CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐẶC ĐIỂM NỒNG ĐỘ IMMUNOGLOBULIN HUYẾT THANH VÀ
MỐI LIÊN QUAN VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ LÂM SÀNG, CẬN LÂM
SÀNG Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
Nguyễn Hải Công1, Hà Thọ Minh Huyền1, Đinh Thị Ngân Hà1
Tóm tắt
Nghiên cứu nồng độ các Immunoglobulin huyết thanh trong và ngoài đợt
bùng phát nặng ở 97 bệnh nhân Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) nhập
viện trong thời gian 5/2016 – 8/2017, nhận thấy: nồng độ trung bình các kháng
thể trong và ngoài đợt cấp không có sự biến đổi rõ rệt. Giá trị trung bình trong
đợt cấp của IgG: 1322,95mg/dl, IgM: 470,45mg/dl, IgA: 201,5mg/dl và IgE:
0,162mg/dl.
SERUM IMMUNOGLOBULIN LEVELS AND RELATIONSHIP
WITH CLINICAL, SUBCLINICAL CHARACTERISTICS IN
PATIENT WITH CHRONIC OBSTRUCTIVE PULMONARY
DISEASE
Summary:
Study on serum antibody concentrations in and out of the severe exacerbation
of Chronic obstructive pulmonary disease (COPD) in 97 patients were hospitalized
from 5/2016 to 8/2017. Results: Mean concentrations of antibodies in and out of the
exacerbation were not significantly different. Mean values in the exacerbation episode
of IgG: 1322.95mg / dl, IgM: 470.45mg / dl, IgA: 201.5mg / dl and IgE: 0.162mg / dl.I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm trùng không chỉ là nguyên
nhân chính gây ra đợt cấp của Bệnh phổi
Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Hải Công ()
Ngày nhận bài: 10/01/2018, ngày phản biện: 24/01/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/3/2018
1
23
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018
tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT), mà còn
khuếch đại và duy trì tình trạng viêm
mạn tính đường thở trong BPTNMT. Các
kháng thế là những chất đóng vai trò chủ
yếu trong cơ chế đáp ứng miễn dịch thứ
phát của cơ thể. Tình trạng suy giảm miễn
dịch bẩm sinh hoặc mắc phải đều dẫn tới
sự giảm nồng độ các kháng thể trong máu.
*Bệnh viện quân y 175
Tùy thuộc vào từng loại kháng
thể bị suy giảm mà nguy cơ nhiễm trùng
và tác nhân gây nhiễm trùng cũng khác
nhau. Nghiên cứu giúp đánh giá vai trò
của sự thay đổi nồng độ Ig huyết thanh và
mối liên quan đặc điểm bệnh, nguy cơ và
tiên lượng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu ở 97 bệnh
nhân BPTNMT đợt cấp nặng nhập viện
trong thời gian từ 5/2016 – 8/2017 tại
Khoa Lao và Bệnh phổi – BVQY 103.
Xét nghiệm định lượng nồng độ Ig huyết
thanh trong và ngoài đợt cấp bằng bộ Kit
Invitrogen (Áo), thực hiện tại Bộ môn
Miễn dịch – HVQY.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1. Nồng độ trung bình các Ig huyết thanh trong và ngoài ĐBP
Nồng độ
p
Đợt bệnh
( X ± SE)
IgM
ĐBP
Ngoài ĐBP
470,45±55,4
440,9±36,6
IgA
IgE
IgG
201,5±49,5
0,162±0,048
1322,95±99,8
150,67±9,83
0,158±0,039
1414,42±148,07
IgG1
646,63±64,88
673,66±70,22
IgG2
552,53±39,24
635,8±120,26
IgG3
189,47±16,31
168,32±13,68
> 0,05
IgG4
77,78±8,5
82,01±10,65
IgM và IgE giảm thấp sau đợt bùng phát của bệnh. Nồng độ kháng thể IgA trung
bình tăng cao hơn trong đợt bùng phát. IgG và các phân lớp IgG1, IgG2 và IgG3 có xu
hướng tăng hơn ở sau đợt bùng phát. Tuy nhiên sự thay đổi nồng độ các lớp kháng thể
chưa có sự khác biệt rõ rệt trong và ngoài đợt cấp của bệnh (p > 0,05).
Nguyên nhân có thể do thời gian lấy mẫu giữa 2 thời điểm chưa đủ dài để có sự
24
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
khác biệt rõ rệt. Theo lý thuyết, thời gian bán hủy của IgG là 22 ngày, IgM 5 ngày, IgA
6 ngày và IgE là 2 ngày.
Bảng 2. Liên quan nồng độ Ig huyết thanh trong ĐBP với mức độ ĐBP
Nồng độ
( X ± SD)
Mức độ ĐBP (GOLD 2017)
Không suy
Suy hô hấp không
Suy hô hấp đe
hô hấp
đe dọa tính mạng
dọa tính mạng
n = 58
n = 19
n = 20
IgG
1296,4±983,4
1340,1±672
1206,6±590,6
IgG1
681,4±677,4
589,5±323,7
609,6±307
IgG2
523,4±350,9
606,7±313,9
572,1±237,5
IgG3
185,7±114,3
155,8±102
210±136,1
IgG4
71,3±64,4
92,8±94,3
83,7±80,1
IgM
465,3±542,8
424,4±262,6
357,4±198,3
IgA
146,8±82,1
353±861,2
155,8±95,4
IgE
0,13±0,26
0,25±0,73
0,12±0,13
p
p > 0,05
Chưa nhận thấy sự khác biệt rõ về nồng độ các kháng thể theo các mức độ của đợt
bùng phát BPTNMT. Theo một số tác giả, mức độ suy giảm kháng thể có ảnh hưởng trực
tiếp đến căn nguyên và mức độ nặng của tình trạng nhiễm trùng, dẫn đến biểu hiện lâm
sàng khác nhau [1], [2], [3], [4]. Do không có điều kiện xét nghiệm định lượng nồng độ
kháng thể tại chỗ đường thở trong đợt bùng phát nên chưa có cơ sở nhận xét chính xác
về mối liên quan giữa sự thay đổi kháng thể theo mức độ đợt bùng phát.
25
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018
Bảng 3. Liên quan giữa nồng độ Ig ngoài ĐBP và số ĐBP/năm
Nồng độ
( X ± SD)
IgG
IgG1
IgG2
IgG3
IgG4
IgM
IgA
IgE
<2
Số đợt cấp/năm
2–3
>3
n=9
1183,6±507
643,3±292,3
437,2±188,9
234,1±106,6
44,4±22,7
351,3±175
136,6±61,7
0,083±0,066
n = 51
1313±778,8
640,4±435,2
566,5±354
188,7±110,6
74,1±64,6
431,5±257,5
225,2±530,2
0,093±0,131
n = 37
1274,8±854,3
661,1±747,9
554,1±302,5
151,5±120
91,6±90,5
460,5±652,2
152,1±93,4
0,247±0,59
Nồng độ IgG3 cao hơn ở nhóm có
ít đợt bùng phát/năm, có thể liên quan đến
khả năng đáp ứng miễn dịch với một số
căn nguyên nhiễm trùng hô hấp dưới và
giúp hạn chế các đợt cấp do nhiễm trùng.
IgG là lớp kháng thể có vai trò chính trong
cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại các tác
nhân vi khuẩn gây bệnh [5], [6]and the
results were compared with those obtained
in a healthy adult control group. Antibody
production deficiency was defined as
p
> 0,05
a failure to respond to either vaccine.\
nResults\nOne hundred seven patients
were included in the study (mean age,
46.3 years. IgM và IgE có xu hướng tăng
cao ở các bệnh nhân có nhiều đợt bùng
phát. Điều này có thể liên quan đến vai trò
đáp ứng miễn dịch với tình trạng nhiễm
trùng cấp tính và tăng mẫn cảm đường thở
trong các đợt bùng phát của bệnh của 2 lớp
kháng thể này.
Bảng 4. Tương quan giữa nồng độ Ig và PCT, CRP huyết thanh
Kháng thể
IgG
IgM
IgA
IgE
r
0,11
0,08
0,05
0,07
PCT
p
0,14
0,22
0,31
0,25
Chưa ghi nhận có sự tương quan rõ
26
r
0,05
0,07
0,08
0,1
CRP
p
0,31
0,25
0,23
0,16
giữa nồng đồ các kháng thể và PCT, CRP
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
huyết thanh trong đợt bùng phát BPTNMT.
PCT và CRP là các yếu tố phản ánh tình
trạng và mức độ đáp ứng viêm cấp tính toàn
thân, đồng thời cũng có giá trị đánh giá mức
độ nặng của tình trạng nhiễm trùng trong
đợt cấp của BPTNMT [7], [8], [9], [10]and
procalcitonin as prognostic biomarkers in
acute exacerbation of COPD”,”container-
title”:”Chest”,”page”:”1058-1067”,”volu
me”:”131”,”issue”:”4”,”source”:”PubMe
d”,”abstract”:”BACKGROUND: A novel
approach to estimate the severity of COPD
exacerbation and predict its outcome is the
use of biomarkers. We assessed circulating
levels of copeptin, the precursor of
vasopressin, C-reactive protein (CRP.
Bảng 5. Liên quan nồng độ Ig và kết quả điều trị
Nồng độ
( X ± SD)
IgG
IgG1
IgG2
IgG3
IgG4
IgM
IgA
IgE
Ổn định
Kết quả điều trị
Thông khí hỗ trợ
Tử vong
n = 75
1313,6±885,5
645,9±547
547,9±347
190,9±110,8
76,7±75,2
469±492,5
203,2±440,2
0,16±0,43
n = 02
1674,4±105,6
671,4±27,5
726,3±189,2
157,9±142,1
118,7±31
526±22,5
139,4±8,4
0,23±0,24
n = 20
1145,8±770,3
656,3±659,9
539,3±225
23,5±2,4
79,2±73,5
299±168,1
141,2±84,5
0,11±0,12
Nồng độ IgG3 và IgM giảm thấp
có ý nghĩa ở nhóm tử vong so với nhóm
không tử vong (p < 0,05). Nồng độ lớp IgG
chung, IgA, IgE ở nhóm không tử vong
cũng cao hơn so với nhóm tử vong, tuy
nhiên sự khác biệt chưa rõ rệt. Cho thấy có
sự suy giảm về miễn dịch dịch thể ở một
mức độ nào đó ở các bệnh nhân BPTNMT
giai đoạn muộn và trong các đợt bùng phát
nặng có suy hô hấp và tử vong.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu bước đầu đã giúp
p
> 0,05
< 0,05
> 0,05
< 0,05
> 0,05
xác định được ngưỡng giá trị trung bình
của các lớp kháng thể huyết thanh ở bệnh
nhân BPTNMT trong và ngoài đợt bùng
phát. Làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp
theo về miễn dịch trong BPTNMT, vì hiện
tại ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào
công bố về vấn đề này. Nghiên cứu cũng
đã phân tích và nhận thấy một số thay đổi
về nồng độ các kháng thể theo một số
đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của
BPTNMT. Chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích
thêm để làm rõ mối liên quan này, cũng
như vai trò của sự thay đổi nồng độ kháng
thể huyết thanh đến đặc điểm, tiên lượng
27
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018
của BPTNMT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Karnak D., Beder S.,
Kayakano., et al. (2001), “IgG subclass
levels in ELF in COPD”. analysis, 19, 20.
2. Qvarfordt I., Riise G.C.,
Andersson B.A., et al. (2001), “IgG
subclasses in smokers with chronic
bronchitis and recurrent exacerbations”.
Thorax, 56(6), 445–449.
3. Justel M., Socias L.,
Almansa R., et al. (2013), “IgM levels
in plasma predict outcome in severe
pandemic influenza”. J Clin Virol Off Publ
Pan Am Soc Clin Virol, 58(3), 564–567.
4. Reynolds H.Y. (1988),
“Immunoglobulin G and Its Function in
the Human Respiratory Tract”. Mayo Clin
Proc, 63(2), 161–174.
5. Vendrell M., de Gracia J.,
Rodrigo M.J., et al. (2005), “Antibody
Production Deficiency With Normal IgG
Levels in Bronchiectasis of Unknown
Etiology”. Chest, 127(1), 197–204.
6.
28
McCullagh B.N., Comellas
A.P., Ballas Z.K., et al. (2017), “Antibody
deficiency in patients with frequent
exacerbations of Chronic Obstructive
Pulmonary Disease (COPD)”. PLoS ONE,
12(2).
7. Stolz
D.,
Christ-Crain
M., Morgenthaler N.G., et al. (2007),
“Copeptin, C-reactive protein, and
procalcitonin as prognostic biomarkers
in acute exacerbation of COPD”. Chest,
131(4), 1058–1067.
8. Saldías P.F., Díaz P.O.,
Dreyse D.J., et al. (2012), “Etiology and
biomarkers of systemic inflammation in
mild to moderate COPD exacerbations”.
Rev Médica Chile, 140(1), 10–18.
9. Mohamed K.H., Abderabo
M.M., Ramadan E.S., et al. (2012),
“Procalcitonin as a diagnostic marker in
acute exacerbation of COPD”. Egypt J
Chest Dis Tuberc, 61(4), 301–305.
10. Jia T.G., Zhao J.Q., and Liu
J.H. (2014) “Serum inflammatory factor
and cytokines in AECOPD”. Asian Pac J
Trop Med, 7(12), 1005–1008.