Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5- 6 tuổi ở trường Mầm non Krông ANa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.51 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
Trang
I.Phần   mở   đầu...................……………………...……………………….....
…...3
1.

 



 

do

chọn

 

 

đề

 

tài...........

……………………………………………………....3
2. Mục tiêu và nhiệm vụ...............………………………………………….....…
5
3. Đối tượng nghiên cứu...........……………………………………………….…
5


4.   Giới   hạn   phạm   vi   nghiên   cứu....…………………………………………..
…..5
5.Phương   pháp   nghiên   cứu...................…………………………………..
……...5
II.

 

Phần

 

nội

 

dung..............

……………………………………………………...6
1.   Cơ   sở   lí   luận.......……………………………………………………....
……....6
2.   Thực   trạng…...............……………………………………………....…...
…...6
2.1.Thuận lợi, khó khăn.............................................……………………………
6
2.2.

 

Thành


 

công,

 

hạn

 

chế.......................…….

…………………………………...7

1


2.3.   Mặt   mạnh,   mặt   yếu.......................…………………………………….
…….7
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố  tác động ...………………………………..
….8
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề  về thực trạng mà đề  tài đã đặt ra…...…..
…..8
3.Giải   pháp,   biện   pháp…...................…………………………………......
……..8
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp…..............……………………..…......
…8
3.2.   Nội   dung   và   cách   thức   thực   hiện   giải   pháp,   biện   pháp…................
…….......9

3.3. Điều kiều để thực hiện các giải pháp……................………………..…..…
20
3.4.   Mối   quan   hệ   giữa   các   biện   pháp,   giải   pháp………....…………….
……….21
3.5.   Kết   quả   khảo   nghiệm,   giá   trị   khoa   học   của   vấn   đề   nghiên  
cứu……............21
4.   Kết   quả   thu   được   qua   khảo   nghiệm   ……………...……..................
………...21
III.   Phần   kết   luận,   kiến   nghị………………......................................
………...23
1.

 

Kết

 

luận……………………….....................…………………….....

……….23
2. Kiến nghị……………………………….................……….....……………...24
2


Tài

 

liệu


 

tham

 

khảo……………………………….............

……………………..26
 

3


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÁT TRIỂN 
NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5­6 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON KRÔNG ANA

I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ vừa là phương tiện vừa là điều kiện để con người hoạt động 
và giao lưu. Trong học tập, ngôn ngữ vừa là công cụ để tư duy, lĩnh hội kiến 
thức, vừa nói lên khả  năng trí tuệ của con người. Ngôn ngữ  được hình thành  
và phát triển tâm lý, nhân cách cá nhân.
Ngôn ngữ nói, giao tiếp và đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối 
với sự phát triển nhân cách của trẻ Mầm non nói riêng, của con người và xã 
hội nói chung.
Lứa tuổi Mầm non là thời kỳ  phát cảm ngôn ngữ. Đây là giai đoạn có 
nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ  nói và các kỷ  năng  

đọc viết ban đầu của trẻ.  Ở  giai đoạn này trẻ  đạt được những thành tích vĩ 
đại mà ở các giai đoạn sau không thể có được, trẻ học nghĩa và cấu trúc của  
từ, cách sử  dụng từ  ngữ  để  chuyển tải  suy nghĩ và cảm xúc của bản thân, 
hiểu mục đích và cách thức con người sử dụng chữ viết.
Cùng với quá trình lĩnh hội ngôn ngữ, trẻ lĩnh hội và phát triển các năng 
lực tư duy như xây dựng và biểu đạt ý tưởng, chia sẻ thông tin và tiếp nhận, 
đáp lại ý tưởng, thông tin với người khác. Ngôn ngữ  giúp trẻ  bày tỏ  ý kiến,  
đặt câu hỏi, phân loại và phát triển cách tư  duy và tạo nên cầu nối giữa quá 
khứ, hiện tại và tương lai. Vygotsky đã nhấn mạnh rằng ngôn ngữ  nói rất 
quan trọng trong việc giải quyết nhiệm vụ  khó, tạo mối quan hệ  xã hội và 
kiểm soát hành vi của những trẻ khác cũng như hành vi của bản thân. 
4


Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực 
phát triển khác của trẻ. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy vì thế ngôn ngữ có ý  
nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhận thức, giải quyết vấn đề  và chức 
năng tư duy ký hiệu tượng trưng ở trẻ.
Sự  lĩnh hội ngôn ngữ  là rất cần thiết cho việc phát triển tình cảm, xã  
hội và nhận thức của trẻ. Sự phát ngôn ngữ của trẻ ảnh hưởng đến khả năng  
học tập trong trường Tiểu học, Trung học và cả trong tương lai. Ngôn ngữ và 
khả năng đọc viết là rất quan trọng cho những thành công trong tương lai của  
con người. 
Nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ  và chuẩn bị  tiếng 
Việt cho trẻ  theo nguyên tắc cơ  bản của Giáo dục có chất lượng.  Trẻ  em 
được học trong một môi trường học tập thân thiện, phương pháp giảng dạy 
tích cực, cởi mở và thân quen gần gũi. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em phụ 
thuộc rất lớn vào sự  giao tiếp của trẻ  em và người lớn và trẻ  em với nhau. 
Trong công tác giáo dục trẻ mầm non, giáo viên cần phải có ý thức rèn luyện 
và phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách thường xuyên, liên tục ở mọi lúc mọi 

nơi, mọi hoạt động với nhiều biện pháp khác nhau. Biện pháp phát triển hoạt 
động ngôn ngữ cho trẻ 5­ 6 tuổi là cách thức thực hiện các nội dung phát triển 
các kỷ năng ngôn ngữ nhằm giúp trẻ có khả năng diễn đạt rõ ràng mạch lạc, 
có văn hóa và chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.
Phát triển khả  năng phát âm, rèn ngữ  điệu lời nói, hình thành và phát 
triển vốn từ, phát triển ngôn ngữ  mạch lạc, nghệ  thuật cho trẻ  5 ­ 6 tuổi  ở 
trường mầm non là một trong những hoạt động giáo dục hữu hiệu nhất để 
phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trên thực tế có những giáo viên còn cứng nhắc, 
rập khuôn, máy móc, chưa linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức cho trẻ hoạt  
động, hạn chế cho trẻ thực hành trãi nghiệm. Dựa trên cơ sở lý luận và thực 
tiễn của vấn đề  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  mẫu giáo 5 ­ 6 tuổi. Giúp giáo 
viên  hiểu  biết   thêm   về  những  hình  thức   tổ  chức  thực  hiện,  tích  cực   đổi 
5


phương pháp dạy học, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn  
ngữ  cho trẻ. Bản thân tôi chọn đề  tài “Một số  biện pháp chỉ  đạo nâng cao 
chất lượng phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  5­ 6 tuổi  ở  trường Mầm non Krông 
ANa ” để  nghiên cứu và áp dụng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cho 
đội ngũ giáo viên ở trường.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề tài này nhằm bồi dưỡng cung cấp thêm cho giáo viên 
một số  kiến thức, kỹ  năng để  tổ  chức hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ 
cho trẻ có hiệu quả hơn. Kiến thức cung cấp cho trẻ phải có trình tự, hợp lý 
và thống nhất, đồng thời phải chính xác, thiết thực và mang tính  ứng dụng 
cao. 
Nhiêm vu cua đê tai là giup giao viên biêt cach tô ch
̣
̣ ̉
̀ ̀

́
́
́ ́
̉ ức xây dựng môi  
trương tô ch
̀
̉ ưc cac hoat đông giáo d
́ ́
̣
̣
ục trẻ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giúp  
trẻ lĩnh hội cả ba thành phần của ngôn ngữ  đó là phát âm, phát triển vốn từ,  
nói đúng ngữ pháp. Nhiệm vụ quan trọng nhất phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 
6 tuổi là phát triển ngôn ngữ mạch lạc, lời nói nghệ thuật. Trẻ là chủ thể của  
phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ  của trẻ  được phát triển thông qua quá trình 
giao tiếp của trẻ với những người xung quanh, với môi trường tự nhiên và xã 
hội. Để  phát triển ngôn ngữ, trẻ  phải được nghe, được băt ch
́ ươc l
́ ời nói, 
được chủ động noi nh
́ ững lời nói diễn cảm, mạch lạc, rõ ràng, nghệ thuật.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số biện pháp chỉ đạo nâng 
cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mầm non Krông 
Ana.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề  tài là một số  biện pháp chỉ  đạo nâng cao 
chất lượng phát triển ngôn ngữ
6



Phạm vi đối tượng: Học sinh 5 – 6 tuổi trường Mầm non Krông Ana
Phạm vi thời gian: Năm học 2015 ­ 2016
5. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này đã sử dụng:
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu
+ Phương pháp trao đổi đàm thoại
+ Phương pháp trải nghiệm thực tiễn.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận
Sự  phát triển toàn diện của trẻ  bao gồm cả  phát triển về  đạo đức, 
chuẩn mực hành vi văn hóa. Điều gì tốt, điều gì xấu, cần phải  ứng xử, giao 
tiếp cho phù hợp… không chỉ là sự bắt chước máy móc. Ngôn ngữ phát triển 
sẽ giúp trẻ mở rộng giao tiếp. 
Ngôn ngữ phát triển  giúp trẻ sớm tiếp thu những giá trị thẩm mỹ trong  
thơ ca, chuyện kể,trong cuộc sống hàng ngày. Trong cuộc sống hằng ngày sự 
tác động của những lời nói nghệ thật nhẹ nhàng của cô giáo khi truyền cảm  
xúc của tác phẩm văn học, như một phương tiện hữu hiệu nhất để phát triển  
ngôn ngữ  cho trẻ. Lứa tuổi Mầm non là giai đoạn phát triển ngôn ngữ  siêu  
tốc. 
Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng có mục đích, nhiệm vụ, 
nội dung, phương pháp cụ  thể  như  các phương pháp hoạt động khác. Phát 
triển ngôn ngữ  cho trẻ  được tích hợp trong tất cả  hoạt động giáo dục trẻ.  
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói chung, trẻ 5 – 6 tuổi nói riêng 
là rất quan trọng đối với giáo viên mầm non. Đội ngũ giáo viên cần có những  
kiến thức, kỷ  năng, biện pháp, thủ  thuật, biết tận dụng các cơ  hội có được 
7



mới có thể nâng cao chất lượng tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách 
tốt nhất.
2.Thực trạng
2.1. Thuận lợi, khó khăn
Trường mầm non Krông Ana là một trường trọng điểm của ngành học  
mầm non. Có cơ  sở  vật chất, trang thiết bị đồ  dùng, đồ  chơi tương đối đầy 
đủ. Đội ngũ giáo viên đa số  đã có bề  dày kinh nghiệm trong công tác giảng 
dạy. Có nhiều giáo viên trẻ, linh hoạt, sáng tạo, có khả năng truyền thụ kiến 
thức cho trẻ một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó vẫn còn một số  giáo viên (nhất là giáo viên lớn tuổi, giáo 
viên mới ra trường). Khi tiếp cận với chương trình giáo dục mầm non (mới),  
việc tổ  chức hướng dẫn cho trẻ  hoạt động còn cứng nhắc, rập khuôn, máy 
móc (nhất là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 ­ 6 tuổi) giáo viên chưa có 
kỹ  năng, thủ  thuật, đọc thơ, kể  chuyện chưa diễn cảm, chưa truyền được 
cảm xúc cho trẻ, chưa gây được hứng thú cho trẻ khi hoạt động.
2.2. Thành công và hạn chế
Khi vận dụng đề  tài này, giáo viên sẽ  có những kiến thức cơ  bản,  
những biện pháp, những kỹ năng, thủ thuật đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, để 
truyền thụ  kiến thức, đưa đến cho trẻ  những cảm xúc, những hình tượng 
tuyệt diệu của ngôn ngữ  một cách có hệ  thống. Từ   đó hướng chú ý của trẻ 
vào  phát âm chuẩn xác, vốn từ phát triển,lời nói mạch lạc, nghệ thuật
Trẻ  biết tự  kể  lại chuyện, biết sử  dụng trong lời nói của mình bằng 
các từ  mà trẻ  đã lĩnh hội được. Điều này chứng tỏ  đã chuẩn bị  cho sự  phát  
triển ngôn ngữ nghệ thuật của trẻ. Tuy nhiên với những nội dung của đề  tài  
này, nếu giáo viên không chịu khó suy nghĩ, rèn luyện kỹ  năng để  vận dụng 
vào thực tế  thì nhiều hoạt động giáo dục để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ 
không đạt được hiệu quả cao.
8



2.3. Mặt mạnh, mặt yếu
Với nội dung của đề tài này giáo viên đã biết vận dụng trong quá trình  
hướng dẫn trong các hoạt động.
Tổ chức cho trẻ 5 – 6 tuổi trong các hoạt động giáo dục với nhiều hình  
thức khác nhau như hình thức trong tiết học, hay hoạt động ngoài trời, đi dạo, 
đi tham quan đều vận dụng các biện pháp đưa ra để  dạy trẻ, nhằm giúp trẻ 
hoạt động tích cực… Trẻ  biết phân tích, tổng hợp và khái quát hóa tri thức,  
đồng thời trẻ biết cảm nhận, rung động trước cái hay, cái đẹp của tác phẩm 
của đời sống xã hội. 
Từ  đó trẻ  không những thích đọc thơ, đọc ca dao, đồng dao, thích kể 
chuyện mà còn biết cách đọc thơ, kể  chuyện diễn cảm, lời nói của trẻ  rõ 
ràng, mạch lạc, nghệ  thuật, trẻ  tự  tin trong giao tiếp. Song nếu giáo viên 
không chịu khó suy nghĩ, đầu tư  xây dựng môi trường hoạt động cho trẻ, 
không có sự  linh hoạt sáng tạo khi vận dụng các nội dung biện pháp của đề 
tài thì việc tổ chức hướng dẫn trẻ hoạt động để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ 
ở trường mầm non vẫn chưa đạt hiệu quả.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động 
Với nội dung đề  tài này đã đưa ra các biện pháp thực tiễn, dễ  thực  
hiện. Đã có sự  lựa chọn nội dung, các phương pháp biện pháp và hình thức  
phù hợp cho trẻ  thực hành trải nghiệm để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ. Tiến  
hành phân tích tổng hợp tìm ra được những  ưu điểm, hạn chế  của giáo viên 
hay của trẻ, để tổ chức các hoạt động giáo dục nhằm phát triển ngôn ngữ cho  
trẻ có hiệu quả hơn.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt 
ra

9


Từ  những khó khăn bất cập về  việc cho phát triển ngôn ngữ  trẻ  5 ­ 6  

tuổi các hoạt động giáo dục. Muốn thành công và hạn chế những vấn đề yếu 
kém, và tìm ra được nguyên nhân 
Để   khắc   phục,   cần   phải   thường   xuyên   phân   tích   và   tổng   kết   kinh  
nghiệm giảng dạy. Cần có sự  lựa chọn nội dung phương pháp, biện pháp và 
các hình thức cho trẻ  tiếp cận với hoạt động giáo dục. Tiến hành phân tích 
tổng hợp tìm ra những nguyên nhân ưu điểm hạn chế của cá nhân hay tập thể 
sư  phạm trong quá khứ, để  tổ  chức phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  5 ­ 6 tuổi  
trong các hoạt động học tập và vui chơi ở trường mầm non được tốt hơn.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Các giải pháp biện pháp đưa ra sẽ  giúp cho giáo viên có thêm kỹ  năng  
thủ thuật để tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ có hiệu quả. Giáo viên biết  
phân tích nội dung và nghệ  thuật của tác phẩm và hướng dẫn trẻ  thực hành 
trãi nghiệm. 
Giáo viên nắm được kỷ  thuật truyền đạt cho trẻ. Giúp trẻ  phát âm rõ 
ràng, sử dụng các phương tiện biểu cảm ngữ điệu ( tốc độ, nhịp điệu, ngừng 
nghỉ, điều chỉnh độ  nhanh chậm, cường độ  giọng).  Làm cho việc tiếp thu 
kiến thức của trẻ  trở  nên dễ  dàng và sự  ghi nhớ  giàu cảm xúc để  phát triển 
ngôn ngữ của trẻ trở nên bền vững và chính xác hơn.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp
* Biện pháp thứ nhất: Hướng dẫn giáo viên rèn luyện khả năng nghe  
lời nói, khả năng phát âm, rèn luyện ngữ điệu của lời nói cho trẻ.
Phản  ứng nghe các âm thanh tự nhiên xuất hiện  ở trẻ rất sớm. Nhất là 
trẻ 5 – 6 tuổi có thể phản ứng được với các mức độ  khác nhau của âm thanh  
lời nói.
10


Rèn luyện khả năng nghe cho trẻ bao gồm các thành tố: rèn luyện khả 
năng chú ý nghe, nghe cao độ, nghe từng âm vị, tri giác tốc độ, nhịp độ lời nói.  

Khả năng nghe tốt sẽ tạo điều kiện cho khả năng nói phát triển.
Đối với trẻ  năm tuổi, vốn từ  tăng nhanh, trẻ  hiểu được nghĩa và dùng  
từ  đã chính xác hơn, đã sử  dụng được nhiều mẫu câu đơn giản, đúng ngữ 
pháp, có thể  kể  một số  chuyện ngắn một cách tuần tự, lôgic, có thể  kể 
chuyện theo tranh… Như  vậy,  điều kiện và khả  năng giao tiếp được mở 
rộng.
Mặt âm thanh của lời nói cũng nhanh chóng phát triển: Trẻ  lĩnh hội 
được và phát âm đúng nhiều âm vị, phát âm từ, câu rõ nét hơn, trẻ  bắt đầu 
biết điều chỉnh tốc độ, cường độ của giọng nói.
Nhiệm vụ của giáo viên là dạy trẻ phát triển khả năng nghe các âm tiết,  
phát âm đúng tất cả  các âm vị  tiếng Việt trong các từ, câu một cách rành  
mạch, rõ ràng. Tiếp tục rèn luyện kỹ  năng điều chỉnh giọng nói với cường  
độ, tốc độ phù hợp với tình huống giao tiếp.
Nếu  ở  giai đoạn trước sử  dụng rộng rãi biện pháp bắt chước thì giai  
đoạn này giáo viên cần sử  dụng biện pháp cho trẻ tập phát âm (sử  dụng các  
bài tập – trò chơi) Tuần tự  tập cho trẻ  phát âm tất cả  các âm vị  trong tiếng  
Việt. Các âm vị khó phát âm như: r, s, x, l, m, n phải chú ý tập cho trẻ thường  
xuyên liên tục ở mọi lúc mọi nơi.
Phần lớn trẻ  tuổi mẫu giáo lớn đã nắm được và phát âm đúng tất cả 
các âm vị của tiếng mẹ đẻ, phát âm đúng hầu hết các thanh điệu, biết phát âm  
đúng và rõ các từ, biến đổi cường độ, ngữ điệu phù hợp, sử dụng các phương  
tiện biểu cảm phát âm phù hợp…
Có một số trường hợp trẻ yếu không phát âm được hoàn toàn các âm vị,  
thanh điệu, và phát âm sai một số  từ  khó, bỏ  sót một số  nguyên âm. Một số 
11


không phân biệt được các âm gần giống nhau: s – x, l – m ­ n, r – d; ch ưa làm  
chủ được cường độ, ngữ điệu.
Giáo viên cần tiếp tục hoàn thiện khả  năng nghe lời nói cho trẻ, giáo 

viên cần phát âm chuẩn xác, rõ ràng cho trẻ bắt chước phát âm theo, củng cố 
các kĩ năng nói rõ đúng các từ, câu, sử dụng đúng ngữ điệu biểu cảm cho trẻ.
Giáo viên cần sử  dụng các bài tập, trò chơi ngôn ngữ, các câu chuyện  
kể, những bức tranh có chủ  đề, những bài tập nói nhanh, câu đố… có chứa 
các câu khác nhau để trẻ luyện nghe nói đồng thời rèn luyện ở trẻ tốc độ nói, 
phát âm, kĩ năng điều chỉnh giọng nói…
Trẻ hát và nói cùng sử dụng một bộ máy phát âm. Vì thế luyện hát cho 
trẻ đồng thời cũng là luyện âm thanh ngôn ngữ. Dạy trẻ hát tức là rèn luyện 
cho trẻ khả năng điều khiển bộ máy phát âm của mình.
Các giờ  nghe hát luyện tai nghe  cho trẻ. Tai nghe âm nhạc khiến  cho khả 
năng nghe tinh tế hơn, nhạy cảm hơn rất nhiều . Chính bởi bản chất của âm 
thanh âm nhạc. Nghe nhạc là nghe một cách toàn diện cả  cao độ, cường độ, 
nhịp điệu, âm sắc…
Các bài hát đòi hỏi trẻ phải làm chủ việc điều khiển phát âm một cách 
hết sức tinh tế sao cho âm thanh ngôn ngữ vừa đúng, vừa biểu cảm.
Mọi lúc, mọi nơi cô đều có thể luyện phát âm cho trẻ: khi tập thể dục,  
đi dạo, giờ  chơi, trong thời gian đón và trả  trẻ… Giáo viên phải nắm vững 
khả năng phát âm của từng cháu để lựa chọn thời điểm thích hợp luyện phát 
âm cho trẻ. Để làm được điều này, giáo viên cần tiến hành khảo sát khả năng 
phát âm của trẻ ngay từ đầu năm học để tìm hiểu từng cá nhân trẻ. Từ đó có 
kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp.
Việc luyện tập cho trẻ phát âm đúng và dùng ngữ điệu đúng thích hợp  
được diễn ra  ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt động của trẻ. Trước hết là trong  
12


giao tiếp hằng ngày của trẻ với người lớn, với bạn bè. Trong cuộc sống hằng  
ngày, cô cần thường xuyên giao tiếp bằng ngôn ngữ với trẻ. Khi giao tiếp với  
trẻ, cô phải phát âm rõ ràng, phát âm đúng để trẻ bắt chước, uốn nắn, tập cho  
trẻ phát âm đúng các âm tiết của tiếng mẹ đẻ, nhất là những âm khó, những 

âm khó phân biệt, dẫn đến sự nói ngọng: l – m – n , p – q…
Trong giao tiếp hàng ngày, cô không chỉ rèn luyện cho trẻ phát âm đúng, 
mà cần tập luyện cho trẻ biết sử dụng ngữ điệu đúng, thích hợp với những  
hoàn cảnh, tâm trạng cụ thể. Dùng ngôn ngữ êm dịu, nhẹ nhàng, tình cảm để 
biểu thị tình cảm yêu thương của trẻ
Việc dạy trẻ phát âm đúng, sử dụng ngữ điệu thích hợp, đúng còn được 
thực hiện trong việc tổ chức cho trẻ chơi, trong hoạt động học tập, đặc biệt  
là trong khi kể  chuyện cho trẻ  nghe và khi trẻ  kể  chuyện cho người khác 
nghe.
Khi kể  chuyện, giọng nói và ngữ  điệu là phương tiện rất quan trọng.  
Có thể nói rằng câu chuyện trở nên hấp dẫn nhờ  giọng kể hấp dẫn, biết sử 
dụng ngữ  điệu thích hợp để  diễn tả  tính cách nhân vật. Trẻ  tập trung chú ý  
cao độ vào ngôn ngữ kể chuyện của cô, lắng nghe cách phát âm, ngữ điệu của 
cô, trên cơ  sở đó trẻ học được cách phát âm, dùng ngữ  điệu thích hợp, và kể 
lại chuyện theo sự sáng tạo của mình. Khi trẻ kể lại chuyện, cô cần uốn nắn  
cho trẻ cách phát âm đúng các âm khó, sử dụng ngữ điệu thích hợp, đúng với  
tính cách nhân vật, trong những tình huống cụ thể.
Ví dụ: Một số bài thơ, đồng dao có thể dùng để  luyện phát âm các âm 
vị khó  cho trẻ như
Con kiến mà leo cành đa

Hoặc:  Lúa nếp là lúa nếp làng

Leo   phải   cành   cụt   leo   ra   leo   Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng
vào
13


Con kiến mà leo cành đào, 


Hay câu đố: Rì rì rà rà

Leo phải cành cụt leo vào leo  

Cõng nhà đi chơi

ra

Là con gì? Con Rùa

* Biện pháp thứ 2: Hướng dẫn giáo viên hình thành và phát triển vốn  
từ cho trẻ.
Có thể nói rằng đến 5 tuổi trẻ đã tích lũy vốn từ khá phong phú, không 
những danh từ, mà cả  động từ, tính từ, liên từ  đủ  để  giao tiếp với những  
người xung quanh. Việc phát triển vốn từ cho trẻ không chỉ  là việc cung cấp  
từ mới cho trẻ, mà cần giúp trẻ mở rộng nghĩa của từ mà trẻ đã biết. Vì vậy  
giáo viên cần thực hiện những biện pháp cơ bản sau:
Hướng dẫn trẻ quan sát
Giáo viên dạy trẻ quan sát là dạy trẻ biết xem xét, phân tích, so sánh để 
tìm ra những đặc điểm, thuộc tính của đối tượng quan sát về các mối quan hệ 
của nó với môi trường xung quanh. Trong quá trình quan sát, các giác quan 
được huy động (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ mó…)
Quá trình hướng dẫn trẻ quan sát là quá trình có mục đích, có kế hoạch, 
thứ  tự  đi từ  sự  phân tích mặt này đến sự  phân tích mặt khác, vừa đưa ra từ 
mới, vừa củng cố từ cũ.
Ví dụ: Quan sát cái xe ô tô tải: Nhìn tổng thể có các bộ phận: Buồn lái, 
thùng xe, các bánh xe. Đi vào quan sát buồng lái trước (ngoài vào trong) –  
thùng xe – gầm bao gồm các bánh xe.
Chuẩn bị cho quan sát:
+ Chọn đối tượng phù hợp: Đối tượng cho trẻ  quan sát cần phải đẹp, 

hấp dẫn, lối cuốn chú ý.
14


+ Chọn những kiến thức cần thiết: Xe tải to, nặng (có cả  xe tải nhỏ  ­  
taxi tải); để chở đồ đạc, hành lí, hàng hóa...
+ Chọn các từ ngữ phù hợp (những từ mới cần cung cấp, những từ khó 
cần phải giải nghĩa...).
+ Chọn những bài hát, trò chơi... để tăng sự hấp dẫn của hoạt động.
­ Tổ chức quan sát:
+ Bắt đầu chọn một bài thơ, câu đố, một bài hát phù hợp để khởi động.
+ Bắt đầu quan sát, cô cho các cháu tự do trao đổi những nhận xét đầu  
tiên và lắng nghe, chú ý đến vốn từ của các cháu được sử dụng như thế nào.
+ Cô tiến hành hướng sự quan sát của các cháu vào mục đích đã đặt ra.
Ví dụ: Khi cho trẻ đi tham quan công viên hoặc trường tiểu học.Cô dự 
kiến mục đích quan sát có thể là khung cảnh: (Cổng, đường đi, cũng có thể là  
các loại cây cối, các loài hoa).
+ Tri giác của trẻ cần được gắn liền với những từ ngữ (cô đã chuẩn bị 
trước). Tuy nhiên, cô cũng không hạn chế các từ ngữ do các cháu tự sử dụng.
+ Cô chú ý các cháu quan sát kĩ và được nói nhiều, các từ ngữ mới nêu 
được nhắc đi nhắc lại, kết hợp với tri giác các sự vật hiện tượng.
+ Cần lưu ý cung cấp cả những từ thể hiện tính chất của sự  vật như:  
Màu hoa đỏ rực rỡ, cánh hoa dày, lá cây nhỏ, con đường kéo dài...
­ Cũng cố kiến thức: bằng các bài thơ, câu đố, bài hát, cần củng cố  các  
kiến thức học được ở tiết học sau hoặc ở các hoạt động khác.
Cho trẻ xem tranh
Trẻ  nhỏ  rất thích xem tranh; những tranh đẹp có nội dung vừa phát 
triển vốn từ, vừa giáo dục thẩm mĩ nghệ thuật cho trẻ. Khi miêu tả bức tranh,  
trẻ tiếp thu thêm những từ mới, đồng thời huy động cả vốn từ cũ nữa.
15



Khi xem tranh, trẻ  thường chú ý một cách tản mạn; trẻ  tập trung vào 
những gì mà trẻ thích thú nhất. Nhiệm vụ của cô giáo hướng dẫn sự quan sát 
của trẻ theo trật tự. Đầu tiên là nhìn toàn bộ bức tranh để hiểu tranh vẽ ai, cái 
gì, sau đó mới đi vào chi tiết. Sau cùng, cô lại miêu tả  ngắn gọn về  toàn bộ 
bức tranh. Để  làm được như  vậy cô giáo cần hiểu rõ nội dung bức tranh 
trước khi hướng dẫn trẻ.
Các biện pháp dùng lời
Trò chuyện với trẻ theo câu hỏi: Đây là biện pháp chính hướng dẫn trẻ 
làm quen với thiên nhiên. Các câu hỏi có tác dụng hướng sự chú ý của trẻ tới  
đối tượng cần nhận thức, dạy trẻ biết quan sát đối tượng một cách tổng thể 
cũng như quan sát tỉ mỉ các đặc điểm, tính chất, mối quan hệ của các sự vật,  
hiện tượng trong thiên nhiên. Các câu hỏi cũng đồng thời kích thích trẻ  nói, 
gọi tên hoặc mô tả các đối tượng đang quan sát. Qua đó, vốn từ của trẻ ngày 
càng được mở rộng hơn. Cần chú ý sao cho câu hỏi đa dạng, buộc trẻ trả lời 
bằng các từ  loại khác nhau: Hỏi về  tên gọi, đặc điểm tính chất, công dụng,  
hoạt động...
Ví dụ: Câu hỏi về  tên gọi các loại hoa quả, cây cối, con vật: Cây gì 
đây? Đây là con gì? Quả gì?
Câu hỏi về công dụng của các đồ vật:...để làm gì?
Câu hỏi về  tính chất, đặc điểm của các sự  vật, hiện tượng: Như  thế 
nào? Màu gì?...
Khi trò  chuyện, cô giáo có thể sử dụng phối hợp một số thủ thuật: nói  
mẫu, nhắc lại, giảng giải, khen ngợi, cho trẻ  sử  dụng các thao tác sờ  mó, 
cầm nắm...
­ Sử dụng lời kể của cô giáo: Lời kể của cô giáo dễ gây hứng thú cho  
trẻ khi quan sát và giúp trẻ tri giác toàn bộ đối tượng, thấy được mối quan hệ 

16



giữa các sự vật hiện tượng; điều này làm cho trẻ dần dần hiểu đầy đủ hơn ý 
nghĩa của từ. 
Lời kể của cô giáo còn tạo ra mẫu mực ngôn ngữ cho các cháu noi theo 
(giọng nói, ngữ  điệu, điệu bộ...). Yêu cầu lời kể  của cô phải rõ ràng, đơn 
giản, dể hiểu đối với trẻ, chủ yếu là mô tả các đặc điểm, tính chất các hành 
động của đối tượng. Lời kể còn cần ngắn gọn, có lôgic đầy đủ các phần: Mở 
đầu, mô tả, kết thúc. Mở  đầu của lời kể là giới thiệu  về  đối tượng cho trẻ 
làm quen và sau đó mô tả các chi tiết, các đặc điểm, tính chất của đối tượng. 
Kết thúc lời kể là những nhận xét, đánh giá lời kể của trẻ. Có thể  tiến hành  
kể  trước hoặc sau trò chuyện, nó tùy thuộc vào khả  năng nhận thức của trẻ 
và mức độ phức tạp của chủ đề cho trẻ làm quen.
Khi cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học, giáo viên cần chú ý vận  
dụng các biện pháp phù hợp để giúp trẻ hiểu nghĩa từ, nhất là những từ ngữ 
nghệ thuật.
Để  giải thích cho trẻ  hiểu từ  trong tác phẩm văn học bằng biện pháp 
này thì trước hết cần phải chọn từ có nghĩa cụ  thể. Có như  vậy thì việc sử 
dụng đồ dùng trực quan kết hợp với lời giải thích mới có hiệu quả.
Ví dụ: Cô định giải thích cả câu từ “phe phẩy” trong câu thơ “phe phẩy  
quạt nan”  của bài thơ “Giữa vòng gió thơm” thì cô phải đọc cho trẻ nghe cả 
câu một đến hai lần hoặc cả một đoạn thì từ mới không bị tách rời khỏi ngữ 
cảnh, và như vậy trẻ sẽ cảm nhận tốt hơn.  Tiếp theo cô dùng biện pháp sử 
dụng đồ  dùng trực quan kết hợp với lời giải thích để  giúp trẻ  hiểu được  
nghĩa của từ mà tác giả dùng trong câu, trong bài thơ hay câu chuyện ấy.
Sử dụng các trò chơi học tập
Có thể sử dụng một số trò chơi học tập để phát triển vốn từ:
Trò chơi: Cái gì đã thay đổi

17



Trước mặt các cháu, cô bày một số  đồ  chơi. Yêu cầu các cháu nhắm 
mắt lại, cô thay đổi vị  trí của đồ  chơi hoặc cất đi và bổ  sung đồ  chơi khác 
vào vị trí đó. Yêu cầu trẻ mở mắt, quan sát và nói xem cái gì đã thay đổi. (ví 
dụ: Trong vườn bách thú có thỏ, khỉ, hươu cùng chơi với nhau – Có một số 
cây cối, đu quay, cầu trượt... Cô thay đổi vị trí của chúng phải, trái, trước, sau, 
bên cạnh... Yêu cầu trẻ nhận xét).
* Biện pháp thứ ba: Hướng dẫn giáo viên phát triển ngôn ngữ mạch  
lạc cho trẻ
Ngôn ngữ  mạch lạc là hình thức giao tiếp cơ  bản của trẻ. Hình thức  
giao tiếp này đã được hình thành  ở  cuối tuổi mẫu giáo. Trong quá trình giao 
tiếp, trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đã bắt đầu sử dụng ngôn ngữ giải thích, đặc biệt 
là ngôn ngữ  mạch lạc để  diễn đạt, nhấn mạnh ý muốn, sự  hiểu biết của  
mình để người khác có thể hiểu được trẻ muốn gì, nói cái gì?
Trong quá trình tổ chức cho trẻ hoạt động và giao tiếp cô cần tạo điều 
kiện để trẻ  nói rõ ràng, sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lí, nêu bật các ý 
cần nhấn mạnh để người khác hiểu một cách dễ dàng.
Ví dụ: Cần tập cho trẻ  mô tả  một công viên (mà trẻ  đã có dịp tham 
quan hoặc quan sát tranh, mô hình)
Đến 5 tuổi trẻ có khả  năng đánh giá khả  năng ngôn ngữ  của bạn, của 
mình, do vậy, bên cạnh việc rèn cho trẻ phát âm đúng, nói năng rõ ràng, mạch  
lạc, cô cần tạo điều kiện cho trẻ tự nhận xét, đánh giá về nhau. 
Ví dụ:  Một trẻ đóng vai gấu được các bạn nhận xét: “ Gấu gì mà nói  
năng dịu dàng, yếu đuối thế”, “Bác sĩ, cô giáo gì mà ăn nói cộc lốc như vậy”, 
khi trẻ nhận xét các bạn đóng vai bác sĩ, cô giáo….
Sự kiên trì của giáo viên là rất cần thiết. Để tập cho trẻ nói năng mạch 
lạc, theo một trình tự loogic, dễ hiểu, cô giáo phải biết lắng nghe, tập cho trẻ 
18



sắp xếp lại (nói lại) những điều cần nói theo một mạch lôgic. Thực ra qua 
những câu nói lộn xộn của trẻ, cô có thể  giải được ý muốn của trẻ, song 
không vì thế mà bỏ qua việc yêu cầu trẻ sắp xếp các câu nói cho hợp lí.
Ngôn ngữ mạch lạc còn được thể hiện ở  chỗ: trẻ nói năng có văn hóa  
(nói thoải mái, vừa đủ nghe, không hét, không quát, không nói tục…) 
Xã hội càng văn minh thì vấn đề  giáo dục hành vi văn hóa trong giao 
tiếp càng trở nên quan trọng. Chính vì vậy, ngay từ lứa tuổi mầm non, nhất là  
trẻ 5 tuổi. Cô cần rèn luyện cho trẻ thói quen nói năng có văn hóa, tập cho trẻ 
sự tự tin trong giao tiếp, không rụt rè, e sợ, tôn trọng, lễ phép với người lớn
Bên cạnh đó cô cần sửa các tật ngôn ngữ mà trẻ thường gặp nhất đó là 
tật nói ngọng. Nói ngọng do nhiều nguyên nhân. Có thể nói ngọng do nguyên 
nhân sinh học: bộ máy phát âm của trẻ kém phát triển, có thể do tác động của  
những yếu tố khách quan, tập quán địa phương. (Trong một môi trường mà từ 
già đến trẻ đều nói ngọng thì tất yếu trẻ sẽ nói ngọng)
Những tật nói ngọng này có thể  sửa được khi người lớn (bố  mẹ, ông  
bà, cô giáo…) phát âm chuẩn và có ý thức uốn nắn cho trẻ. Nếu người lớn  
luôn phát âm chuẩn, thì đến một lúc nào đó bộ máy phát âm của trẻ phát triển 
thì trẻ sẽ khắc phục được tật nói giọng của mình.
Tật thứ hai thường gặp trong sự phát triển ngôn ngữ  của trẻ là tật nói 
lắp (nói lắp bẩm sinh và nói lắp do tác động của những điều kiện bên ngoài). 
Trong quá trình giao tiếp ta thường gặp một số trẻ do rụt rè, e ngại, do dự mà 
nói mãi mới ra lời, hoặc quá vội vàng, lắp bắp khi nói năng… tất cả  những  
hiện tượng này sẽ dẫn đến tật nói lắp của trẻ. 
Vấn đề  đặt ra là giáo viên cần tập cho trẻ  tự  tin, bình tĩnh trong giao  
tiếp, uốn nắn khi trẻ  nói lắp, giúp trẻ  hiểu được nói lắp là xấu. Đồng thời 

19



bản thân giáo viên cũng không được nói lắp (giả  tập theo trẻ) khi giao tiếp 
với trẻ.
* Biện pháp thứ  tư: Hướng dẫn giáo viên phát triển ngôn ngữ  (lời  
nói) nghệ thuật cho trẻ qua thơ và truyện.
Văn học là một phương tiện có hiệu quả  mạnh mẽ, đối với việc giáo 
dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ cho trẻ và điều quan trọng là nó có ảnh hưởng 
to lớn tới sự  phát phát triển và làm phong phú lời nói của trẻ. Giáo viên là 
người đem đến cho trẻ tác phẩm văn học như một tác phẩm nghệ  thuật, mở 
ra ý nghĩa của nó, truyền cho trẻ những thái độ, cảm xúc.
Đối với các nhân vật của tác phẩm, đối với những xúc cảm trữ tình của 
tác giả  có nghĩa là truyền đạt bằng ngữ  điệu, thái độ  của mình đối với các  
nhân vật. Để  làm được điều đó, trước khi cho trẻ  làm quen , hiểu và rung 
động với tác phẩm. 
Giáo viên cần phải biết phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, 
và tất nhiên, giáo viên phải nắm được kỹ thuật đọc và kể, phát âm rõ ràng, sử 
dụng các phương tiện biểu cảm ngữ  điệu (tốc độ, nhịp điệu, ngừng nghỉ,  
điều chỉnh độ nhanh chậm, cường độ giọng...).
Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi có khả năng suy nghĩ sâu hơn về nội dung các  
tác phẩm văn học và hiểu một số đặc trưng của hình thúc thể hiện nội dung, 
có nghĩa là trẻ  có thể  phân biệt được các thể  loại văn học và đặc trưng của 
từng thể  loại. Trẻ dễ dàng phân biệt văn xuôi với thơ, chỉ  ra rằng thơ  có sự 
nhịp nhàng, có thể  phân biệt dựa vào tính nhịp điệu và cấu tạo vần, sự  ngân 
vang của các câu thơ. 
Giáo viên cần phải hướng sự chú ý của trẻ vào các đặc trưng thể loại,  
khi đó trẻ sẽ nhận thức sâu sắc hơn những giá trị của các tác phẩm văn học.

20


Dạy trẻ cảm nhận nhịp điệu, âm điệu của thơ, ca dao, đồng dao; Dạy 

trẻ cách đánh giá các nhân vật trong truyện; Dạy trẻ kể lại truyện theo từng  
đoạn, theo tranh; dạy trẻ tập đóng kịch. Các biện pháp chung là; kể, đọc diễn 
cảm các tác phẩm; đàm thoại với trẻ về cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ 
thuật của tác phẩm; dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, giúp trẻ ghi nhớ tác phẩm và 
sau đó có thể đọc, kể lại một cách diễn cảm.
Như vậy, mỗi một giờ dạy thơ đặt ra cho cô giáo những nhiệm vụ khác 
nhau: Cô phải đọc bài thơ một cách diễn cảm, đặt ra các câu hỏi đúng, hướng  
chú ý của trẻ vào nội dung và các phương tiện biểu cảm của tác phẩm: dạy 
trẻ  đọc diễn cảm (chọn ngữ  điệu phù hợp, ngắt nghỉ  đúng...) Việc đọc thơ 
của trẻ  phải chỉ  ra rằng, trẻ  không chỉ  hiểu bài thơ  nói gì mà còn phải biết 
mang đến cho người nghe hiểu thái độ của mình với tác phẩm.
Cần đưa vào tiết học phần nhắc lại các bài thơ đã học để các từ ngữ có  
hình  ảnh cũng cố  một cách vững chắc các mối quan hệ  liên tưởng đã được 
hình thành.
Về sau khi trẻ chuyển sang tự kể chuyện, trẻ sẽ sử dụng trong lời nói  
của mình các từ  ngữ  đã lĩnh hội được. Điều này chuẩn bị  cho sự  phát tiển  
ngôn ngữ nghệ thuật của trẻ.
* Biện pháp thứ  năm: Hướng dẫn giáo viên phát triển ngôn ngữ  cho  
trẻ, thông qua việc cho trẻ làm quen chữ cái.
Mục đích cho trẻ làm quen chữ cái không chỉ là giúp trẻ nhận biết được 
mặt chữ  để  phát âm chính xác khi nói mà còn tạo cho trẻ  hứng thú khi học 
tiếng mẹ đẻ, làm tiền đề cho trẻ thích ứng với việc tập đọc, tập viết ở lớp 1 
phổ thông.
Giáo viên cho trẻ làm quen chữ cái, vốn từ của trẻ được nâng cao, bởi 
vì khi làm quen với chữ, trẻ không chỉ làm quen với các chữ ở dạng tồn tại tự 
nhiên của chữ  viết, mà các chữ  đó được gắn vào các từ, thông qua các đối 
21


tượng cụ thể, các từ đó có các âm đầu là các chữ cái đã học, nhằm rèn luyện  

cách phát âm cho trẻ. 
Qua việc làm quen với chữ  viết còn giúp cho trẻ  hiểu được mối quan 
hệ giữa ngôn ngữ  nói với ngôn ngữ  viết, trẻ hiểu thế  nào là “đọc” và “viết”  
sau này.
Việc tìm kiếm các chữ cái khác nhau ở các vị trí khác nhau của từ, giúp  
trẻ phát triển óc quan sát, ghi nhớ, chú ý có chủ định.
Cho trẻ  làm quen với chữ  còn góp phần kích thích, phát triển tư  duy, 
thể hiện ở chỗ trẻ đã xác định được tính chất đặc điểm của chữ đó bằng cách 
tìm kiếm các từ, tiếng thông qua các đồ vật. Trẻ tìm đúng các âm theo các chữ 
cái mà trẻ  đã nhận ra. Như  vậy trẻ  nhận ra chữ  cái đó thông qua biện pháp  
phát âm chứ không phải thông qua các mặt chữ. 
Trong khi cho trẻ  làm quen với chữ  cái, giáo viên cần giúp trẻ  một số 
kỹ năng cầm bút, cầm sách, mở từng trang sách, tư thế ngồi của trẻ. Việc cho 
trẻ  làm quen chữ  cái không chỉ  thông qua các tiết học mà còn thông qua các  
hoạt động khác nhau như  hoạt động tạo hình (vẽ, xé, cắt dán các chữ  cái). 
Đặc biệt là các trò chơi, trò chơi phát triển giác quan, phát triển các cơ  tay 
nhỏ của ngón tay là để thuận tiện cho trẻ làm quen với việc cầm bút sau này.
Giáo viên cho trẻ  làm quen với chữ  cái phải tạo ra được hứng thú cho  
trẻ, tránh làm thay cho trẻ. Không bắt trẻ  tập viết vào một khuôn khổ  nhất 
định, trong khi trẻ chưa được chuẩn bị những kỹ năng cần thiết trước khi tập  
viết. 
Nhất là đôi v
́ ơi tre 5 – 6 tu
́ ̉
ổi, giáo viên không day tre cac ky năng đoc va
̣
̉ ́ ̃
̣
̀ 
viêt thât s

́ ̣ ự, ma day tre nh
̀ ̣
̉ ưng ky năng c
̃
̃
ơ ban nh
̉
ư: xem tranh, mô ta tranh, kê
̉
̉ 
chuyên theo tranh, biêt cach ngôi đung, biêt cach câm but tô, đô. Giáo viên chú
̣
́ ́
̀ ́
́ ́
̀
́
̀
 
ý khi cho trẻ  tập tô chữ  cái, điều quan trọng nhất là giữ  cho trẻ  tư  thế  ngồi  

22


đúng, tự nhiên, cách cầm bút đúng, đẹp. Đây là tiền đề để chuẩn tâm thế tốt  
cho trẻ bước vào lớp 1 phổ thông.
3.3. Điều kiện thực hiện các giải pháp, biện pháp
Muốn thực hiện các biện pháp, giải pháp có hiệu quả  thì cần phải  tổ 
chức môi trường hoạt động phong phú đa dạng. Ở trường mầm non cần xây 
dựng góc sách, trang trí tranh ảnh, môi trường chữ viết. Cách xếp đặt các đối 

tượng trong trang trí phải tiện lợi cho việc trẻ quan sát và không cản trở  các 
hoạt động chung của trẻ. 
Giáo viên phải tổ  chức cho trẻ  thường xuyên sử  dụng đồ  chơi và đồ 
dùng. Khi trẻ  em sử  dụng đồ  vật, đồ  dùng, tranh  ảnh giáo viên cần khuyến 
khích giúp đỡ và chỉ dẫn cho trẻ cảm nhận chúng. Đối với trẻ mẫu giáo cần  
có nhiều tranh ảnh, mô hình và màn hình. Nhưng việc sử dụng chúng như thế 
nào cũng cần phải có kế  hoạch và tổ  chức chu đáo, bảo quản tốt. Trong  
trường mầm non có các mối quan hệ  như: Trẻ  em với trẻ  em, trẻ  em với  
người lớn và người lớn với người lớn. Để việc giáo dục trẻ có hiệu quả cao. 
Tất cả  các mối quan hệ  trên cần phải đảm bảo tính sư  phạm, giao tiếp nhẹ 
nhàng, lịch sự cho trẻ noi theo. Những vấn đề  này là điều kiện tốt nhất để  t  
hực hiện các giải pháp, biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ  cho trẻ có hiệu 
quả. 

3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp 
Các giải pháp và biện pháp có mối  quan hệ mật thiết và luôn hỗ trợ bổ 
sung cho nhau ưu điểm của giải pháp này là hỗ trợ cho nhược điểm của giải 
pháp khác. Muốn thực hiện các biện pháp thành công cần có các giải pháp cụ 
thể phù hợp với nội dung của biện pháp. Trẻ biết phát âm chuẩn, vốn từ của 
trẻ phong phú, ngữ điệu, lời nói của trẻ mạch lạc, nghệ thuật, nếu như giáo 
viên biết phối hợp các giải pháp và biện pháp với nhau để làm cho những tri 
23


thức mà trẻ nhận được càng thêm phong phú và là động lực cho trẻ phát triển  
ngôn ngữ tốt cho hiện tại và tương lai. 
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 
Qua điều tra và thăm dò ý kiến khi áp dụng các giải pháp, biện pháp đã  
có 100% giáo viên có khả  năng sử  dụng các biện pháp, giải pháp hiệu quả.  
Giáo viên biết lựa chọn các nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hợp lý 

phù hợp với tình hình thực tế của trường lớp.
Kỹ  năng sử  dụng các phương pháp, biện pháp và thủ  thuật cũng góp 
phần làm cho hiệu quả hoạt động cao hay thấp. Giáo viên có kỹ năng sử dụng 
điêu luyện sẽ biến thành kĩ xảo. Kĩ xảo mới giúp cho giáo viên tích hợp được  
các nội dung, phương pháp, biện pháp và các hình thức hoạt động trong lĩnh 
vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ, hoặc tích hợp lĩnh vực này với lĩnh vực khác  
ở trường mầm non.
Tuy nhiên, quá trình hình thành và rèn kỹ  năng sử  dụng các phương  
pháp, biện pháp và thủ  thuật cần phải  được tiến hành liên tục và không  
ngừng linh hoạt và sáng tạo của giáo viên. Có như  vậy việc phát triển ngôn 
ngữ cho trẻ mầm non nói chung và trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non nói riêng 
sẽ không ngừng đổi mới và phát triển.
4. Kết quả  thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn  
đề nghiên cứu
Qua thực hiện một số biện pháp trên kết quả đạt đuợc như sau:
* Đối với giáo viên
Giáo viên 100% đã có kiến thức, kỹ  năng thực hiện tổ  chức phát triển 
ngôn ngữ  cho trẻ trong các hoạt động giáo dục.
Kết quả cụ thể: 
STT

Kiến thức kỹ 

Đầu năm

Cuối năm

Tăng và giảm
24



năng của giáo 

(Tỉ lệ %)

viên
1

Loại giỏi

2

Loại khá

3

15/30 g/v = 
50%
15/30 g/v = 
50%

Loại trung 

26//30 g/v = 86,6%

36,6%

4/30 g/v = 13,4%

36,6%


0

bình

0

0

b. Đối với trẻ
Trẻ  có tiến bộ  rõ rệt trong từng nội dung hoạt đông.  Trẻ  có kỹ  năng 
phát âm đúng, vốn từ phong phú, lời nói mạch lạc, nghệ thuật. Trẻ hứng thú 
tích cực trãi nghiệm trong các hoạt động học tập và vui chơi.
Kết quả cụ thể:
Ký năng phát 

Đầu năm

Cuối năm

Tăng

âm đúng, vốn 
TT

từ phong phú, 

Số 

Tỷ lệ 


lời nói mạch 

luợng

%

lạc, nghệ thuật
Trẻ đạt theo sự 
1

phát triển kỹ 
năng
Trẻ chưa đạt 

2

theo sự phát 
triển kỹ năng

78/120h
/s
42/120 
h/s

Số luợng

Tỷ 

Số 


Tỷ lệ 

lệ %

luợng

%

65%

120/120 h/s

100%

42 h/s

35%

35%

0

0

0

0

III. Kết luận, kiến nghị

1. Kết luận 
Sau khi chỉ  đạo hướng dẫn giáo viên xây dựng kế  hoạch phát triển 
ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trong các hoạt động giáo dục. Nắm bắt tình hình  
kiến thức, kỹ năng thực tế  của giáo viên  và khảo sát về môi trường tổ chức 
25


×