi tố VAHS. Qua đó, kịp thời
phát hiện tội phạm, hạn chế tối đa tình trạng bỏ lọt tội phạm, cũng như bảo đảm
được nguyên tắc không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vô tội. Nếu
xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ
án, hoặc thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 107 BLTTHS
“Những căn cứ không được khởi tố VAHS”, thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định không khởi tố VAHS.
Khởi tố VAHS là nhằm “phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và làm oan người vô
tội” (Điều 1 BLTTHS năm 2015), [52] vì vậy nhiệm vụ của giai đoạn này là
phát hiện chính xác, nhanh chóng mọi loại tội phạm xảy ra, có biện pháp phù
hợp cho việc điều tra làm rõ và xử lý công minh đối với những loại tội phạm đó.
Giúp cho cơ quan có chức năng kiểm sát, giám sát hoạt động điều tra nắm
được diễn biến tình hình tội phạm và công tác điều tra tội phạm để có thể đặt ra
các yêu cầu trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, truy tố, buộc tội người phạm
tội, góp phần quan trọng trong công tác giữ gìn an ninh trật tự địa phương.
Khởi tố vụ án một cách kịp thời là một trong những bảo đảm quan trọng
để xử lý nhanh chóng, công minh đối với hành vi phạm tội đã xảy ra. Ngược lại,
nếu các hoạt động TTHS trong giai đoạn khởi tố không đầy đủ, không chính xác
thì có thể dẫn đến những sai lệch, khó khăn trong quá trình giải quyết VAHS.
Bảo đảm tính khách quan, toàn diện, đầy đủ trong hoạt động điều tra, các
quyền lợi cơ bản của công dân phải được tôn trọng. Khởi tố VAHS là sự phản
ứng nhanh chóng từ phía Nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp
phần phát hiện, điều tra và xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi
phạm tội và người phạm tội, đồng thời không chỉ là chức năng quan trọng trong
hoạt động tư pháp hình sự mà còn là phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên
tắc trong TTHS, tránh bỏ lọt tội phạm và phát hiện hành vi phạm tội một cách
kịp thời.
14
Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố VAHS là nhằm xác định dấu hiệu của tội
phạm, tức là xác định xem sự việc xảy ra có dấu hiệu của một tội phạm cụ thể
hay không, nói cách khác là có VAHS đã xảy ra hay không [29]. Để thực hiện
nhiệm vụ này, cơ quan có thẩm quyền sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm hoặc kiến nghị khởi tố, trong phạm vi thẩm quyền của mình và thời hạn
luật định phải tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh các tin tức về tội phạm
bằng những biện pháp cụ thể:
Kiểm tra giấy tờ tùy thân, hộ khẩu, đăng ký tạm trú của người bị tố cáo;
yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân có liên quan đến sự
việc cung cấp những tài liệu cần thiết. Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
có liên quan giải thích rõ sự việc nhằm mục đích làm rõ dấu hiệu tội phạm.
Khi yêu cầu giải thích, cơ quan có thẩm quyền không được áp dụng các
biện pháp hỏi cung hoặc cưỡng chế tố tụng đối với người được yêu cầu giải
thích. Nếu bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì tiến
hành lấy lời khai của người bị bắt.
Trong trường hợp cần thiết thì khám nghiệm hiện trường và tiến hành các
biện pháp khác theo quy định của BLTTHS để xác định dấu hiệu tội phạm.
- Hoàn thành hồ sơ, thủ tục khởi tố
Khởi tố vụ án là khâu đầu tiên của TTHS, nếu không được thực hiện tốt,
khởi tố chậm trễ, điều tra vụ án không khách quan, không có căn cứ, thì dễ để
lọt tội phạm hoặc gây ra lãng phí công sức, tiền bạc của Nhà nước và có khi còn
gây hậu quả nghiêm trọng làm oan người vô tội. Vì vậy, sau khi tiến hành các
biện pháp điều tra, xác minh thu thập chứng cứ, khi có đủ cơ sở chứng minh, cơ
quan THTT sẽ thực hiện một trong hai nhiệm vụ quan trọng đó là:
+ Nếu đủ cơ sở chứng minh có dấu hiệu tội phạm xảy ra, cơ quan THTT
sẽ ra quyết định khởi tố VAHS và vụ án sẽ được tiến hành các bước tiếp theo
của quá trình tố tụng.
+ Nếu đủ cơ sở chứng minh không có dấu hiệu tội phạm xảy ra, cơ quan
THTT sẽ ra quyết định không khởi tố VAHS và vụ án sẽ được khép lại.
15
Việc quy định thủ tục này, góp phần loại trừ các tiêu cực trong hoạt động
tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố VAHS
một cách thiếu cân nhắc kỹ, vội vàng và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả
tiêu cực tiếp theo trong việc truy cứu TTHS ở các giai đoạn TTHS tiếp theo như:
Điều tra không có căn cứ đối với những hành vi không chứa đựng dấu hiệu của
tội phạm hoặc nói chung là không diễn ra trong thực tế khách quan, khám xét,
bắt, giam giữ, buộc tội, xét xử một cách vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan
những người vô tội.
Việc đi kèm với một trong hai quyết định khởi tố hoặc không khởi tố
VAHS, nhất thiết phải có một số văn bản cần thiết như: Biên bản xảy ra sự việc
hoặc biên bản phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản
ghi lời khai nhân chứng, biên bản ghi lời khai bị hại... đây là những văn bản làm
cơ sở cho việc tiến hành các bước tiếp theo.
1.1.3. Khái niệm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Dựa trên cơ sở khái niệm về quyền của bị can trong TTHS nói chung và
khái niệm, đặc điểm, nội dung về giai đoạn khởi tố VAHS. Có thể nhận thấy
trong giai đoạn khởi tố VAHS, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra đã thực hiện các hoạt động buộc tội. Trong đó có thể
là sự buộc tội một chủ thể bị nghi thực hiện tội phạm.
Chính vì vậy, trong giai đoạn này, quyền của những chủ thể bị buộc tội
trong đó có bị can đã bắt đầu được ghi nhận và bảo đảm. Trong đó, có những nội
dung thể hiện quyền bào chữa, quyền được bảo vệ các quyền nhân thân, danh
dự, nhân phẩm... quyền được suy đoán vô tội, quyền được hưởng các hoạt động
tố tụng sao cho đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Đặc trưng cơ bản của các quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS
đó là tính chất pháp lý của nó. Theo đó, BLTTHS phải ghi nhận các quyền của
bị can nói chung trong TTHS và đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố VAHS.
Quyền của bị can còn được xác định cho một đối tượng cụ thể là bị can.
Bị can là người bị buộc tội mà đã có quyết định khởi tố đối với họ và chưa bị
16
đưa ra xét xử bằng quyết định của Tòa án. Do đó, tư cách bị can hình thành từ
khi có quyết định khởi tố bị can và kết thúc khi có quyết định đưa vụ án ra xét
xử đối với họ.
Đặc trưng quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS tiếp theo đó là,
quyền này được thể hiện cụ thể ở một giai đoạn tố tụng, có thể coi là giai đoạn
ban đầu, mở đầu cho hoạt động tố tụng tiếp theo là giai đoạn khởi tố VAHS.
Giai đoạn này diễn ra rất nhanh chóng, do các cơ quan THTT tiến hành, mà đảm
bảo cho vụ án và có thể là bị can bị khởi tố.
Do vậy có thể rút ra khái niệm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố
VAHS đó là những quyền mà pháp luật TTHSu quy định cho người mà đã có
quyết định khởi tố về hình sự cho đến khi vụ án được khởi tố xong được hưởng,
được làm, được đòi hỏi khi tham gia vào giai đoạn khởi tố VAHS để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.2. Ý nghĩa và nội dung của bảo đảm thực hiện quyền của bị can
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
1.2.1. Ý nghĩa của bảo đảm thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự
Quy định quyền của một chủ thể trong pháp luật TTHS giúp phân biệt chủ
thể này với chủ thể khác, đồng thời xác định vị trí và tầm quan trọng của chủ thể
đó trong mối quan hệ pháp luật và có ý nghĩa quan trọng về cả chính trị, xã hội
và pháp lý.
Về phương diện chính trị - xã hội việc quy định địa vị pháp lý của bị can
trong TTHS làm thể hiện rõ mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, giữa bị
cáo với cơ quan THTT và người tiến hành tốt tụng. Công dân được Nhà nước
quy định cho những quyền cụ thể trong pháp luật; Nhà nước phải bảo đảm cho
công dân thực hiện các quyền đó trong khuôn khổ luật định, đồng thời pháp luật
cũng quy định những nghĩa vụ cơ tương ứng mà công dân phải thực hiện để bảo
đảm trật tự kỷ cương xã hội.
17
Hoạt động TTHS thể hiện các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp
dụng phổ biến nhất, chính vì vậy hoạt động này rất dễ xâm phạm đến quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng. Tuy nhiên, trong số các chủ
thể tham gia tố tụng thì vấn đề bảo đảm quyền của bị can có tầm quan trọng đặc
biệt và vô cùng nhạy cảm. Sự nhạy cảm ở đây thể hiện ở chỗ: bị can là một chủ
thể đặc biệt, họ có thể bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết, có thể bị
tước đoạt một số quyền công dân để phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
Với vị trí tố tụng như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của họ rất dễ bị người
THTT vô tình hoặc cố ý xâm hại bởi hoạt động tố tụng không đúng quy định của
pháp luật thì quyền và lợi ích hợp pháp của bị can sẽ bị xâm phạm. Vì vậy, việc
quy định địa vị pháp lý của bị can trong TTHS có ý nghĩa vô cùng quan trọng và
cần thiết.
Bị can với việc là người yếu thế trong quan hệ TTHS có quyền yêu cầu cơ
quan THTT, người THTT bảo đảm cho họ các quyền và lợi ích chính đáng. Cơ
quan THTT có quyền yêu cầu, buộc bị cáo phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
của chủ thể quan hệ pháp luật TTHS, đồng thời phải có trách nhiệm, nghĩa vụ để
bảo đảm việc thực hiện quyền của bị can. Bị cáo được quy định cho những
quyền nhất định nhằm bảo vệ bản thân trước những bất lợi trong quá trình xét xử
và tìm ra sự thật vụ án. Bên cạnh đó, bị can cũng phải thực hiện những nghĩa vụ
được quy định để việc giải quyết vụ án có hiệu quả và thuận lợi, nhanh chóng.
Việc BLTTHS quy định cho bị cáo các quyền và nghĩa vụ giúp họ ý thức được
quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời cũng để tránh sự vi phạm quyền và lợi
ích của bị cáo từ những chủ thể khác.
Quyền con người trong TTHS nói chung, quyền con người của bị can nói
riêng là quyền dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương nhất. Do đó, quy định địa vị
pháp lý của bị can trong TTHS mà đặc biệt là quy định về quyền của bị can là sự
cụ thể hóa quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Văn kiện quốc
tế, trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện
đúng tinh thần của Nghị quyết 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
18
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49 ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Nước ta đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng NNPQ xã hội chủ
nghĩa, nâng cao vị thế của pháp luật trong xã hội; vì thế những quy định cụ thể,
rõ ràng, dân chủ, tiến bộ thì pháp luật sẽ dễ dàng phát huy vị thế, được nhân dân
tiếp thu và thực hiện một cách nghiêm túc. Pháp luật có tính răn đe, vì vậy pháp
luật không chỉ tác động tới hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội
được điều chỉnh bằng pháp luật mà còn tác động về tư tưởng đối với toàn xã hội
nói chung, sự tác động mang tính chất giáo dục.
Ý nghĩa pháp lý là phương tiện quan trọng để điều chỉnh các quan hệ xã
hội nói chung, các quan hệ pháp luật nói riêng. Pháp luật tác động lên các quan
hệ đó bằng cách quy định cho các bên tham gia các quan hệ một số quyền và
nghĩa vụ pháp lý nhất định, đồng thời pháp luật cũng thiết lập cả điều kiện để
bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được thực hiện. Cho nên, khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật, các chủ thể cần biết rõ hoặc được cơn quan
THTT, người THTT thông báo các quyền và nghĩa vụ của mình để tự mình thực
hiện các hành vi hợp pháp nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của bản thân,
không vượt quá các quyền của mình, cũng như biết được những nghĩa vụ mà
bản thân cần phải thực hiện. Bị can là người tham gia tố tụng, có vị trí trung tâm
trong quá trình giải quyết VAHS. Họ là đối tượng bị pháp luật coi là những
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, vì vậy họ dễ bị xâm hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Do đó, việc
pháp luật quy định rõ địa vị pháp lý của bị can có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói riêng, công cuộc cải cách
tư pháp và xây dựng NNPQ nói chung.
Trên cơ sở quy định đầy đủ, cụ thể quyền và nghĩa vụ của bị can, Bộ luật
sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho bị can xác định được phạm vi quyền và nghĩa
vụ của mình khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, giúp họ có thể lựa chọn được cách xử sự phù hợp nhất,
19
có lợi cho bản thân và cho xã hội. Về phía các cơ quan và người có thẩm quyền
THTT, việc quy định rõ ràng, cụ thể quyền và nghĩa vụ của bị can cũng đặt trách
nhiệm cao hơn với các cơ quan và người có thẩm quyền THTT trong việc bảo
đảm quyền của bị can, đồng thời, có cơ chế pháp lý cụ thể để xử lý trong trường
hợp bị can không chấp hành nghĩa vụ đã được luật định. Đồng thời, việc quy
định địa vị pháp lý của bị can là cơ sở pháp luật để cơ quan THTT, người THTT
xác định được quyền và nghĩa vụ của mình trong mỗi quan hệ pháp luật TTHS
với bị can. Đây cũng là cơ sở để các chủ thể tham gia tố tụng khác biết được
quyền và nghĩa vụ của bị can để có những hành vi phù hợp, tránh xâm phạm lợi
ích của bị can.
1.2.2. Nội dung pháp luật về quyền của bị can
Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015 thì “bị can là
người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự” [52]; Bị can hay bị cáo chỉ là các
tên gọi khác nhau của cùng một người khi ở các giai đoạn tố tụng khác nhau.
BLTTHS năm 2015 quy định về quyền của bị can (Khoản 2 Điều 60).
* Quyền được biết lý do mình bị khởi tố
Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì. Bị can cần phải biết tội danh
mà họ bị khởi tố. Trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ tội danh, điều
khoản luật được áp dụng đối với bị can. Đây cũng chính là giai đoạn mở đầu của
quá trình THTT và bắt đầu THTT để chứng minh hành vi bị nghi ngờ phạm một
tội được quy định trong Luật Hình Sự. Trong vai trò đối lập với những lời buộc
tội của cơ quan tiên hành tố tụng thì bi can cũng cần biết mình phạm tội gì để
bảo vệ những quyền và lợi cích hợp pháp của mình;
Những cũng từ đây thi bị can cũng có những nghĩa vụ nhất định để không
bị cơ quan có thẩm quyền có quyền buộc tội và áp dụng các biện pháp ngăn
chặn là một trong các biện pháp cưỡng chế TTHS được pháp luật TTHS quy
định, do người có thẩm quyền THTT quyết định áp dụng đối với bị can nhằm
ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ, không để họ tiếp tục phạm tội mới
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, hoặc nhằm bảo đảm việc thi hành án.
20