BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
MAI THỊ HUỆ
BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CỦA
TOÀ ÁN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
MAI THỊ HUỆ
BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CỦA
TOÀ ÁN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN QUANG THÁI
HÀ NỘI – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Học viên xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Đề tài Luận văn được nghiên cứu một cách độc lập dưới sự hướng
dẫn TS. Nguyễn Quang Thái.
Các số liệu, trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác và trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng, những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Học viên
Mai Thị Huệ
LỜI CẢM ƠN
Để có được kết quả học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn như
ngày hôm nay, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo
đã giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức và phương pháp luận về
Luật Hiến pháp và Luật Hành chính trong suốt thời gian học cao học tại Học
viện Hành chính Quốc gia.
Học viên trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Quang Thái đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài và hoàn thành Luận văn.
Xin cảm ơn Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang cùng
bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ cung cấp tài liệu và đóng góp ý
kiến giúp tôi hoàn thành Luận văn.
Cảm ơn gia đình là chỗ dựa vững chắc cho tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu đề tài.
Mặc dù đã cố gắng, nỗ lực trong quá trình nghiên cứu nhưng không thể
tránh khỏi những thiếu sót, học viên mong nhận được ý kiến đóng góp của
các nhà khoa học, quý thầy cô, các anh chị và các bạn bè, đồng nghiệp để
Luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Học viên
Mai Thị Huệ
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1
Hội đồng xét xử
HĐXX
2
Hội thẩm nhân dân
HTND
3
Kiểm sát viên
4
Toà án nhân dân
TAND
5
Tố tụng dân sự
TTDS
KSV
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH
ĐẲNG CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN .................................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền bình đẳng, bảo đảm quyền bình đẳng của
đương sự trong giải quyết vụ việc dân sự của Toà án nhân dân cấp huyện ..... 7
1.2. Nội dung của bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết vụ
việc dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện ................................................... 15
1.3. Các yếu tố tác động đến bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong
giải quyết vụ việc dân sự ................................................................................. 21
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA
ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN
HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG ......................................... 29
2.1 Khái quát về huyện Yên Sơn, Toà án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh
Tuyên Quang .................................................................................................. 29
2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết vụ
việc dân sự từ 2012-2017 của Toà án huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang .... 31
2.3. Đánh giá chung………………………………………………………….46
Tiểu kết chƣơng 2…………………………………………………………. 59
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ
VIỆC DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN CẤP HUYỆN ............................................ 60
3.1. Quan điểm tăng cường bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong
giải quyết vụ việc dân sự của Toà án huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.60
3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong
giải quyết vụ việc dân sự của Toà án huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.63
Tiểu kết chƣơng 3……………………………………………………… 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản,
được thể chế hóa trong nhiều văn kiện quốc tế và quốc gia.
Ở nước ta, bình đẳng trước pháp luật được thể hiện nhất quán trong
các bản Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp
năm 2013. Điều 6, 7 Hiến pháp 1946 quy định: "Tất cả công dân Việt Nam
đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa" và "Tất
cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia
chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của
mình"[13, tr.15]. Điều 51, Hiến pháp năm 1992 cũng tiếp tục khẳng định:
"Công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật" [14, tr.33]. Quyền bình
đẳng trước pháp luật cũng được cụ thể hóa trong các lĩnh vực cụ thể của
quan hệ pháp luật. Như vậy, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một
nội dung xuyên suốt tư tưởng lập pháp của nước ta.
Trước xu thế hội nhập quốc tế, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục được
sửa đổi, bổ sung phù hợp với việc quyền bình đẳng trước pháp luật được
thể hiện đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn. Điều 16 Hiến pháp khẳng định: “Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời
sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”[15, tr.17], như vậy bình
đẳng trước pháp luật là quyền con người. Việc quy định theo hướng mở
rộng đối tượng có quyền bình đẳng trước pháp luật như trên cho thấy Việt
Nam ghi nhận quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con
người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Hiến pháp khẳng định quyền
bình đẳng trước pháp luật của mọi người được công nhận trong tất cả lĩnh
vực, bao gồm đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cùng với
việc ghi nhận nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của con người, Hiến
1
pháp quy định rõ ràng, đầy đủ các quyền của con người như quyền sống,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư, quyền tự do đi lại, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, quyền tham
gia quản lý nhà nước…Với quan điểm mọi người bình đẳng trước pháp
luật, Hiến pháp, pháp luật cũng quy định trách nhiệm của Nhà nước trong
việc tôn trọng và bảo hộ quyền con người, bảo vệ một cách bình đẳng,
không phân biệt đối xử đối với mọi người trong việc hưởng các quyền và
thực hiện các nghĩa vụ hợp pháp của con người, đặc biệt trong các quan hệ
tranh chấp pháp luật luôn bảo vệ bình đẳng của các bên tham gia.
Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang trong những
năm qua bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ
việc dân sự và đạt được những kết quả quan trọng trong việc thực thi Hiến
pháp và pháp luật trên địa bàn huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình giải quyết các vụ
việc dân sự từ thực tiễn huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang cho thấy vẫn
còn có hạn chế, trong đó có vụ việc chưa bảo đảm quyền bình đẳng của
đương sự trong giải quyết, xét xử một số vụ việc dân sự.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền bình đẳng của đương
sự trong giải quyết các vụ việc dân sự của Toà án huyện Yên Sơn, tỉnh
Tuyên Quang” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý nước ta, vấn đề bảo đảm quyền bình đẳng của
con người nói chung được nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình khoa
học với các góc độ khác nhau. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu chủ yếu
đề cập đến quyền bình đẳng nói chung, vấn đề bảo vệ quyền con người trong
hoạt động tố tụng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự, về bảo đảm quyền bình
đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực Hôn nhân gia đình:
2
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Văn Tú (2015) Khoa Luật, đại học
Quốc gia Hà Nội với đề tài: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” nghiên cứu về
quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, tình hình xây dựng pháp
luật Tố tụng hình sựu theo nguyên tắc bảo đảm bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật và nguyên tắc để bảo đảm bình đẳng cho mọi công dân; Luận
văn thạc sĩ của tác giả Đào Mai Thanh (2013) với đề tài: “Quyền bình đẳng ở
Việt Nam, cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật” nghiên cứu lý luận về quyền
bình đẳng, thực trạng thực thi pháp luật để bảo đảm bình đẳng và quyền bình
đẳng; Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thu Thảo (2014) Khoa Luật, đại học
Quốc gia Hà Nội với đề tài: “Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh
vực Hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay” nghiên cứu về quyền bình đẳng
của người phụ nữ trong quan hệ hôn nhân ở Việt Nam; Luận văn thạc sỹ của
tác giả Hoàng Lan Anh (2014) Khoa Luật, đại học Quốc gia Hà Nội với đề
tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam trong đó tác giả
nghiên cứu bảo đảm quyền con người là mục tiêu của Hiến pháp, nghiên cứu
thực trạng bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp Việt Nam và hoạt động
hiện nay của các cơ quan lập pháp, hành pháp và bình đẳng quyền con người
trong Hiến pháp năm 2013.
Các tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các vấn đề về
bảo đảm quyền con người nói chung, lĩnh vực Hình sự, Hôn nhân gia đình
chứ chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể về bảo đảm
quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ việc dân sự, vì vậy,
từ thực tiễn Toà án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang tác giả
chọn đề tài “Bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các
vụ việc dân sự của Toà án huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang” để làm đề tài
nghiên cứu luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Mục đích của luận văn là xây dựng luận cứ khoa học cho
3
các giải pháp bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các
vụ việc dân sự của Toà án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về bảo đảm quyền bình đẳng của
đương sự trong giải quyết các vụ việc dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực thi Hiến pháp và các quy định
pháp luật có liên quan đến bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong
giải quyết các vụ việc dân sự tại Toà án huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên
Quang;
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bình đẳng
của đương sự trong giải quyết vụ việc dân sự của Toà án nhân dân huyện
yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định về bảo
đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ việc dân sự
theo Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi bảo đảm quyền bình đẳng của
đương sự trong đề tài này chủ yếu là trong giải quyết vụ việc dân sự, bảo
đảm cho đương sự thực hiện quyền của mình khi tham gia các thủ tục tố
tụng tại Toà án. Vụ việc dân sự ở đây tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi
các vụ án tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình.
- Về không gian: Nghiên cứu tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Về thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2017.
- Về nội dung: Nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến bảo
đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ việc dân sự;
thực tiễn bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ
việc dân sự của Toà án huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang; Đề ra các giải
4
pháp bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ việc
dân sự của Toà án huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người và bảo đảm
quyền con người, về vấn đề cải cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn lấy lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của Đảng và pháp luật của
Nhà nước Việt Nam về quyền con người nói chung và quyền quyền bình
đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng. Các
phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn tổng hợp các quan điểm khoa học về bảo đảm quyền bình
đẳng của con người nói chung và quyền bình đẳng của đương sự trong giải
quyết các vụ việc dân sự nói riêng để giải quyết các khái niệm, đặc điểm,
nội dung, vai trò và điều kiện để bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự
trong giải quyết các vụ việc dân sự tại Toà án nhân dân cấp huyện; nghiên
cứu, đánh giá thực trạng về việc bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự
trong giải quyết các vụ việc dân sự từ thực tiễn Toà án huyện Yên Sơn, tỉnh
Tuyên Quang. Từ thực trạng đó, đánh giá chung, kết luận những mặt đã đạt
được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại hạn chế. Trên cơ
sở đó, luận văn đề xuất các định hướng và giải pháp để bảo đảm quyền
bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ việc dân sự của Toà án
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo
5
đối với các học viên cao học và sinh viên tại các cơ sở đào tạo luật, các cán
bộ công chức đang công tác tại Tòa án các cấp trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận, pháp lý bảo đảm quyền bình đẳng của
đương sự trong giải quyết vụ việc dân sự của Toà án nhân dân cấp huyện.
Chƣơng 2: Thực trạng bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong
giải quyết vụ việc dân sự của Toà án huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
Chƣơng 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường bảo đảm quyền bình
đẳng của đương sự trong giải quyết vụ việc dân sự của Toà án huyện Yên
Sơn, tỉnh Tuyên Quang
6
Chƣơng 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ CỦA
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền bình đẳng và bảo đảm quyền bình
đẳng của đƣơng sự trong giải quyết vụ việc dân sự của Toà án nhân
dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm quyền bình đẳng và bảo đảm quyền bình đẳng của
đương sự trong giải quyết vụ việc dân sự của Toà án nhân dân cấp
huyện
Để làm rõ khái niệm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết vụ
việc dân sự của Toà án nhân dân cấp huyện trước hết cần làm rõ khái niệm
bình đẳng, bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự, đương sự trong vụ việc
dân sự.
Về khái niệm quyền bình đẳng: Nói đến bình đẳng có rất nhiều quan
điểm, có nhiều tác giả bàn về bình đẳng.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: Bình: Đều nhau, đẳng: Thứ bậc; Bình
đẳng: Ngang hàng nhau về địa vị, về quyền lợi; Bình đẳng là tính từ, có
nghĩa là ngang hàng nhau [31, tr. 1355].
Như vậy, theo tác giả quyền bình đẳng là có quyền bằng đều, quyền
ngang bằng nhau.
Vụ việc dân sự: Vụ việc dân sự là vụ việc phát sinh tại Tòa án nhân dân
do cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác, vụ án dân sự là có tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Việc dân sự là những trường hợp
không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ mà chỉ yêu cầu Toà án giải quyết
7
xác nhận những sự kiện pháp lý như yêu cầu tuyên bố một người là đã chết,
tuyên bố mất tích, yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Mỗi vụ việc dân sự dù có tranh chấp hoặc không có tranh chấp giữa các
chủ thể thì khi phát sinh tại Tòa án đều có mục đích giải quyết chung là nhằm
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức. Theo pháp luật hiện hành, tính chất “dân sự” được hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm các vụ việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, về kinh doanh,
thương mại, về lao động và về các loại việc khác theo quy định của pháp luật.
Khi một vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thì dẫn đến trách nhiệm giải
quyết vụ việc dân sự đó của Tòa án nhân dân theo trình tự, thủ tục giải quyết
các vụ án và việc dân sự. Đối với vụ án thì đương sự có đơn khởi kiện, còn
việc dân sự chủ thể có liên quan gửi đơn yêu cầu Toà án
Về đương sự trong vụ án dân sự: Là cá nhân, pháp nhân tham gia tố
tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan. [12, tr.54].
Điều 58 Bộ luật TTDS 2011: “Các đương sự có các quyền, nghĩa vụ
ngang nhau khi tham gia tố tụng”. [11, tr.21].
.Theo
quy định của Bộ luật TTDS năm 2015: Đương sự trong vụ án
dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn hay người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ
chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được
cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền
và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ
luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi
ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách
8
cũng là nguyên đơn.
Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện
hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi
kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là
người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án
dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự
mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp
nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. [12, tr. 21-22].
Như vậy đương sự trong vụ việc dân sự theo tác giả là người khởi
kiện, người bị kiện và người có liên quan về quyền lợi trong nội dung khởi
kiện trong vụ việc dân sự.
Bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ việc
dân sự của Toà án cấp huyện: Toà án cấp huyện thực hiện các quy định của
Hiến pháp, pháp luật trong quá trình giải quyết, xét xử vụ việc dân sự để cho
đương sự được bình đẳng về các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định.
Bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự là một khía cạnh của bảo đảm
quyền của đương sự trong giải quyết các vụ việc dân sự, khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật, đương sự có các quyền như quyền bảo vệ, quyền
yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, quyền quyết định và tự
định đoạt…trong đó quyền bình đẳng của đương sự là quyền quan trọng và
được thể hiện rõ nét thông qua các quy định của pháp luật, quyền bình
đẳng của đương sự được thực hiện thông qua hoạt động giải quyết, xét xử
các vụ việc dân sự của Toà án, quyền bình đẳng của đương sự có mối quan
hệ mật thiết với các quyền khác của đương sự. Quyền bình đẳng của đương
9
sự được thể hiện duy nhất thông qua Toà án, bằng các quy định của pháp
luật Toà án bảo đảm cho các đương sự được bình đẳng với nhau bởi. Toà
án nhân dân nhân danh Nhà nước bằng bản án, quyết định chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện,
chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn hay không chấp nhận, chấp nhận yêu
cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hay không chấp
nhận… trong quá trình giải quyết các loại vụ án trong đó bảo đảm cho các
đương sự được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quá trình Toà án giải
quyết vụ án dân sự.
Điều 16, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” [15, tr.11].
1.1.2. Đặc điểm của bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải
quyết vụ việc dân sự của Toà án cấp huyện
Bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết vụ việc dân sự
của Toà án nhân dân cấp huyện sự bảo đảm cho các đương sự được bình
đẳng khi tham gia giải quyết vụ việc dân sự, họ có điều kiện thuận lợi như
nhau khi tham gia tố tụng tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, Tòa án có
trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện đầy đủ các quyền của mình
nói chung, quyền bình đẳng của từng đương sự trong cùng vụ án nói riêng
để đảm bảo cho việc giải quyết, xét xử án dân sự đúng quy định của pháp
luật, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và
công dân.
Như vậy, bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các
vụ việc dân sự có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quyền bình đẳng của các đương sự là một phần của quyền
10
bình đẳng trước pháp luật - quyền đã được Hiến định. Để bảo vệ quyền của
đương sự trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự thì nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng của họ là rất quan trọng. Trong đó các đương sự
đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra
yêu cầu và tranh luận dân chủ để chứng minh, bảo vệ quan điểm của mình
trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo mọi điều kiện cho họ thực hiện các
quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Họ có quyền dùng tiếng
nói, chữ viết của dân tộc mình khi tham gia tố tụng tại Toà án, trong trường
hợp này, chữ viết được dùng phổ biến là tiếng việt, trường hợp đương sự
không viết, nói bằng tiếng việt thì Toà án phải mời người phiên dịch tham gia
tố tụng để dịch chữ viết, tiếng nói của các đương sự ra tiếng việt.
Thứ hai, bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ
việc dân sự là bảo đảm một trong các quyền của đương sự và có mối quan hệ
mật thiết với việc thực hiện các quyền khác của đương sự. Đương sự trong vụ
việc dân sự có quyền tự bảo vệ, quyền định đoạt trong mối quan với các
quyền khác, quyền bình đẳng của đương sự giúp cho họ hiểu các quy định của
pháp luật hơn, hiểu về hướng giải quyết vụ án từ đó họ có quyền tự bảo vệ
cho mình, quyền định đoạt về vụ việc theo cá nhân… Ở mức độ khái quát
nhất, bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ việc dân
sự một trong những yếu tố để quyền của đương sự được ghi nhận, thực hiện
trong quá trình giải quyết vụ án nhằm tôn trọng đương sự và ghi nhận họ dù
họ tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan thì họ đều được hưởng các quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ
của đương sự trong cùng vụ án.
Toà án bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ
việc dân sự góp phần tích cực trong việc bảo đảm quyền đương sự nói chung.
Bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ việc dân sự là
11
một trong những nhiệm vụ quan trọng của Toà án trong việc thụ lý, giải quyết
các vụ án dân sự, để tạo điều kiện cho các đương sự được bình đẳng với nhau
về việc giải quyết vụ án, Toà án có vai trò trung tâm, là cầu nối và là nơi tạo
cho các đương sự thể hiện quyền bình đẳng của mình trên thực tế. Hiến pháp,
pháp luật có quy định về quyền bình đẳng của đương sự trong hoạt động giải
quyết, xét xử các vụ việc dân sự nhưng nếu chỉ dừng lại ở các quy định thì
quyền bình đẳng của đương sự sẽ không được công nhận, thực hiện và những
quy định pháp luật đó sẽ trở thành vô nghĩa. Vì vậy, bảo đảm quyền bình
đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ việc dân sự là đòi hỏi khách quan
để đảm bảo sự bình đẳng của đương sự được thực hiện trên thực tế.
Thứ ba, bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải quyết các vụ
việc dân sự của Toà án cấp huyện là một trong những nhiệm vụ của Toà án
cấp huyện trong thực hiện các quy định của Hiến pháp, pháp luật để giải
quyết, xét xử các loại vụ án, làm thế nào để bảo đảm sự bình đẳng cho các
đương sự trong cùng vụ án khi thụ lý, giải quyết, xét xử xong vụ án. Như vậy,
bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự là bảo đảm cho các đương sự đều có
các quyền tham gia vào các thủ tục tố tụng, cung cấp chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu của mình, dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình…vì họ đều
là đương sự trong cùng vụ án, họ được hưởng các quyền như nhau và thực
hiện các nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Toà án bảo đảm cho các đương sự trong cùng vụ án họ được bình đẳng
về quyền của mình, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần xã hội, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, địa vị xã hội, dù họ là ai, họ
làm gì, thuộc thành phần xã hội như thế nào thì khi tham gia tố tụng tại Toà
án họ đều bình đẳng với nhau, Toà án bảo đảm cho họ đều có các quyền của
đương sự như: Đề nghị thay đổi những người tiến hành tố tụng Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Thư ký khi có căn cứ cho rằng chọ không vô tư, khách
12
quan trong quá trình giải quyết vụ việc; Bảo đảm cho nguyên đơn có quyền
sửa đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản
tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập;
đương sự có quyền yêu cầu xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, đảm
cho họ có quyền tranh luận tại phiên toà; Toà án bảo đảm cho các đương sự
có quyền kháng cáo bản án, quyết định trong thời hạn quy định.
1.1.3. Vai trò của bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong giải
quyết vụ việc dân sự của Toà án cấp huyện
Thứ nhất, góp phần bảo đảm quyền của đương sự
Các đương sự tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, quyết định giải
quyết của Toà án là chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của họ, xử buộc
phải bồi thường, có nghĩa vụ trả lại theo yêu cầu khởi kiện của của nguyên
đơn hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì dù họ là cá
nhân hay tổ chức đều là thành viên của xã hội nên bảo đảm quyền bình đẳng
cho họ cũng chính là bảo đảm quyền của đương sự trong TTDS nói chung.
Việc thừa nhận quyền bình đẳng của đương sự và cơ chế bảo đảm cho họ
được thực hiện quyền bình đẳng của mình sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên đương sự.
Mọi mâu thuẫn trong quan hệ tranh chấp giữa các bên phải được giải
quyết trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng của họ. Luật quy định cụ thể về
quyền của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong
từng giai đoạn tố tụng họ có quyền nhất định, tuy nhiên họ bình đẳng với
nhau trong quan hệ với Toà án. Tuỳ theo tư cách đương sự là nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để Toà án thực hiện các quy
định của pháp luật để bảo vệ quyền cho họ.
Thứ hai, góp phần xây dựng Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân
Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân là bản chất của Nhà nước ta, Toà án
13
nhân danh Nhà nước bằng bản án, quyết định giải quyết, xét xử các loại vụ án
theo quy định của Hiến pháp, pháp luật.
Pháp luật được các chủ thể thực hiện một cách tự giác chứ không ép
buộc, pháp luật vì quyền con người, phục vụ con người, là pháp luật của dân
chủ, bình đẳng và văn minh. Trong một nền dân chủ hiện đại, pháp luật là
nguyên tắc tối thượng; đồng thời, có những cơ chế để kiềm chế xu hướng tha
hóa, lạm dụng quyền lực nhà nước của bất cứ nhánh quyền lực nào cũng như
của từng cá nhân công chức là những người đại diện cho nhân dân. Hơn thế
nữa pháp luật đó phải được xây dựng theo một quy trình dân chủ, minh bạch
và công khai. Giáo trình Luật Hiến pháp năm 2013: “Hiến pháp và pháp luật
điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội,
quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước” [7, tr. 21-22]. Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi
hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp
quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng mới có
thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội. Toà án nhân
dân giải quyết các loại vụ án, bảo đảm quyền của đương sự là một trong
những tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động
của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người
trong đó có quyền của đương sự và quyền bình đẳng của đương sự, tạo mọi
điều kiện cho đương sự thực hiện mình theo đúng các quy định của pháp luật.
Nền tảng của nhà nước của nhân dân, vì nhân dân là Hiến pháp và một hệ
thống pháp luật dân chủ và công bằng. Do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật luôn là điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp
luật được tôn trọng, đề cao và tuân thủ tuyệt đối. Hình thức và phương thức
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể khác nhau, nhưng đều
hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao của Hiến pháp, loại bỏ hành vi
14
trái với quy định của Hiến pháp. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước
pháp quyền đòi hỏi phải xây dựng cơ quan tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch
để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và
xã hội.
Bản chất của nhà nước của nhân dân, vì nhân dân là nhà nước tôn trọng
nhân dân và tôn trọng quyền của họ đồng thời bảo đảm cho các giá trị đó
được thực thi trong thực tế. Khi quyền bình đẳng của đương sự được bảo đảm
tức là đã góp phần xây dựng một Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân.
Theo truyền thống pháp luật Việt Nam, công lý được hiểu là sự công
bằng, đúng đắn, là lẽ phải và ban hành công lý là việc Tòa án xác định điều
đúng, điều sai trong một vụ việc nhằm thiết lập lại sự công bằng. Thực hiện
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 mục tiêu cơ bản và xuyên suốt
của Chiến lược là xây dựng nền tư pháp bảo vệ công lý. Tại phần nhiệm vụ về
hoàn thiện chính sách pháp luật, Nghị quyết khẳng định cần tiếp tục “Đổi mới
thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có
trách nhiệm nhận và thụ lý đơn” [8, tr. 3].
1.2. Nội dung của bảo đảm quyền bình đẳng của đƣơng sự trong giải
quyết vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.2.1. Bảo đảm cho các đương sự được quyền tham gia các thủ tục
tố tụng
Tham gia các thủ tục tố tụng tại Toà án là một trong những quyền quan
trọng của đương sự trong thực tế để bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự
khi giải quyết các vụ việc dân sự, Toà án cấp huyện luôn phải bảo đảm cho họ
có quyền được tham gia các thủ tục tố tụng tại Toà án, bởi vì khi tham gia
trực tiếp vào các thủ tục tố tụng họ mới có thể đưa ra các tài liệu, chứng cứ,
15
đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án.
Đương sự có quyền tham gia đầy đủ các thủ tục tố tụng tại Toà án, ngay
từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến giai đoạn chuẩn bị xét xử và xét xử, từ ngày
Toà án thụ lý vụ án, trong thời hạn 3 ngày làm việc, Toà án phải gửi ngay cho
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và các đương sự thông báo về việc thụ lý vụ
án để cho kiểm sát thực hiện quyền kiểm sát, đương sự thực hiện quyền của
mình khi tham gia tố tụng, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
thông báo thụ lý vụ án, bị đơn có quyền đưa ra các yêu cầu phản tố của
nguyên đơn, người có quyền lợi và nghãi vụ liên quan có quyền đưa ra các
yêu cầu độc lập về việc giải quyết vụ án.
Trong giai đoạn hoà giải và chuẩn bị xét xử Toà án cấp huyện phải ra ra
thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng
cứ và hoà giải, quyết định tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ và quyết định
định giá tài sản, quyết định đưa vụ án ra xét xử...Việc tham gia các thủ tục tố
tụng tại Toà án tạo điều kiện cho đương sự thực hiện quyền của mình trong
hoạt động tố tụng. Các đương sự trong vụ án đều có quyền tham gia các thủ
tục tố tụng như nhau, họ đều có quyền có mặt tại các phiên họp, phiên hoà
giải để trình bày quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án.
Trong trường hợp khi vắng một bên đương sự, Toà án phải lập biên bản
về việc không tiến hành phiên họp được và ra thông báo mở lại phiên họp vào
một thời gian cụ thể đồng thời thực hiện tống đạt văn bản tố tụng cho các
đương sự đảm bảo kịp thời và đảm bảo việc tống đạt các văn bản tố tụng cho
các đương sự hợp lệ để họ được biết về thời gian, địa điểm và nội dung làm
việc.
Khi nhận được thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận
và công khai chứng cứ, các đương sự phải có mặt tại phiên họp để Toà án
công khai các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn có quyền
16
rút, thay đổi, bổ sung nội dung khởi kiện, bị đơn có quyền trình bày ý kiến
của mình tại phiên họp về các nội dung nguyên đơn khởi kiện và có quyền
được biết các tài liệu, chứng cứ nguyên đơn đã nộp, đồng thời các đương sự
có quyền yêu cầu Toà án thu thập thêm các tài liệu chứng cứ. Tại phiên hoà
giải, các đương sự trình bày quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án,
trên cơ sở quan điểm, ý kiến trình bày của các bên đương sự cùng với các tài
liệu, chứng cứ đã thu thập được, Toà án tiến hành hoà giải giữa các bên về
việc giải quyết vụ án. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải, điều hành phiên hoà
giải theo trình tự để đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự, bắt đầu phiên
hoà giải, Thẩm phán được phân công giải thích cho các đương sự về nội dung
buổi hoà giải, thứ tự trình bày ý kiến và tuỳ từng vụ việc cụ thể Toà án giải
thích cho từng bên đương sự hiểu về nội dung vụ việc và hướng giải quyết để
họ lựa chọn phương án thích hợp. Bắt đầu phiên hoà giải, nguyên đơn (hoặc
người đại diện cho nguyên đơn) trình bày ý kiến về nội dung khởi kiện và yêu
cầu về việc giải quyết vụ án, sau khi nguyên đơn trình bày xong thì bị đơn
trình bày ý kiến, quan điểm của mình về nội dung vụ án, sau đó đến ý kiến,
quan điểm của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Khi nghe trình bày của
các bên đương sự, Thẩm phán giải thích pháp luật cho các bên đương sự về
quan hệ tranh chấp, hoà giải để từ đó giúp họ tự thoả thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án, trường hợp các bên thoả thuận thống nhất được với nhau về
toàn bộ các quan hệ tranh chấp thì Toà án lập biên bản ghi nhận sự thoả thuận
của các đương sự và hoà giải thành sau đó hết thời hạn 07 ngày các đương sự
không có ý kiến gì thay đổi thì Toà án ra quyết định công nhận sự thoả thuận
của các đương sự, trường hợp các bên không thống nhất được về nội dung vụ
án thì Thẩm phán - chủ trì phiên hoà giải lập biên bản ghi rõ ý kiến từng bên
và báo họ tiếp tục hoà giải tiếp theo. Qua buổi hoà giải, trên cơ sở ý kiến trình
bày của từng đương sự Toà án có thể tiếp tục xác minh, yêu cầu các bên cung
17
cấp chứng cứ hoặc hỏi các bên đương sự có đề nghị Toà án thu thập thêm
chứng cứ hay đề nghị bổ sung người tham gia tố tụng không để giải quyết vụ
việc.
Thủ tục hoà giải cơ bản được tiến hành ở nhiều vụ việc tranh chấp trừ
một số vụ việc không thể hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được, quy
định các đương sự có mặt tại phiên hoà giải thực hiện quyền của đương sự,
trường hợp vụ án có nhiều đương sự cùng tham gia mà vắng 1 trong các
đương sự thì Thẩm phán chủ toạ có thể hỏi những người có mặt có nhất trí
hoà giải hay không, nếu họ nhất trí Thẩm phán căn cứ vào tư cách tham gia tố
tụng của họ đồng thời ý kiến của các đương sự có mặt và xét thấy họ vắng
mặt không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ thì tiếp tục tiến hành hoà giải.
Tại phiên toà sơ thẩm, các đương sự trình bày về quan điểm để giải
quyết vụ án. Phiên tòa sơ thẩm dân sự có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự. Ở vị trí trọng tâm trong toàn bộ
quá trình tố tụng, phiên tòa bảo đảm quyền lợi cho nguyên đơn mà còn bảo vệ
quyền lợi cho bị đơn, người có quyền lợi nghãi vụ liên quan và những người
tham gia tố tụng khác. Tại phiên toà, Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà là người
trực tiếp điều hành mọi thủ tục tại phiên toà. Quá trình thể hiện ở các khâu:
Thứ nhất, về thủ tục tố tụng tại phiên tòa: Quy định về thành phần Hội
đồng xét xử chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc độc lập xét xử, Tòa án xét xử
tập thể. Quy định về sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa chính là việc
các đương sự được thực hiện quyền tham gia phiên tòa. Quy định về sự có
mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chính là sự cụ
thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự cũng chính là bảo đảm pháp lý để
các đương sự thực hiện quyền của mình.
Thứ hai, về thủ tục bắt đầu phiên tòa: Thủ tục bắt đầu phiên tòa là hoạt
18
động nhằm kiểm tra các điều kiện cần thiết cho việc xét xử, tạo tiền đề cho
việc tiến hành các phần tiếp theo của phiên tòa. Trong phần thủ tục bắt đầu
phiên toà, Thẩm phán chủ toạ phiên toà giới thiệu thành phần HĐXX, kiểm
tra căn cước, lý lịch của các đương sự và phổ biến quyền và nghĩa vụ của họ.
Trên cơ sở các quyền HĐXX phổ biến, các đương sự có thể thực hiện các
quyền được quy định nếu thấy cần thiết.
Thứ ba, về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa: Đây là bước quan trọng của quá
trình xét xử tại phiên tòa. Đây là cuộc điều tra chính thức công khai được thực
hiện qua việc xét hỏi các đương sự và những người tham gia tố tụng, xem xét
mọi vấn đề về chứng cứ các đương sự cung cấp và qua việc xét hỏi công khai
để làm sáng tỏ các chứng cứ và tình tiết trong vụ án.
Thứ tư, về phần tranh tụng tại phiên tòa: Bảo đảm sự bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng dân sự, bên cạnh đó nhờ có hệ
thống những quy định về tranh tụng hết sức chặt chẽ mà các chủ thể có thể tự
mình hoặc thông qua người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trình
bày ý kiến, đưa ra những chứng cứ, tài liệu, lập luận để chứng minh cho yêu
cầu của mình là có căn cứ. Trên cơ sở của tranh tụng sẽ giúp cho HĐXX
quyết định giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và chính xác.
Thứ năm, về phần nghị án và tuyên án: Quy định về việc nghị án của
Hội đồng xét xử đảm bảo thực hiện nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và nguyên tắc “Tòa án xét xử tập thể”.
Trong giai đoạn nghị án, nếu hai nguyên tắc này được bảo đảm thì sẽ ra một
bản án đúng pháp luật.
1.2.2. Bảo đảm cho các đương sự được dùng tiếng nói, chữ viết của
dân tộc mình
Điều 5 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng
nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán,
19