Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.28 KB, 22 trang )

A . MỞ ĐẦU
I. LY DO CHON ĐÊ TAI:
́
̣
̀ ̀
Tập làm văn có vai trò quan trọng trong việc trau dồi ngôn ngữ cho học 
sinh. Làm công cụ  tư  duy, giao tiếp, học tập và trong cuộc sống. Góp phần  
làm giàu cho học sinh về cách nhìn nhận thế giới xung quanh các em, giúp các 
em phát triển ngôn ngữ, phát triển tư  duy, năng lực liên tưởng và sáng tạo. 
Qua đó bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ và nhân cách cho các em.
Tập làm văn là môn học có yêu cầu tổng hợp, mức độ  cao nhất trong 
quá trình học của học sinh. Nó mang tính thực hành toàn diện, đòi hỏi học 
sinh phải có kiến thức tổng hợp và sáng tạo. Môn Tập làm văn là tổng hợp 
kiến thức của các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện 
trong môn Tiếng Việt. Do đó môn Tập làm văn được xem là môn học khó đối  
với học sinh Tiểu học nói chung  và đặc biệt rất khó khăn đối với học sinh 
dân tộc thiểu số nói riêng. 
Trên thực tế, dạy học Tập làm văn ở trường Tiểu học Tình Thương là 
môn học rất khó đối với các em và giáo viên. Thông thường, rèn cho các em 
các kĩ năng đọc thông, viết đúng chính tả  đã là một điều vất vả  đối với giáo 
viên  ở  đây. Khả  năng tiếp nhận kiến thức của các em quá yếu so với mặt  
bằng chung, đặc biệt là việc dạy học môn Tiếng Việt. Học sinh phần lớn là  
học sinh dân tộc thiểu số  tại chỗ  chiếm 98% (gồm dân tộc Ê – đê, dân tộc 
Mnông). Trong phân môn Tập làm văn phần lớn các em  chưa biết viết, vốn  
từ để diễn đạt hết sức hạn chế.  Hiện nay có rất nhiều loại sách “Những bài 
văn mẫu” dùng cho học sinh tham khảo. Song những bài văn mẫu đôi khi  
không sát với thực tế, từ ngữ sử dụng quá xa vời với các em. Thế  nhưng, vì  
vấp phải nhiều khó khăn trong dạy học của phân môn này, đôi lúc giáo viên 
quá dựa dẫm, ỉ lại vào những cuốn sách văn mẫu, cho học sinh học thuộc các 
bài văn mẫu, sao chép y nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Vô tình  
chúng ta đã đánh mất rèn kĩ năng diễn đạt cho các em, làm cho các em lười tư 


duy, không có tính sáng tạo. Cách cảm, cách nghĩ của các em không phong phú  
mà còn đi theo lối mòn  khuôn sáo, tẻ nhạt. Đôi khi có những câu văn trong bài 
văn mẫu, các em cứ chép nhưng không hiểu nội dung. 
Kế  thừa từ  những kinh nghiệm dạy học sinh dân tộc thiểu số  tại chỗ 
trong những năm công tác và trước thực trạng trên, bản thân tôi luôn suy nghĩ 
phải làm gì để  khắc phục những hạn chế  trong việc dạy Tập làm văn, góp  

1


phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường, tôi đã chọn nghiên cứu 
đề tài: “Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 5.”
II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI:
        1. Mục tiêu: 
Tìm ra biện pháp, giải pháp phù hợp trong quá trình dạy học nhằm giúp 
học sinh dân tộc thiểu số lớp 5 có kĩ năng: 
+ Có thói quen quan sát, biết phát hiện những điều mới mẻ, thú vị  về 
thế giới xung quanh.
+ Biết chọn lọc từ ngữ (đặc biệt là từ ngữ giàu hình ảnh, có biểu cảm),  
trình bày suy nghĩ của mình một cách mạch lạc (sống động), thành những câu 
văn sáng rõ về nội dung, có tình cảm chân thực.
+ Bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương đất nước, con người; bồi 
dưỡng vốn sống, vốn ngôn ngữ và khả năng giao tiếp cho các em.
2. Nhiệm vụ:
Tìm hiểu thực trạng và đưa ra những giải pháp, biện pháp thiết thực để 
rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Tình Thương 
nói riêng và học sinh lớp 5 dân tộc thiểu ở các trường Tiểu học vùng khó khăn 
ở Tây Nguyên nói chung.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 
­ Văn miêu tả trong chương trình lớp 5

­  SGK Tiếng Việt lớp 5.
­ Một số bài văn miêu tả  lớp 5 của học sinh trường Tình  Thương .
IV. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI:
 Nghiên cứu và đưa ra các biện pháp, giải pháp dạy văn miêu tả cho học 
sinh thiểu số vùng khó khăn lớp 5 trường Tiểu học Tình Thương.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
­ Phương pháp phân tích, tổng hợp
­ Phương pháp nhận định, khái quát hoá
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
­ Phương pháp quan sát
­ Phương pháp điều tra, khảo sát
­ Phương pháp làm mẫu
­ Phương pháp nghiên cứu, phân tích các sản phẩm của học sinh.
­ Phương pháp nêu gương
2


3. Nhóm phương pháp thống kê toán học:
­ Phương phápphân tích số liệu
­ Phương pháp thống kê
­Phương pháp tổng hợp, đánh giá.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI :
­ Tiếng Việt ngôn ngữ chính thức trong nhà trường (Điều 5, chương 1,  
Luật Giáo dục)
­ Giáo dục Tiểu học được thực hiện bằng tiếng Việt (Điều 4 chương I  
Luật Phổ cập Giáo dục Tiểu học)
Tiếng   Việt   là   ngôn   ngữ   phổ   thông  trong  giao   tiếp.  Dạy   tiếng  Việt 
nhằm bảo tồn, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, giữ gìn nền văn hóa cao  

đẹp của đất nước và con người Việt Nam. Thứ trưởng Bộ GD& ĐT Nguyễn 
Vinh Hiển đã khẳng định: “Tiếng Việt là khâu quan trọng nhất trong quyết 
định giáo dục học sinh dân tộc thiểu số. Do vậy, nâng cao chất lượng dạy  
học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cấp Tiểu học là một nhiệm vụ 
trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số.”
             Văn miêu tả  giúp học sinh phát triển khả  năng ngôn ngữ  nhiều nhất. 
Chính ngôn ngữ mới là công cụ vàng, vạn năng giúp thành công trong các hoạt 
động và giao tiếp  và  đời sống. Day tôt văn miêu t
̣
́
ả   giup cac em phát tri
́ ́
ển 
tư duy,  năng lực liên tưởng, sáng tạo. Các  em bộc lộ được những cam nhân
̉
̣  
về cai hay, cai đep, b
́
́ ̣
ồi dưỡng cho các em vê đao đ
̀ ̣ ức va thâm mi, tình yêu v
̀ ̉
̃
ớ i 
sự  vật, quê hương, đất nước. Do đo, chung ta cân ph
́
́
̀ ải nâng cao chất lượng  
viết văn miêu tả  cho các em  ở  Tiểu học và làm tiền đề  cho các em học tốt  
môn văn ở cấp học trên. Chính vì lẽ đó mà điểm phân môn Tập làm văn lớp 5,  

theo thông tư 22 mới ban hành về đánh giá học sinh,chiếm 80% số điểm trong  
bài kiểm tra viết.
         II. THỰC TRẠNG:
         Phần lớn học sinh là người dân tộc thiểu số.  Học sinh có thói quen sử 
dụng tiếng mẹ  đẻ, ít có thói quen sử  dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Mặt  
bằng kinh tế, trình độ dân trí của phụ huynh ở đây còn thấp, cho nên khả năng  
phát triển ngôn ngữ  của các em còn kém do  ảnh hưởng lối sống, sinh hoạt, 
giao tiếp của gia đình, các em ít có dịp đi đây đi đó, tiếp xúc với thế giới xung  
quanh, có em chưa một lần được ra khỏi thôn buôn. Tiếng Việt là ngôn ngữ 
3


thứ hai của các em, vốn tiếng Việt của các em hết sức hạn chế.Học sinh hay 
nghỉ  học, nhiều học sinh thuộc gia đình khó khăn, con đông, các em phải  ở 
nhà trông em, đi làm rẫy... Phụ  huynh chưa ý thức được tầm quan trọng của 
việc học tập của con em mình và hầu như không quan tâm đến việc học của 
con em. Các em chưa có động cơ học tập. Vốn từ của các em quá ít ỏi, trong  
giao tiếp các em chỉ dùng được những từ thông thường. Khả năng hiểu từ của  
các em còn nhiều hạn chế. Khả năng sử dụng từ và diễn đạt của các em gặp 
rất nhiều khó khăn, hay sử  dụng sai từ. Đa số  các em không biết diễn đạt  
điều mình muốn viết vì nghèo vốn từ. 
Đứng trước thực trạng trên, giáo viên gặp rất khó khăn trong việc dạy 
văn miêu tả. Một số  giáo viên ngại khai thác, hướng dẫn kèm cặp học sinh 
mà lạm dụng phương pháp làm mẫu, dẫn đến HS nhìn bài mẫu chép hoặc 
nhìn bài bạn chép. Đôi khi giáo viên dạy không đúng trình tự, chưa liên kết các 
tiết dạy TLV để  đi đến hoàn chỉnh một bài văn theo cấu trúc chương trình 
biên soạn của SGK hoặc quá dựa dẫm vào SGK, quá cứng nhắc dựa vào gợi  
ý trong SGK, chưa dám thoát ly SGK. Một vài giáo viên chưa chú ý đến dạy 
tích   hợp   Tập   làm   văn   vào   các   phân   môn   Tập   đọc,   Luyện   từ   và   câu,   Kể 
chuyện,... hay bồi dưỡng kĩ năng viết văn, làm giàu vốn từ, sử  dụng vốn từ,  

cảm thụ  thơ  văn,... trong các tiết học này để  hỗ  trợ  dạy tốt phân môn Tập  
làm văn. Việc sử dụng đồ dụng dạy học của giáo viên đôi khi chưa khai thác 
triệt để  kênh hình giúp HS quan sát tìm ý hoặc  bỏ  qua bước quan sát tìm ý  
hay lập dàn ý vì nghĩ học sinh không làm được hoặc mất thời gian nên giáo  
viên hay đốt cháy giai đoạn. Do đó tỉ lệ học sinh biết viết văn miêu tả rất hạn  
chế.
III. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA GIẢI PHÁP:
1. Mục tiêu: Giúp học sinh
+ Có thói quen quan sát, biết phát hiện những điều mới mẻ, thú vị  về 
thế giới xung quanh.
+ Biết chọn lọc từ ngữ (đặc biệt là từ ngữ có biểu cảm), trình bày suy  
nghĩ của mình một cách mạch lạc (sống động), thành những câu văn sáng rõ 
về nội dung, có tình cảm chân thực.
+ Bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, con người; bồi dưỡng vốn 
sống, vốn ngôn ngữ và khả năng giao tiếp cho các em.
2. Nội dung và cách thức thực hiện:

4


Chất lượng học sinh là một vấn đề  được tất cả  giáo viên quan tâm 
hàng đầu. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy và làm công tác chủ  nhiệm. 
Tôi rất quan tâm và lo lắng về  chất lượng học sinh của lớp mình phụ  trách.  
Xác định rõ Tập làm văn là môn học hết sức quan trọng nhưng lại rất khó 
khăn đối với các em. Điều đó làm tôi suy nghĩ, mày mò tìm các giải pháp để 
cải thiện chất lượng học phân môn Tập làm văn, đặc biệt là văn miêu tả cho 
học sinh. Với một số  kinh nghiệm của tôi trong những năm dạy học, tôi đã 
tìm ra những giải pháp, biện pháp sau:
2.1. Bồi dưỡng khả năng cảm thụ văn, thơ của giáo viên:
Để học sinh biết viết một bài văn miêu tả hay thì trước hết người giáo 

viên phải có khả  năng cảm thụ, viết văn miêu tả  có cảm xúc, giàu trí liên 
tưởng, khả năng biểu đạt,... Có như vậy mới giúp học sinh cảm thụ và viết ra 
được những câu văn hay, giàu hình ảnh và cảm xúc. Giáo viên phải thổi được  
hồn của các sự vật vào trong tâm hồn của các em và truyền cảm hứng cho các  
em viết văn qua các tiết dạy. Giáo viên phải làm chủ được kiến thức, ngôn từ 
để diễn đạt trong mọi tình huống  ở trong các tiết Tập đọc,...và trong các bài 
văn của các em viết ra, từ đó mới định hướng, hướng dẫn các em cách tìm ý, 
dùng từ, đặt câu hay nhận xét, hướng dẫn các em chỉnh sửa trong các tiết trả 
bài. Để  thực hiện được điều đó, giáo viên phải thường xuyên tự  bồi dưỡng, 
tìm tòi, sưu tầm những bài văn hay, tìm hiểu cách viết văn ở các bài văn hay,  
đọc sách báo nhiều,...
       2.2. Hướng dẫn học sinh nắm cấu tạo từng dạng văn miêu tả:
Với mỗi dạng văn miêu tả, để  giúp học sinh biết cách viết, điều kiện 
cần đầu tiên là học sinh phải  biết được cấu tạo của từng dạng văn miêu tả.  
Bởi  văn tả đồ vật, khác với văn tả con vật, cây cối, tả cảnh,...Thông thường  
trước khi vào mỗi dạng văn miêu tả  thì theo chương trình trong SGK sẽ  có  
một bài tập đọc hay bài chính tả có nội dung viết về văn miêu tả ở dạng này, 
đây là ngụ  ý của SGK, giáo viên cần linh động tích hợp giới thiệu cho học  
sinh làm quen dần, sẽ giúp các em bớt bỡ ngỡ khi vào tìm hiểu dạng văn này  
và giúp các em học bài tốt hơn. Ví dụ: Trước khi vào bài  “Cấu tạo bài văn tả 
cảnh”, đầu tuần GSK đã giới thiệu bài: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”,...
Để  học sinh viết được bài văn miêu tả  đảm bảo về  cấu trúc và nội  
dung, giáo viên cần hình thành và giúp học sinh nắm được cấu tạo của từng  
dạng văn miêu tả. Khi dạy từng dạng cấu tạo của bài văn miêu tả  của mỗi  
bài, ở phần nhận xét đều có một bài văn tả tương ứng. Giáo viên cần cho học 
5


sình tìm hiểu kĩ và đưa ra nhận xét về cấu tạo của từng dạng văn. Sau đó cho 
học sinh nêu cấu tạo của dạng văn miêu tả. Nội dung này đối với học dân tộc 

thiểu số  phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần và được củng cố  liên tục  ở 
các tiết sau đó. 
Ví dụ: Cấu tạo của bài văn miêu tả cảnh 
Bài văn miêu tả cảnh thường có ba phần:
1. Mở bài: Giới thiệu cảnh sẽ tả 
2. Thân bâì:
­ Tả bao quát  (Nhìn từ xa, trông cảnh đó như thế nào?)
        ­ Tả chi tiết từng phần của cảnh (Ví dụ: Tả dòng sông  thì chọn tả 
hình dáng: dài, uốn khúc, thẳng tắp,...Màu sắc sông: màu đỏ nặng 
phù sa...Cảnh hai bên bờ sông : những lũy tre xanh, những rặng dừa trĩu nặng, 
nhà cửa ven sông …Cảnh trên dòng sông: thuyền, ghe, bạn nhỏ tắm sông, lục 
bình trôi,...Hoạt động của con người trên dòng sông…) hoặc sự thay đổi của 
cảnh theo thời gian.
3. Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết.
3. Chọn đề tài gần gũi và có nhiều lựa chọn đối với học sinh.
Là đối tượng học sinh dân tộc thiểu số vùng khó khăn nên khả năng tư 
duy liên tưởng của các em gặp nhiều hạn chế. Vì đời sống sinh hoạt của các  
em chưa phong phú, khả năng diễn đạt bằng tiếng Việt cũng vậy. Do đó, giáo 
viên cần phải cân nhắc, lựa chọn đề  tài gần gũi với các em thường ngày mà 
các em hay tiếp xúc và nên đưa ra nhiều dạng đề  để  các em có nhiều lựa 
chọn.
Ví dụ: 
­ Tả cảnh: Cảnh trên sân trường, cảnh nơi em ở,... 
­ Tả người : Nên yêu cầu các em tả người thân, bạn bè, thầy cô,..
Có lẽ khó khăn nhất đối với học sinh là viết văn tả  cảnh. Chẳng hạn,  
với đề  bài sau: Lập dàn ý bài văn tả  cảnh một buổi sáng (trưa, chiều) trong 
vườn cây (trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy)
Đối với đề  bài này, giáo viên cần xem xét, định hướng cho các em lựa 
chọn. Đối với trường tôi, tôi sẽ  lựa chọn một trong hai cách: trên cánh đồng 
hoặc trên nương rẫy. Sau đó tôi tập trung hướng dẫn học sinh cách lập dàn ý: 

Tả cánh một buổi sáng trên cánh đồng (vì trường tôi nằn gần cánh đồng, học 
sinh được tiếp xúc nhiều và học sinh cũng vừa được làm quen với bài “Buổi  
sớm trên cánh đồng”  trong SGK). Sau đó tôi mới khuyến khích học sinh có 
thể  chọn và lập dàn ý tả  cảnh trên nương rẫy,... tùy vào ý thích và sự  hiểu 
6


biết của mình. Hay với dạng đề bài tả cảnh sông nước, tôi sẽ hướng dẫn học 
sinh chọn và tả cảnh bờ hồ nằm ngay cạnh trường,...
Lúc đầu, để giúp cho mọi đối tượng học sinh có nhiều cơ hội lựa chọn 
bài viết và viết được bài tránh để giấy trắng,  tôi  thường đưa ra dạng đề  có 
nhiều lựa chọn và gần gũi với học sinh. Mức độ đi từ dễ đến khó.
Ví dụ: Dạy văn tả  người, ban đầu cần đưa ra đề  “Tả  một người mà 
em yêu quý”. Sau đó mới nâng dần lên Tả người bạn, tả thầy cô,…
2.4. Hướng dẫn quan sát, bồi dưỡng vốn từ  và cách dùng từ  đặt  
câu, dùng dấu câu cho học sinh:
a. Hướng dẫn quan sát: 
Trong dạy học học sinh dân tộc thiểu số, muốn học sinh nắm được bài, 
hiểu được bài thì trực quan là yêu cầu đầu tiên cần phải có. Bởi các em phần 
lớn chỉ  biết tư  duy trực quan,   chỉ  cần lắt léo, trừu tượng một tí là rất khó 
khăn đối với các em. Các em có quan sát, có nhìn thấy thì mới tìm ra được từ 
và hiểu đúng nghĩa từ  đó. Mặt khác, điều đặc trưng của văn miêu tả  là phải 
trực tiếp quan sát sự  vật thì mới viết được bài văn mang sắc thái riêng, gắn  
với sự vật đó. Nếu không quan sát sự vật theo yêu cầu đề bài mà các em viết 
thì phần lớn là chép theo văn mẫu hoặc bắt chước người khác viết một cách 
máy móc.
Ví dụ:  Tả  về  mẹ, có em viết: “Mẹ  em dong dỏng cao, có nước da 
ngăm ngăm đen và khuôn mặt hình trái xoan” nhưng trên thực tế thì mẹ em đó 
nước da trắng và chiều cao khiêm tốn. Hay tả  bạn thì bạn nào cũng khuôn  
mặt trái xoan,...

Do đó chúng ta cần hướng dẫn trẻ quan sát và hình thành thói quen quan  
sát vì muốn miêu tả tốt thì quan sát phải tốt và có được những nhận xét đúng  
để tìm ra được sự khác biệt, nét đặc trưng của sự vật, hiện tượng để  có thể 
phân biệt sự  vật, hiện tượng đó với sự  vật, hiện tượng khác. Vai trò người  
giáo viên đối với hoạt động này hết sức quan trọng, các em không biết quan 
sát từ  đâu, tìm ý như  thế  nào? Là người tổ  chức hướng dẫn các em cần 
hướng dẫn các em dựa vào cấu tạo của từng dạng văn miêu tả  để  quan sát, 
tìm ý.
a. Bồi dưỡng vốn từ:
Biết quan sát, cần phải dùng từ  như  thế  nào để  miêu tả  là rất khó đối 
với các em. Các em ở đây vốn từ nghèo nàn, thế nên trong dạy học nhiều khi 
học sinh hiểu bài nhưng khi đứng lên trả  lời, không thể  nào diễn đạt được. 
7


Trong Tập làm văn, khi diễn đạt các em thường dùng sai từ, nhầm lẫn từ do 
không hiểu nghĩa của từ nên đặt sai chỗ hoặc đôi khi các em dùng từ đặt câu 
quá thật.
Ví dụ: Các câu văn tả  bạn, có những em sử  dụng từ  sai: “ Khuôn mặt  
tròn giống như  hai hòn bi xanh.”; “ Mũi bạn  ấy giống như  hình trái xoan.”;  
“Răng to như sữa bò.”;
“Bạn rất kính yêu chúng em.”... Hay  chỉ  liệt kê, dùng từ  quá thật “Mũi bạn 
dài và nhỏ.”; “Cái mũi rất tẹt.”; “ Miệng rất nhỏ.”...
Do những tồn tại trên, mỗi đề bài tôi thường gợi ý, hướng dẫn học sinh 
cách tìm từ  ngữ  để  miêu tả  dựa vào sự  hiểu biết của mình hoặc giáo viên  
cung cấp từ mới cho các em. Hướng dẫn các em  tìm từ bằng nhiều hình thức  
như: quan sát thực tế, qua tranh ảnh, xem phim, nhất là qua các phân môn khác  
của môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu, môn Tập đọc để 
giúp các em hiểu từ. Khi viết câu, tôi lại hướng dẫn các em cách dùng từ, 
hiểu từ mình đang dùng,  bày cách  liên tưởng, tìm hình ảnh so sánh, nhân hóa  

để viết câu văn cho hay hơn. Chẳng hạn: 
b. Hướng dẫn học sinh biết cách lựa chọn chi tiết để tả và dùng từ 
đặt câu:
Khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần định hướng và hướng dẫn học sinh  
lựa chọn chi tiết để  tả. Ví dụ:  Tả  một dòng sông, cần hướng dẫn học sinh 
chọn các chi tiết như  tả  cảnh trên sông, tả  cảnh hai bên bờ  sông,… khi tả 
người cần lựa chọn tả những nét tiêu biểu của người đó. Tả hình dáng không 
nhất thiết tả  tất cả  các bộ  phận mà biết lự  chọn nét tiêu biểu về  hàm răng 
hay mái tóc,… để tả. Giáo viên lưu ý học sinh khi tả: Tùy vào từng đối tượng  
mình tả, quan sát kĩ và lựa chọn từ  phù hợp để  miêu tả, không thể  tả  em bé  
như người lớn được hay tả người lớn lại dùng những từ ngứ tả em bé. Ví dụ, 
khi tả đôi mắt của cô giáo có em viết: Đôi mắt cô đen lay láy, tròn như hai hòn 
bi ve. Trong trường hợp này giáo viên cần định hướng cho các em cách dùng 
từ  đặt câu như: Đôi mắt cô to tròn, nhìn chúng em đầy trìu mến, yêu thương 
hay “Đôi mát cô như biết nói, biết cười,…”
­ Trong quá trình dạy học, trong các tiết trả  bài hoặc hướng dấn viết  
văn, tôi thường yêu cầu học sinh đặt câu với những từ vừa tìm được và đưa ra  
các trường hợp sử dụng từ chưa đúng để cả lớp phân tích nhận xét, sửa sai.
Ví dụ: Trong bài tả em bé chập chững biết đi, có em viết: “ Khi em đi 
học về, em bay ra đón em, ôm chầm lấy chân em.”
8


Khi phát hiện học sinh viết chưa phù hợp, tôi thường đưa ra cho cả lớp  
nhận xét, sửa sai và rút kinh nghiệm theo các bước:
 
+ Câu văn của bạn viết, có chỗ  nào chưa phù hợp, các em cần phải  
sửa? (Bạn sử dụng từ “bay” để miêu tả hoạt động “chạy” của em bé là không 
phù hợp)
+ Chúng ta cần thay từ  “bay” bằng từ  nào? (thay từ  “bay” bằng từ 

“chạy lon ton”)
Học sinh sửa và viết đọc lại câu văn.
­ Trong khi viết, học sinh thường viết những câu chưa đủ  hai thành 
phần chính, dùng dấu chấm, phẩy chưa đúng hay những câu văn khô khan, 
thiếu hình ảnh cảm xúc, tôi lại hướng dẫn học sinh cách viết để câu văn hoàn  
chỉnh và hay hơn.
Ví dụ: Trong bài văn tả  bạn H Kim, có em viêt: “Cái trán cao, tóc dài 
ngang vai.”
Tôi chép câu văn lên bảng và hỏi:
+ Câu văn bạn viết đã giàu tính gợi tả chưa hay còn mang tính liệt kê?
+ Dựa vào đặc điểm của bạn H Kim là một bạn thông minh, nhanh  
nhẹn, tóc ngang vai hay buộc cao, vầng trán cao. Vậy ta cần thay đổi câu văn 
này như thế nào, để miêu tả bạn H Kim toát lên được những đặc điểm đó?
Sau khi gợi ý cho học sinh nêu, tôi giúp học sinh chỉnh sửa và   hoàn  
chỉnh câu văn có hình  ảnh cảm xúc hơn, làm nổi bật đặc điểm của bạn H 
Kim: “Mái tóc dài chấm ngang vai, luôn được bạn buộc cao như tóc đuôi gà, 
để lộ vầng trán cao, toát lên vẻ thông minh, nhanh nhẹn vốn có của bạn.”
Giáo viên hướng  dẫn học sinh cách lựa chọn từ  khi tả. Ví dụ từ thường dùng 
khi làm bài văn tả người:
­ Tả thân hình, dáng người: Cao, lùn, gầy gò, ốm yếu, nho nhỏ, nhỏ thó, 
tầm thước, xương xương, mảnh khảnh, dong dỏng, thon thả,  đẫy đà, yểu 
điệu, béo phệ, mập mạp, lực lưỡng, vạm vỡ, trẻ trung, quắc thước,cân đối, 
gầy guộc, mảnh mai, cường tráng, tiều tuỵ, lụ khụ, uể oải, bụ bẫm…
­ Tả khuôn mặt, diện mạo: Bầu bĩnh, trẻ măng, hồng hào, đen sạm, rám 
nắng, xanh xao, tái mét, xanh tái như  chàm, không còn chút máu, vuông vắn, 
vuông chữ điền, trái xoan, hốc hác, vô tư, đần độn, thông minh sáng sủa, khôi  
ngô, khả  ái, xấu xí, rỗ  như  tổ  ong, tươi tỉnh, niềm nở, hớn hở,  ủ rũ, cau có, 
bơ  phờ, hung tợn, ngờ  nghệch khờ  khạo, lầm lì, là lạ, đạo mạo, thơ  ngây, 
nhăn nheo, thờ thẫn, đăm chiêu, thiểu não, hiền hậu, dễ thương,…
9



­ Tả làn da: Nhăn nheo, xanh như tàu lá, bạch tạng, trắng nõn, trắng trẻo, 
nõn nà, mịn màng, chai cứng, nứt nẻ, rám nắng, sần sùi, tái mét, xanh xao, 
xanh lét, hồng hào, đỏ  thắm, mốc thếch, đen sạm, da bánh mật, ngăm ngăm, 
ngăm đen, đen đủi, trắng như trứng gà bóc…
­ Tả mắt: Đen huyền, đen láy, trong sáng, u buồn, lung linh, ươn ướt, sắc  
sảo, đượm buồn, thâm quầng, trắng đục, đỏ  ngầu,  sáng, lồi, tròn vo, xếch, 
một mí, mất ốc bươu, trao tráo, ti hí, mắt bồ câu,…
­ Tả cái nhìn của đôi mắt: Đăm đắm, mơ mộng, đắm đuối, dáo dác, trìu 
mến, mơ màng, chòng chọc, chăm chú, ngơ ngác, hằn học,…
­ Diễn tả tính cách: Nóng nảy, bạo dạn, vị tha, hời hợt,lười nhác, lì lợm,  
trầm tính, đứng đắn, thật thà, ôn hoà, hiền hậu, vui vẻ, nhút nhát, nghiêm 
nghị, dè dặt, siêng năng, thận trọng, lỗ mãng, bao dung, nhân hậu, khoác lác, 
ba hoa, nham hiểm, xảo quyệt, tham lam,  ích kỉ,  ưa giễu cợt, cau có, gắt 
gỏng, hấp tấp, khắt khe, láu táu, ít nói, nhã nhặn,... 
­ Diễn tả thái độ: Vui sướng, hớn hở, hân hoan, hả  hê, thoả  thích, sảng  
khoái, khoái chí, vui nhộn, vui đáo để, vui mừng, đắc chí,…
*Giúp các emm biết cách dùng từ miêu tả, liên tưởng, so sánh:
­ Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách dùng từ  miêu tả  để  giúp các 
em viết được câu văn sinh động hơn. Ví dụ: Khi tả  hoa "nở",   từ  “nở” chỉ 
mang tính  chất thông báo, mà cần phải sử dụng từ miêu tả như: bung nở, hé  
nở, xòe nở, bung cánh, hé cánh, xòe cánh,... Từ  "xanh" chỉ  miêu tả  nhưng  
không gợi tả, cần hướng dẫn học sinh dùng từ  gợi tả  cho màu xanh: xanh  
biếc, xanh lam, xanh ngọc, xanh mướt,...Nếu giáo viên chú ý dạy tích hợp 
Tập làm văn vào trong Tập đọc, Luyện từ và câu thì sẽ giảm bớt được nhiều 
thời gian trong cung đoạn này. 
  Ví dụ: Màu “vàng” được dùng từ gợi tả rất cụ thể trong bài: “Quang 
cảnh làng mạc ngày mùa”­ Tiếng Việt 5, tập 1, trang 10. 
­  Để  câu văn sinh động hơn, giáo viên không chỉ  hướng dẫn học sinh 

cách dùng từ  miêu tả  mà còn phải hướng dẫn học sinh cách dùng các biện  
pháp nhân hóa, so sánh mà các em đã được học, đưa vào bài để miêu tả sự vật 
được sinh động hơn. Rất khó đối với các em là cách liên tưởng để  tìm hình 
ảnh so sánh sự vật.
Ví dụ: Tìm từ so sánh với mặt trời thì cần hướng dẫn học sinh:
+ Mặt trời có hình gì? Giống cái gì? (hình tròn giống như quả cầu)
+ Mặt trời có màu gì?  Giống hình ảnh nào?  (đỏ rực, giống như lửa)
Dẫn dắt học sinh đặt câu: "Mặt trời thì đỏ rực như quả cầu lửa", 
10


Tương tự để có câu: "Mảnh trăng cong cong như lưỡi liềm" 
­ Đối với những học sinh khá, giỏi, giáo viên cần hướng dẫn học sinh  
cách sáng tạo câu văn bằng cách liên tưởng, so sánh sự  vật nâng cao hơn.  Ví 
dụ:  Khi miêu tả “Hồ nước lặng yên” thì cho học sinh so sánh với trạng thái  
"lặng yên" của con người. Giáo viên có thể hỏi: Khi nào con người lặng yên? 
và học sinh có thể  tìm ra được các từ  " khi ngủ, khi nhớ, khi buồn, khi mơ 
mộng, ..." Như vậy, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh viết được rất nhiều  
câu: Hồ  nước lặng im như  chìm vào giấc ngủ./Hồ  nước lặng im như  đang  
mơ  mộng với những đám mây trắng./Hồ  nước lặng im như  đang buồn bã 
điều gì./ Hồ nước lặng im như đang nhớ những vì sao lấp lánh buổi đêm....
­ Giáo viên cần tổng quát được cách dùng từ  ở từng dạng văn miêu tả, 
để định hướng tốt cho các em khi viết văn: 
+ Tả  cảnh thường dùng nhiều từ  ngữ  gợi tả  hình dạng, đặc điểm, có 
thể  so sánh, nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả  thêm sinh động; cần  
bộc lộ cảm xúc trước sự vật được miêu tả trong cảnh.
+ Tả  người thường dùng nhiều từ  ngữ  gợi tả  hình dáng, màu sắc, âm 
thanh; từ ngữ chỉ hoạt động, đặc điểm, trạng thái của người; có thể  sử dụng 
biện pháp liên tưởng, so sánh để  miêu tả  cho sinh động và bộc lộ  mối quan 
hệ tình cảm với người được tả.

2.5. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý và xây dựng đoạn văn phần 
thân bài:
Đây là một hoạt động hết sức quan trong làm văn miêu tả. Thế nhưng 
một số  giáo viên thường bỏ  qua giai đoạn này vì bước đầu thì đây cũng là 
một hoạt động khó đối với học sinh nói chung và đặc biệt là đối với học sinh  
dân tộc thiểu số vùng khó khăn lại càng khó hơn. Song nếu giáo viên hướng 
dẫn cụ thể thì các em sẽ làm được, việc này lặp đi lặp lại nhiều sẽ tạo thành  
thói quen có lợi trong viết văn cho học sinh. Nếu một bài văn mà các em biết  
cách lập dàn ý trước khi làm bài thì các em đã có định hướng tốt cho bài văn  
của mình. Bài văn có đầy đủ  ý, bố  cục chặt chẽ  và lâu dần các em sẽ  khái  
quát được cách làm một bài văn khi xác định xong đề bài.
Khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý một bài văn tôi thường theo các bước 
sau:
­ Xác định đề bài
­ Nhắc lại cấu tạo bài văn theo đề bài đã cho
­ Tiến hành hướng dẫn lập dàn ý.
11


Ví dụ: 
Đề  bài:  Hãy tả  ngôi trường thân yêu gắn bó với em trong nhiều năm 
qua.
Với đối tượng học sinh như đã nêu, tôi dẫn dắt học sinh thực hiện lập  
dàn ý từ hệ thống câu hỏi khá tỉ mỉ sau: 
+ Đề bài yêu cầu chúng ta làm gì? (Tả ngôi trường của em)
+ Đề bài thuộc dạng văn miêu tả nào? (tả cảnh)
+ Hãy nêu cấu tạo của bài văn tả cảnh? (Hs nêu)
+ Em quan sát vào thời gian nào? (buổi sáng khi học sinh chưa đến 
trường, buổi chiều khi học sinh đã ra về  hay trong giờ học,...) 
+ Em quan sát bằng những giác quan nào? ( mắt nhìn, tai nghe các âm 

thanh như  tiếng giảng bài của cô, tiếng trống,...tiếng cảnh vật xung quanh 
như tiếng ve kêu, chim hót,..)
+ Phần mở bài em cần giới thiệu như thế nào? (Hs nêu)
+ Phần thân bài em tả những cảnh nào của trường? ( HS nêu)
+ Phần kết bài, em nêu cảm nghĩ của mình đối với ngôi trường như thế 
nào?
*Lưu ý: Các em có thể  tả  cảnh trường vào một thời điểm nhất định 
hoặc theo thứ  tự  thời gian trong ngày như  sáng đến chiều hay theo mùa. Khi 
quan sát, các em nên quan sát từ  xa đến gần, từ  ngoài vào trong, nắm được 
điểm chung và riêng của cảnh, chú ý vào những điểm nổi bật nhất của cảnh.  
Sự liên quan của cảnh vật đó với cảnh vật xung quanh như con người, chim 
chóc, thiên nhiên,...
­ Tổ chức nhận xét, bổ sung hoàn thiện dàn ý: Để giúp học sinh có một  
dàn ý hoàn chỉnh, giáo viên cho học sinh đọc dàn ý của mình cho cả lớp nhận  
xét, bổ sung, giáo viên giúp đỡ để các em hoàn chỉnh dàn ý.
         Dàn ý bài văn tả ngôi trường Tiểu học Tình Thương:
*Mở bài
+ Trường em mang tên Trường Tiểu học Tình Thương
+ Ngôi trường chưa khang trang nhưng cảnh vật thật là hiền hòa.
*Thân bài
+ Nhìn từ xa ngôi trường nhỏ bé, yên.
+   Biển   trường   xanh   đậm,   nổi   rõ   hàng   chữ   trường   Tiểu   học   Tình  
Thương màu trắng.
+ Tường được sơn màu vàng
12


+ Sân trường được lát gạch hình chữ T, giữa có lá cờ đỏ  sao vàng tung 
bay phấp phới.
+ Bao quanh sân gạch là những bồn hoa được chúng em chăm sóc cẩn  

thận.
+ Có 3 dãy phòng học và một dãy phòng chức năng.
+ Lớp học rộng rãi, thoáng mát, bàn 2 chỗ ngồi, trang trí rất đẹp, có đầy 
đủ quạt điện, đèn điện, sáng nào chúng em cũng vệ sinh sạch sẽ.
+Từ  cổng nhìn thẳng vào là dãy phòng chức năng, phòng đầu tiên bên 
phải là thư viện,...
*Kết bài:
+ Em rất yêu quý và tự hào về trường em
+ Dù sau này đi xa em vẫn luôn nhớ mãi hình ảnh mái trường thân yêu  
của em.
Tiếp theo, tôi cho học sinh chọn và viết hoàn chỉnh một đoạn văn phần 
thân bài, tổ chức nhận xét, sửa chữa hoàn chỉnh.
Ví dụ: Đoạn văn tả bao quát ngôi trường
Ngôi trường nhỏ  bé, hiền hòa nằm dưới những hàng cây bạch đàn  
quanh năm xanh tốt, làm ô che nắng cho chúng em chơi những trò chơi như  
nhảy dây, bắn bi,... sau những giờ học. ..
2.6. Xây dựng mở bài và kết bài:
a. Xây dựng mở bài:
Mở bài là phần có vai trò hết sức quan trọng trong mỗi bài văn. Nó thu 
hút người đọc, người nghe chú ý,tập trung vào bài ngay đầu bài. Có hai cách  
mở  bài: mở  bài trực tiếp và mở  bài gián tiếp. Mở  bài trực tiếp thì mọi đối 
tượng học sinh đều có thể  thực hiện được. Riêng mở  bài gián tiếp ( không  
bắt buộc) nhưng giáo viên khuyến khích học sinh sử  dụng khi làm bài, giúp  
các em có được bài văn hay hơn, hấp dẫn người nghe hơn.
 
Để giúp học sinh có cách mở bài và kết bài phong phú, đa dạng.  Trước 
hết người giáo viên  phải giúp học sinh hiểu Thế nào là mở bài trực tiếp, gián  
tiếp?
 
+ Mở bài trực tiếp: Là giới thiệu trực tiếp sự vật mình định tả

+ Mở bài gián tiếp: Nói chuyện khác để  dẫn vào chuyện (có thể  bằng 
cách đưa ra một mẩu chuyện, một so sánh, một liên tưởng, một câu văn thơ, 
một âm thanh,... để đi đến điều mình cần giới thiệu).
Ví dụ: Cách mở bài khi viết văn tả mẹ 
13


“ Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn thương con.”
Ôi! Tình mẹ  yêu con chỉ   có thể  so sánh với biển nước mênh mông. 
Mẹ! Người em yêu nhất trên đời. (mở bài bằng câu thơ)
b. Hướng dẫn học sinh xây dựng kết bài:
Cũng như  mở  bài, kết bài cũng có hai cách đó là kết bài mở  rộng và  
không mở rộng. 
Để giúp học sinh có cách mở bài và kết bài phong phú, đa dạng. Trước 
hết người giáo viên  phải giúp học sinh hiểu: Thế nào là kết bài mở rộng và 
không mở rộng?
+ Kế bài mở rộng: Sau khi cho biết kết cục, có lời bình luận thêm
+ Kế bài không mở rộng: Cho biết kết cục, không bình luận gì thêm.
Ví dụ: Kết bài của một bài văn tả đẹp
­ Kết bài mở rộng:
Mỗi lần ngắm cảnh nơi đây, lòng em lại dâng trào một cảm xúc lâng 
lâng khó tả  vì được tự  do thưởng thức sự   ưu đãi vẻ  đẹp tuyệt vời mà thiên  
nhiên dâng tặng cho con người. Chúng ta hãy quý trọng thiên nhiên, bảo vệ 
thiên nhiên  để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời ấy.
­Kết bài không mở rộng:
Em rất yêu cảnh nơi đây. Em mong rằng sẽ  có dịp quay lại để  được 
chiêm ngưỡng cảnh đẹp tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng cho chúng ta.
2.7. Hướng dẫn học sinh hoàn chỉnh bài văn.
Sau các tiết lập dàn ý, xây dựng mở  bài, kết bài, xây dựng đoạn văn 

thường có tiết viết hoàn chỉnh bài văn. Trước khi yêu cầu viết một bài văn 
hoàn chỉnh, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tổng hợp, liên kết các tiết 
trước để giúp các em có một bài văn hoàn chỉnh.
Ví dụ: 
+ Bài văn gồm có mấy phần? Đó là những phần nào?
+ Mở bài có mấy cách? Nêu từng cách mở bài?
+ Thân bài được trình bày như  thế  nào? (Có thể  trình bày thành nhiều 
đoạn, mỗi đoạn diễn tả một nội dung chính. Ví dụ: Tả con vật thì có đoạn tả 
hình dáng, đoạn tả thói quen sinh hoạt,...)
+ Kết bài có mấy cách? Nêu từng cách kết bài?

14


* Lưu ý học sinh: Sau mỗi phần hay mỗi đoạn cần phải xuống dòng 
(một số em thường hay viết liền mạch). Đầu đoạn phải lùi vào một ô và viết  
hoa.
Trong khi học sinh làm bài, giáo viên hướng dẫn học sinh bám sát dàn ý 
đã lập để  viết. Giáo viên theo dõi giúp đỡ  học sinh, đặc biệt là những học  
sinh yếu.
2.8. Chấm bài:
Mỗi bài văn học sinh viết được, kết hợp với cách đánh giá của giáo 
viên đúng cách sẽ  giúp các em trưởng thành trong nhận thức, trong cách suy 
nghĩ. Do đó, tôi thường chấm bài rất tỉ  mỉ  sau mỗi bài học sinh viết, sửa sai 
trực tiếp về  lỗi chính tả, gạch chân dưới những câu, từ  học sinh đặt chưa  
đúng và nhận xét cụ thể để giúp các em chữa bài trong tiết trả bài. Những góp 
ý nhẹ  nhàng, chi tiết hay những lời khen của giáo viên như  một định hướng 
giúp học sinh hoàn thiện bài viết hơn.
2.9. Tiết trả bài
Trong tiết trả  bài, giáo viên cần nhận xét rõ  ưu, khuyết điểm chung. 

Luôn đưa ra những ưu điểm cụ thể sau dó mới nhận xét những sai sót, tồn tại  
của học sinh về  lỗi chính tả, bố  cục, cách dùng từ, đặt câu, cách diễn đạt. 
Sau đó, cho học sinh sửa bài theo nhóm hoặc cá nhân, gọi một vài học sinh  
nêu lỗi vấp phải và cách sửa của mình hay của nhóm, lớp góp ý, giáo viên 
chốt lại câu văn như  thế  nào là hay, là đúng. Cuối cùng giáo viên đọc những  
đoạn văn hay, bài văn hay cho cả  lớp nghe, cho học sinh viết lại một đoạn 
văn của bài.
IV.  Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 
Với đề  tài này mang tính giá trị  khoa học và thực tiễn cao, đã được 
khảo nghiệm trên thực tế dạy học ở trường Tiểu học Tình Thương. Sau một 
năm học , tôi thấy  trong viết văn miêu tả các em đã làm chủ được vốn từ, các  
em linh hoạt hơn trong viết văn cũng như trong giao tiếp. Bài văn của mỗi em  
đều có sắc thái riêng, mang tính sáng tạo và thực tiễn cao.  Đa số học sinh xác 
định đúng đề, làm bài đảm bảo về cấu trúc, trong đó có một số bài giàu hình 
ảnh, cảm xúc, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc. Qua khảo sát chất lượng, kết quả 
cụ thể trong đầu năm so với cuối năm như sau:

15


Lớ
p

5a2

Thờ
T

S
điể

H
m
S
Đầu 
20
năm
Cuối 
năm

Điểm
  1­2

  3­4

  5­6

S
%
L

S
%
L

SL

%

11


55,0

2

11

55,0

7

1

5,0 6 30,0

  7­8
S
L

9­10
%

S
%
L

Trên 
điểm 5
SL

%


10,0

13

65,0

35,0 2 10,0

20

100

Dưới 
Điểm 5
S
L
7

Với đề  tài này chúng ta có thể  áp dụng được với tất cả  các đối tượng 
học sinh là dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Qua thực tiễn dạy học ở đối tượng là HS dân tộc tại chỗ, tôi nhận thấy:  
để giúp các em HS dân tộc viết đúng, viết hay thì giáo viên cần chú ý một số 
yêu cầu sau: 
   ­ Thiêt kê bai day chi tiêt, phu h
́ ́ ̀ ̣
́
̀ ợp vơi t

́ ưng đôi t
̀
́ ượng hoc sinh l
̣
ơṕ  
minh.Tr
̀
ước khi dạy một đề văn mới, cố gắng hết mức có thể hướng dẫn học 
sinh quan sát tìm ý bằng trực quan trên lớp, trong sân trường hoặc hướng dẫn 
học sinh cách quan sát kĩ ở nhà.
   ­ Kiên trì uốn nắn, sửa lỗi cho các em, có niềm tin vao s
̀ ự tiên bô cua
́ ̣ ̉  
hoc sinh.
̣
   ­ Phải khai thác triệt để  đồ dùng dạy học và tranh vẽ trong sách giáo 
khoa và sưu tầm những vật thật   bằng video (nếu có bằng máy tính), tranh 
ảnh để cung cấp vốn từ cho học sinh. 
   ­ Thường xuyên đánh giá, nhận xét, sửa sai kịp thời các bài viết của 
học sinh.
16

%

35,0


   ­ Thái độ ân cần, vui vẻ của giáo viên cũng rất cần thiết. Bởi lẽ các 
em còn nhỏ, đặc biệt học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ, lòng tự ái rất cao, nếu  
giáo viên nói nặng lời, học sinh sẵn sàng xách cặp ra về  hoặc ngồi không, 

không chịu học bài nữa. Vì thế,  giáo viên không nên nặng lời to tiếng hay cáu  
gắt với các em, ngược lại cần phải động viên khích lệ và khen thật nhiều dù 
chỉ là sự tiến bộ nhỏ, mới giúp các em hứng thú trong học tập và  tiếp thu bài  
tốt.
­ Đọc sách báo thường xuyên để  có thêm vốn ngôn ngữ  trong cuộc  
sống, bồi dưỡng khả năng cảm thụ  văn và cảm xúa khi viết văn để  đưa vào  
giảng giải giúp học sinh dễ hiểu bài. 
­ Phải tạo được thói quen tự  giác học tập, chuẩn bị bài ở  nhà, đọc bài 
và tự tìm hiểu nội dung, quan sát thế giới xung quanh. 
­   Tăng   cường   mượn   sách,   báo   cho   học   sinh   đọc   thêm   sách,   báo,  
truyện,...hoặc nhắc nhở  các em lên thư  viện đọc sách để  giúp các em hiểu  
biết thêm về cuộc sống quanh em, từ đó tự tin để bộc lộ của mình, nâng cao  
khả năng nói, viết .
Đối với phân môn Tập làm văn là rất khó đối với học sinh Tiểu học nói 
chung. Nên với đề  tài này chúng ta có thể  linh động áp dụng với nhiều đối 
tượng học sinh trong lớp. Tôi sẽ tiếp tục áp dụng đề tài, tiếp tục nghiên cứu, 
rà soát lại, bổ sung thêm để hoàn thiện hơn, từ đó nâng cao chất lượng đồng  
bộ cho các em, chuẩn bị tốt cho các em hành trang để học tốt kiến thức ở lớp 
trên.
II. KIẾN NGHỊ
           Với tầm quan trọng và căn cứ  vào tỉ  lệ  % điểm kiểm tra định kì của 
phân môn Tập làm văn lớp 5 theo thông tư  22 mới ban hành, giáo viên cần 
tăng thêm thời lượng dạy Tập làm văn ở buổi học thứ hai. Sử dụng các hình 
ảnh (hoặc video) sinh động, hấp đẫn vào các tiết dạy.
Trên đây là một vài kinh nghiệm về “Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho  
học sinh dân tộc thiểu sốvùng khó khăn lớp 5” tôi đã thực hiện. Chắc chắn đề 
tài vẫn còn nhiều hạn chế, kính mong được sự góp ý chân thành từ Ban giám  
khảo, các cấp quản lí và đồng nghiệp để đề tài này áp dụng có hiệu quả cao 
hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!./.
Dray Sáp, ngày 27 tháng 2 năm 2017

Người viết

17


Trần Thị Tuyết Nga
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
                                                             CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG  SÁNG KIẾN
                                                                                    ( Kí tên và đóng dấu)

     Phạm Văn Liên

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

Tên tài liệu

Tác giả

1

Hướng   dẫn   dạy   học   các   môn   học   cho   các 

vùng, miền

Bộ giáo dục  và đào tạo

(Ban hành kèm theo công văn  số 7580/GDTH)

2

Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. 

Nguyễn Quý Thành, 
trường Đại học Quy 
Nhơn, năm 2010.

 
3

Sách giáo viên Tiếng Việt 4, lớp 5 ­ Tập 1, 
Tập 2 

19

Nhà xuất bản GD, năm 
2008


4

Tăng cường tiếng Việt cho học sinh có hoàn 
cảnh khó khăn


Dự án giáo dục Tiểu học 
PEDC

       

Trang
                                              

    A/ PHẦN MỞ BÀI                                                                               1
I.   Lý do chọn đề tài
1

II.  Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài

1

III. Đối tượng nghiên cứu

2

IV. Phạm vi nghiên cứu

2

V.  Phương pháp nghiên cứu

2

20



           B/ PHẦN NỘI DUNG   
2
I.  Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài

                                         

2

II. Thực trạng
  III. Nội dung và hình thức của giải pháp

3
4

1.Mục tiêu
4
2.Nội dung và cách thức thực hiện
4
2.1.Bồi dưỡng khả năng cảm thụvăn, thơ của giáo viên.
4
2.2.Hướng dẫn học sinh nắm cấu tạo từng dạng văn miêu tả.
4
2.3.Chọn đề tài gần gũi với học sinh.
5
2.4.Hướng dẫn quan sát, bồi dưỡng vốn từ, cách dùng từ đặt câu.
6
2.5.Hướng dẫn lập dàn ý và xây dựng đoạn văn.
 

9

12
12

2.6.Xây dựng mở bài và kết bài
        11
2.7. Hướng dẫn học sinh viết hoàn chỉnh bài văn.

 

2.8. Chấm bài

 

2.9. Tiết trả bài

 

12
IV. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.  
13

13

  C/ KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ                                                                      
                       
Tài liệu tham khảo
        17
21



 

22



×