B GIO DC V O TO
B Y T
TRNG I HC Y H NI
TRN TH TUYT HOAN
NGHIÊN CứU Tỷ Lệ TRẻ Đẻ THấP CÂN Và MộT Số
YếU Tố
ảNH HƯởNG ĐếN SINH TRẻ THấP CÂN TạI KHOA
SảN
BệNH VIệN BạCH MAI NĂM 2015 2016
KHểA LUN TT NGHIP C NHN Y KHOA
KHểA 2013 2017
HÀ NỘI - 2017
B GIO DC V O TO
B Y T
TRNG I HC Y H NI
TRN TH TUYT HOAN
NGHIÊN CứU Tỷ Lệ TRẻ Đẻ THấP CÂN Và MộT Số
YếU Tố
ảNH HƯởNG ĐếN SINH TRẻ THấP CÂN TạI KHOA
SảN
BệNH VIệN BạCH MAI NĂM 2015 2016
KHểA LUN TT NGHIP C NHN Y KHOA
KHểA 2013 2017
Ngi hng dn: TS. BS Lu Tuyt Minh
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận
này tôi đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của quý
thầy cô, bạn bè và gia đình.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được gửi lời cảm
ơn tới:
Ban Giám hiệu Trường Đại Học Y Hà Nội, phòng Quản lý đào t ạo
Đại Học, phòng Quản lý Nghiên cứu Khoa học.
Ban Giám đốc và Phòng kế hoạch tổng hợp bệnh viện Bạch Mai.
Chủ nhiệm khoa Sản bệnh viện Bạch Mai, Điều d ưỡng tr ưởng
khoa Sản bệnh viện Bạch Mai.
Khoa Điều dưỡng – Hộ sinh cùng các thầy cô trong bộ môn đã t ạo
mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa
luận.
Đặc biệt, với tất cả sự kính trọng tôi xin chân thành bày tỏ sự biết
ơn sâu sắc đến TS. Lưu Tuyết Minh, người đã tận tình giúp đ ỡ, tr ực tiếp
hướng dẫn cho tôi.
Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn đến bố mẹ tôi – nh ững ng ười
dù không trực tiếp bên tôi nhưng luôn động viên tôi, nh ững ng ười b ạn
đã giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2017.
Sinh viên
Trần Thị Tuyết Hoan
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi:
- Ban giám hiệu Trường Đại học Y Hà Nội.
- Phòng Quản lý Đào tạo Đại học, phòng Công tác học sinh –
sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội.
- Khoa Điều dưỡng – hộ sinh Trường Đại học Y Hà Nội.
- Hội đồng chấm Khóa luận tốt nghiệp năm 2016 – 2017.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi tr ực ti ếp ti ến
hành dưới sự hướng dẫn của TS. Lưu Tuyết Minh. Các số liệu kết quả
nghiên cứu trình bày trong khóa luận này là trung th ực và ch ưa đ ược
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học, khóa lu ận hay tài
liệu tham khảo nào.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2017
Sinh viên
Tr ần Th ị Tuy ết Hoan
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
95%CI
: 95% Confident interval (Khoảng tin cậy)
BMI
: Body Mass Index ( Chỉ số khối cơ thể)
Hb
: Hemoglobin.
OR
: Odds Ratio (Tỷ suất chênh)
TĐTC : Trẻ đẻ thấp cân.
WHO : World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
12
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cân nặng trẻ sơ sinh là một trong những chỉ số quan trọng hàng
đầu đối với sự sống của trẻ cũng như sự tăng trưởng và phát tri ển sau
này của trẻ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trẻ đẻ thấp cân (TĐTC)
là những trẻ có cân nặng lúc đẻ dưới 2500g, bao gồm cả tr ẻ đ ẻ non và
chậm phát triển trong tử cung hoặc phối hợp cả hai [1].
Tỷ lệ TĐTC trên thế giới còn tương đối cao. Theo thống kê của WHO
thì mỗi năm có khoảng 20 triệu TĐTC (chiếm 15,5%). Phần lớn tỷ lệ TĐTC
cao ở vùng đang phát triển là châu Á và châu Phi. Trong khi, tỷ lệ TĐTC ở
châu Âu chiếm 6,4% thì tỷ lệ này ở châu Á là 18,3% và ở châu Phi là 14,3%
[2].
Tỷ lệ TĐTC phản ánh tình trạng dinh dưỡng, bệnh tật của mẹ và
tình hình phát triển kinh tế xã hội của một qu ốc gia. Ở n ước ta, theo
thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ TĐTC vẫn còn cao nh ưng có xu h ướng gi ảm
dần trong những năm gần đây [3]. Theo nghiên cứu của UNICEF năm
1994 thì tỷ lệ trẻ sinh nhẹ cân là 12% đến 14%, còn theo th ống kê c ủa
Bộ Y tế thì tỷ lệ này là 8% năm 2000 [4] và 6,5% năm 2003, năm 2006 là
4,3% tỷ lệ này được đánh giá thấp hơn th ực tế [5], năm 2009 là 12,5%
[6]. Gần đây nhất, theo báo cáo của Tổng cục th ống kê năm 2011, t ỷ l ệ
TĐTC trên toàn quốc là 5,1% [3].
Tỷ lệ TĐTC cao luôn song hành với sự gia tăng tỷ lệ bệnh tật và tử
vong trẻ em mà trong đó bệnh tật, tử vong s ơ sinh chi ếm đa s ố, đ ể l ại
nhiều hậu quả cho sự phát triển sau này. Bởi vậy, trong n ước và th ế giới
đã có nhiều công trình nghiên cứu tiến hành để xác định các nguyên
nhân và yếu tố liên quan nhằm đề ra những biện pháp can thiệp đ ể
13
giảm tỷ lệ TĐTC . Nguyên nhân gây đẻ con thấp cân thường do nhiều
yếu tố phối hợp với nhau và được nhiều tác giả đưa ra… [7],[8],[9],[10],
[11],[12]. Tuy nhiên, trong từng điều kiện riêng của mỗi n ước, m ỗi đ ịa
phương, các nghiên cứu lại có kết quả khác nhau. Vì vậy, các công trình
nghiên cứu về nguyên nhân gây đẻ thấp cần vẫn tiếp tục cần được mở
rộng.
Trong nước đã có nhiều công trình nghiên về TĐTC tại bệnh viện
Phụ Sản Hà Nội, Sóc Sơn, Hải Phòng, Hà Tây,… [10],[11],[12]. Khoa sản
bệnh viện Bạch Mai cho đến nay chưa có công trình nghiên c ứu nào
nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến sinh trẻ thấp cân. Xuất phát từ yêu
cầu đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tỷ lệ trẻ đẻ
thấp cân và một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh trẻ thấp cân tại
khoa sản bệnh viện Bạch Mai năm 2015 - 2016” với hai mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ trẻ đẻ thấp cân tại khoa sản bệnh viện Bạch Mai
trong 2 năm (2015-2016).
2. Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh trẻ thấp cân tại
khoa sản bệnh viện Bạch Mai.
Chúng tôi hy vọng bước đầu tìm hiểu được một số yếu tố ảnh
hưởng đến sinh trẻ thấp cân tại khoa sản bệnh viện bạch mai, từ đó đề
xuất những giải pháp can thiệp giúp phòng bệnh, giảm tỷ lệ TĐTC, góp
phần làm giảm bệnh tật và tử vong ở trẻ em, đặc biệt là trẻ s ơ sinh và
nâng cao chất lượng sức khỏe cho trẻ ngay từ khi chào đời.
14
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. TĐTC
1.1.1. Tỷ lệ TĐTC trên thế giới và trong nước.
1.1.1.1. TĐTC trên thế giới
Trên thế giới mỗi năm có khoảng 20 triệu TĐTC (chiếm 15,5%).
Phần lớn tỷ lệ TĐTC cao ở vùng đang phát triển là châu Á và châu Phi.
Trong khi tỷ lệ TĐTC ở các nước phát triển chỉ chiếm 7,0% thì tỷ lệ này
ở các nước kém phát triển hơn chiếm tới 16,5% và ở các nước kém phát
triển chiếm tới 18,6%. Nhìn chung trên toàn thế giới thì tỷ lệ TĐTC ở
châu Âu chiếm 6,4%, châu Á là 18,3% và ở châu Phi là 14,3%. Trong t ổng
số TĐTC ở các nước đang phát triển thì 72% là ở châu Á và 22% là ở
châu Phi [2].
Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ trẻ đẻ thấp cân ở các vùng khác nhau trên th ế
giới [13]
Các kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ TĐTC khác nhau ở t ừng khu
vực, từng quốc gia, tỷ lệ này tương đối cao ở các quốc gia đang phát
triển, cao nhất là Nam Á và Châu Phi. Sự phát tri ển kinh t ế, xã h ội, đ ặc
biệt là những quyền lợi, điều kiện sống dành cho phụ nữ có ảnh h ưởng
rất lớn đến việc giảm tỷ lệ trẻ đẻ cân nặng thấp. Theo bi ểu đồ trên,
Nam Á là vùng có tỷ lệ TĐTC cao nhất là 25%. T ỷ lệ này ở Sahara (Châu
Phi) là 12% và ở Châu Mỹ la tinh là 10% [13]. Tuy nhiên, số liệu trên chưa
phản ánh được thực trạng TĐTC tại các nước đang phát triển vì các
nước đang phát triển việc thu thập số liệu còn nhiều h ạn chế, số liệu có
15
thể không chính xác vì ở nhóm sản phụ có thu nh ập th ấp, nguy c ơ cao
rất có thể không được thống kê hoặc trẻ không được cân khi sinh.
1.1.1.2. TĐTC trong nước
Tại Việt Nam đã có các công trình nghiên cứu về tình trạng TĐTC ở
cộng đồng cũng như bệnh viện và chủ yếu tập trung vào nghiên c ứu t ỷ
lệ và một số yếu tố nguy cơ.
Biểu đồ 1.2. Tỷ lệ trẻ đẻ thấp cân của nước ta từ năm 2000 – 2011
Từ biểu đồ 1.2 cho thấy , tỷ lệ TĐTC vẫn còn cao nhưng có xu
hướng giảm dần trong những năm gần đây : 8,0% vào năm 2000 [4], năm
2003 là 6,5% và 4,3% vào năm 2006. Tuy nhiên, trong báo cáo h ệ th ống
chăm sóc sức khỏe sinh sản, Vụ Sức khỏe sinh sản, Bộ Y tế cho r ằng c ần
phải xem xét lại tỷ lệ này vì số liệu thấp hơn so với thực tế [5]. Theo
thống kê năm 2011, tỷ lệ này là 5,1% [3].
Năm 1999 - 2000, tác giả Lưu Tuyết Minh đã cho thấy, tỷ lệ TĐTC
là 10,2%, trong đó có 66,5% là đẻ non và 33,5% là ch ậm phát tri ển trong
tử cung [14]. Nghiên cứu tại khoa Sản bệnh viện tỉnh Hà Tây từ năm
2000-2001, Cù Thị Minh Hiền cho thấy, tỷ lệ TĐTC là 7,2%, v ới tỷ l ệ
TĐTC ở nông thôn là 9,0% cao hơn ở thành thị là 4,1% [12].
Nghiên cứu của Nguyễn Đỗ Huy và Trần Thị Phương Mai tiến
hành năm 2001 tại Hải Phòng thu được kết quả, tỷ lệ trẻ TĐTC là
11,6%, nhóm bà mẹ có BIM <18,5 là 9,5% và nhóm bà m ẹ có BIM >18,5 là
12,4% [15]. Tỷ lệ TĐTC tại Cần Thơ năm 2002 là 9,7%, trong đó tỷ lệ này
cao nhất ở vùng nông thôn ở mức 10,6% và thấp nh ất ở vùng thành th ị
chiếm 7,2% [11].
16
Tại bệnh viện Phụ Sản trung năm 2002, Dương Lan Dung cho
thấy tỷ lệ TĐTC là 11,52%, với tỷ lệ trẻ đẻ non tháng là 66,7%, ch ậm
phát triển trong tử cung là 33,3% [16]. Năm 2010, Tô Minh Hương
nghiên cứu tại bệnh viện phụ sản Hà nội cho thấy, tỷ lệ đẻ con thấp cân
là 11,4%, tỷ lệ sơ sinh non tháng là 9,7% và s ơ sinh chậm phát tri ển
trong tử cung là 11,2% [8].
Nghiên cứu của Hà Hải Bằng năm 2014 cho th ấy, t ỷ l ệ TĐTC là
4%, trong đó trẻ có cân nặng từ 1500 - 2449g chi ếm 98,6%, tr ẻ trai
chiếm 44,7%, trẻ gái chiếm 55,3%. T ỷ l ệ TĐTC có tu ổi thai khi sinh
dưới 37 tuần là 46,7% [7] .
17
1.1.2. Hậu quả của TĐTC
1.1.2.1. Nguy cơ tử vong và mắc bệnh cao
TĐTC là yếu tố thuận lợi hàng đầu làm cho trẻ bị bệnh và tử vong
ở trẻ sơ sinh, cân nặng sơ sinh là một trong những chỉ số quan trọng xác
định khả năng sống còn, các biến chứng, sự phát triển sau này c ủa tr ẻ.
TĐTC tử vong do non yếu, ngạt, suy hô hấp, hạ đường huy ết, h ạ thân
nhiệt và nhiễm khuẩn [17],[18]. Đã có nhiều nghiên cứu về tử vong trẻ
em cho thấy , TĐTC có liên quan mật thiết đến tử vong chu sinh [17],[19].
Nghiên cứu ở Tây Âu cho thấy tỷ lệ tử vong chu sinh gấp 30 - 35 l ần ở
những TĐTC, ở Tây Phi 40% tử vong chu sinh là TĐTC [2]. Nghiên cứu về
nguyên nhân tử vong trẻ em ở Ấn Độ năm 2010 cho thấy TĐTC và trẻ đẻ
non là nguyên nhân của 16,8% tổng số các trường hợp tử vong [17].
Trẻ sơ sinh có trọng lượng lúc sinh càng thấp thì tỷ lệ t ử vong
càng cao, và trẻ sơ sinh có cân nặng lúc sinh < 850g tử vong 100% [20].
1.1.2.2. Nguy cơ chậm tăng trưởng và phát triển
TĐTC không những có nguy cơ mắc bệnh và tử vong mà còn ảnh
hưởng đến sự phát triển thể lực và trí tuệ sau này của trẻ. TĐTC không
theo kịp sự phát triển của trẻ có cân nặng bình thường trong hai năm
đầu tiên của cuộc đời, hay có những dị tật bẩm sinh, nh ững bất th ường
về hệ thần kinh và phát triển thể chất. Sự phất triển của TĐTC còn b ị
ảnh hưởng tới tuổi thanh niên, TĐTC sẽ gặp những vấn đề như kém tập
trung, ít tham gia các hoạt động xã hội hơn so với những trẻ bình th ường
[21].
1.1.2.3. Nguy cơ mắc các bệnh mạn tính
Các nghiên cứu và thực tế cho thấy hậu quả về bệnh tật của TĐTC
kéo dài suốt cuộc đời, kết quả của một số công trình nghiên cứu cho
thấy nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và tiểu đường có liên quan m ật
18
thiết đến kích thước, cân nặng lúc sinh. Nghiên cứu của Harder T. năm
2007 thu được, TĐTC có nguy cơ mắc đái tháo đường tuýp 2 cao g ấp 1,32
lần so với trẻ bình thường [22]. Theo Zhao M. và cộng sự cũng đã nhận
định rằng cân nặng khi sinh thấp là yếu tố làm tăng nguy c ơ m ắc bệnh
tăng huyết áp, có ý nghĩa thống kê (p=0,01) [23].
1.2. Một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến TĐTC
1.2.1. Yếu tố từ phía bà mẹ
1.2.1.1. Tuổi mẹ
Mối liên quan giữa tuổi mẹ và tỉ lệ TĐTC đã được chứng minh qua
nhiều nghiên cứu, và đã xác định các bà mẹ dưới 20 tuổi và trên 35 tu ổi
có nguy cơ cao đẻ con cân nặng thấp so với các bà mẹ từ 20 đến 35 tu ổi
[11], [24],[25]. Các bà mẹ trẻ do chưa được hoàn thiện về cơ thể và tâm
lý, thai nghén là một gánh nặng cho một cơ thể đang lớn, sẽ gắn liền v ới
các biến chứng sản khoa, thiếu máu, nhiễm trùng và gây TĐTC [7],[25].
Các bà mẹ sau 35 tuổi các chức năng của cơ thể bắt đầu giảm sút,
các tế bào mạch máu giảm lưu thông không đủ nuôi d ưỡng bào thai gây
nên chậm phát triển trong tử cung. Đồng thời, các bà mẹ lớn tuổi có th ể
chịu tác động bởi các yếu tố bệnh tật, tâm lý cũng nh ư phải gánh vác
công việc nhiều hơn các bà mẹ trẻ [24].
1.2.1.2. Dinh dưỡng bà mẹ
Cân nặng của bà mẹ trước đẻ, tăng cân và chế độ dinh dưỡng
trong thời gian mang thai được coi là những yếu tố liên quan ch ặt chẽ
đến sự phát triển và ảnh hưởng đến cân nặng trẻ lúc đ ẻ. Bà m ẹ có cân
nặng thấp trước khi mang thai là những bà mẹ thiếu dinh d ưỡng (cân
nặng thường dưới 45kg), BIM<18,5. Các bà mẹ có cân n ặng thấp có nguy
19
cơ đẻ non và TĐTC so với tuổi thai, do không đ ủ dinh d ưỡng cung c ấp
cho sự phát triển bình thường của thai nhi [7].
Tăng cân trong thời gian mang thai có tác dụng thúc đẩy s ự phát
triển của thai nhi, đặc biệt đối với bà mẹ có cân nặng th ấp tr ước khi
mang thai. WHO khuyến cáo rằng phụ nữ ở các nước đang phát tri ển
tăng ít nhất 1kg/1 tháng trong 6 tháng cuối của thai kỳ, trong quá trình
mang thai tăng ít nhất là 6kg. Nếu bà mẹ không tăng đ ủ cân trong quá
trình thai nghén sẽ làm bà mẹ suy kiệt, ảnh hưởng đến cân n ặng của trẻ
sơ sinh. Theo khuyến nghị của Ủy ban dinh dưỡng H ội Sản ph ụ khoa Hoa
Kỳ, cân nặng lý tưởng đạt được trong suốt th ời kỳ mang thai là 10 -12kg
(3 tháng đầu tăng 1kg, 3 tháng giữa tăng 4-5kg, 3 tháng cuối tăng 5-6
kg). Tăng cân tốt sẽ đảm bảo cho thai nhi phát triển và cơ thể mẹ sẽ tích
lũy mỡ để dự trữ tạo sữa sau sinh. Ngược lại, những trường hợp tăng
cân ít sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của thai nhi và trẻ sinh ra th ấp cân
[26].
Theo nghiên cứu tại Cần Thơ cho thấy, các bà mẹ có mức dinh dưỡng
trung bình và kém có nguy cơ sinh con thấp cân cao hơn 1,41 (95%CI: 1,17 –
1,71) và 4,27 lần với nhóm bà mẹ có dinh dưỡng đầy đủ (95%CI: 3,5 – 5,2)
[11].
1.2.1.3. Thiếu máu
Thiếu máu khi mang thai ảnh hưởng lớn đến thai nghén, thiếu
máu nặng gây nguy cơ đẻ non, thai chậm phát triển trong tử cung, cân
nặng khi sinh thấp. Thiếu máu thiếu sắt cũng làm tăng nguy c ơ m ắc
bệnh, tử vong đối với thai nhi và sản phụ [27].
Nghiên cứu của Hà Hải Bằng cho thấy tình trạng thiếu máu của bà
mẹ với sinh con thấp cân có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. T ỷ lệ trẻ sơ
sinh thấp cân ở những bà mẹ có nồng độ Hb lúc vào viện < 90g/ L là
20
54,5%, những bà mẹ có nồng độ Hb 90 – 109 g/L là 39,6%, ở nh ững bà
mẹ có nồng độ Hb ≥ 110g/L là 29,8%. Những bà m ẹ có n ồng đ ộ Hb
<90g/L có nguy cơ sinh con thấp cân cao gấp 2,82 lần nh ững bà m ẹ có
nồng độ Hb ≥ 110g/L với OR= 2,82 (95% CI 1,53 – 5,21) [7].
Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng, lượng sắt trong khẩu phần ăn
của người Việt Nam mới đạt 11,2mg/ngày, thấp hơn rất nhiều so v ới
nhu cầu. Do giá trị sinh học sắt trong khẩu phần ăn của người Vi ệt Nam
ở mức trung bình nên tỷ lệ sắt được hấp thu chỉ dao đ ộng ở m ức 5
-10%. Số lượng hấp thu như trên còn rất thiếu so với nhu cầu của bà mẹ
mang thai. Do đó, bồ sung sắt thêm so với nhu cầu bình th ường cho bà
mẹ mang thai dao động từ 15 – 30 mg/ngày tùy theo loại khẩu ph ần
thức ăn, việc bổ sung viên sắt được khuyến nghị cho suốt cả th ời kỳ
mang thai [28],[29],[30].
1.2.1.4. Nghề nghiệp
Ở những nơi thiếu ăn, điều kiện lao động nặng nhọc, người ph ụ
nữ phải làm việc cho đến tận ngày sinh thì sự phát triển c ủa bào thai
luôn luôn bị suy giảm. Tại bệnh viện A Thái Nguyên, Hà Hải Bằng cho
thấy, phụ nữ sống ở nông thôn có nguy cơ sinh con thấp cân cao gấp
1,86 lần so với phụ nữ sống ở thành thị (95%CI: 1,43 – 2,42), ph ụ n ữ lao
động chân tay có nguy cơ sinh con thấp cân cao gấp 2,82 lần so v ới ph ụ
nữ lao động trí óc (95%CI: 1,62 – 3,22) [7]. Nhằm phòng ngừa TĐTC,
một trong những can thiệp đã được áp dụng là ngh ỉ ngơi khi mang thai
[11],[31].
1.2.1.5. Nơi ở
Trẻ đẻ thấp cân liên quan chặt chẽ với điều kiện kinh tế - xã hội.
Tình trạng kinh tế xã hội bao gồm các yếu tố như giáo dục, nghề nghiệp,
thu nhập gia đình. Tình trạng kinh tế xã hội không có tác đ ộng đ ộc l ập,
21
không phải là nguyên nhân trực tiếp gây đẻ th ấp cân nh ưng là nguyên
nhân gián tiếp tác động đến sinh trẻ thấp cân. Nền kinh tế xã h ội thấp
luôn đồng hành với việc giảm điều kiện tiếp cận với các d ịch v ụ chăm
sóc sức khỏe, dinh dưỡng kém, điều kiện sống thấp, lao động quá sức và
bệnh tật… đó là những yếu tố làm tăng nguy cơ TĐTC. H ầu hết các công
trình nghiên cứu đã nhận xét rằng các bà mẹ là nông dân, trình đ ộ văn
hóa thấp, ở nông thôn có nguy cơ đẻ con thấp cân cao h ơn các bà mẹ có
nghề nghiệp là cán bộ, có trình độ học vấn cao hơn và ở thành th ị [11],
[16],[31].
1.2.1.6. Bệnh tật của mẹ trong thời kỳ mang thai
Tình trạng thai nghén có thể làm sức khỏe bà mẹ xấu đi, đ ồng th ời
tình trạng sức khỏe bà mẹ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai
nhi. Nếu người mẹ có thể trạng yếu thai sẽ bị chậm phát tri ển trong t ử
cung và có nguy cơ cao đẻ non [32]. Các nhóm bệnh mắc phải trong thời
kỳ mang thai bao gồm một số loại dưới đây:
+ Bệnh lý rối loạn tăng huyết áp hay tiền sản giật là một bệnh lý
xảy ra trong 3 tháng cuối thời kỳ thai nghén. Tỷ lệ mắc bệnh thay đổi t ủy
theo từng chủng tộc và từng nước như ở Pháp là 5%, ở Mỹ là 5-10%. Ở
Việt Nam, tỷ lệ này từ 4-5% so với tổng số người có thai nếu lấy tiêu
chuẩn cao huyết áp bắt đầu từ 140/90 trở lên. Bệnh rối loạn tăng huy ết
áp để lại nhiều hậu quả nặng nề cho mẹ và con. Hậu quả của bệnh này
với thai nhi là gây nên tình trạng thai chậm phát tri ển trong t ử cung, đ ẻ
non, thai chết lưu, TĐTC [16],[31].
+ Nhiễm khuẩn tiết niệu và thai nghén: Khoảng 5-10% phụ n ữ có
thai mắc bệnh này mà không có triệu chứng và trong đó 20-40% sẽ b ị
viêm thận và bể thận lúc cuối thời kỳ thai nghén. Khi mẹ bị nhiễm
22
khuẩn tiết niệu sẽ có nguy cơ đẻ non là 27% và thai chậm phát tri ển
trong tử cung là 10% [31].
Nghiên cứu tại bệnh viện Phụ Sản Trung ương năm 2002, Ph ạm
Bá Nha đã cho thấy viêm nhiễm đường dinh d ục d ưới do vi khu ẩn làm
tăng nguy cơ rỉ ối, ối vỡ non ở trong nhóm đẻ non so với nhóm không đẻ
non, làm tăng nguy cơ TĐTC [33].
1.2.2 Các yếu tố tiền sử sản khoa
1.2.2.1. Số lần đẻ
Các kết quả nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam về mối liên
quan giữa số lần sinh và nguy cơ TĐTC đã cho những kết quả khác nhau.
Theo Trần Sophia nghiên cứu năm 2005 tại Cần Thơ cho th ấy, bà mẹ
sinh trên 4 lần trở lên nguy cơ sinh con thấp cân cao gấp 5,2 l ần so v ới
bà mẹ sinh con so [11] nhưng kết quả của Đinh Thị Phương Hòa và
Dương Lam Dung lại thấy đẻ con so có nguy cơ cao hơn [16],[32]. Tuy
nhiên theo một số nghiên cứu của WHO, cho đến nay ch ưa th ấy mối liên
quan rõ rệt giữa số lần đẻ và TĐTC [34].
1.2.2.2. Khoảng cách đẻ dầy
Khoảng cách đẻ dầy là một trong các yếu tố nguy cơ sinh con thấp
cân. Trong khoảng thời gian mang thai, dinh dưỡng d ự tr ữ c ủa bà m ẹ đã
được huy động cho việc nuôi dưỡng thai nhi. Để h ồi ph ục s ức kh ỏe cho
bà mẹ nuôi con và chuẩn bị cho lần sinh sau đòi hỏi th ời gian không quá
ngắn, thường từ 2 đến 4 năm. Những bà mẹ mang thai lại trong vòng 2
năm sẽ không đủ dinh dưỡng cho thai phát triển bình th ường vì đã tiêu
hao năng lượng cho lần sinh và nuôi con tr ước, d ẫn đ ến không đ ủ dinh
dưỡng cho phát triển bào thai lần này, dẫn đến thai ch ậm phát tri ển
trong tử cung và TĐTC [31].
23
Nghiên cứu của Cù Thị Minh Hiền đã cho thấy, khoảng cách giữa 2
lần sinh ngắn (<36 tháng) có nguy cơ cao hơn gấp 3 lần so với các bà mẹ
có khoảng cách đẻ > 36 tháng [12].
1.2.2.3. Tiền sử những lần có thai trước đẻ con có cân nặng thấp
Một số bà mẹ sinh con thấp cân và trong tiền sử đã t ừng sinh con
thấp cân. Thực tế cho thấy nếu các yếu tố nguy cơ vẫn tồn tại thì kh ả
năng sinh con thấp cân là có thể lặp lại [7],[32].
1.2.3 Các yếu tố từ phía thai nhi
1.2.3.1. Đẻ non
Trẻ đẻ non là những trẻ sinh ra ở tuổi thai từ 22 – 37 tuần. Trẻ có
đặc điểm: trọng lượng lúc sinh thường thấp dưới 2500g, chiều dài <47
cm, vòng đầu < 36cm, nhiều lông tơ, nhiều bộ ph ận trong c ơ th ể ch ưa
phát triển hoàn chỉnh… [35]. Theo nghiên cứu của Đỗ Thị Hồng Hạnh
năm 2016 cho thấy, có 46,7% trong tổng số trẻ đẻ non sau sinh có cân
nặng dưới 2500g [35].
1.2.3.2. Đa thai
Đa thai thường gây nguy cơ sinh non, sinh con thấp cân, thai ch ậm
phát triển trong tử cung. Tỷ lệ thai chậm phát triển trong tử cung là
25%, tăng gấp 10 lần so với những trường hợp đơn thai [7].
24
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Những hồ sơ bệnh án tại khoa Sản bệnh viện Bạch Mai, mỗi hồ s ơ
bao gồm một bệnh án của sản phụ và một bệnh án sơ sinh kèm theo, lưu
trữ tại phòng Kế hoạch tổng hợp trong thời gian từ 01/01/2015 đến
31/12/2016.
Đối tượng nghiên cứu được chia thành 2 nhóm: nhóm trẻ đ ẻ th ấp
cân và nhóm trẻ cân nặng bình thường để so sánh.
* Tiêu chuẩn chọn nhóm trẻ đẻ thấp cân:
+ Cân nặng trẻ sơ sinh dưới 2500g [1].
+ Trẻ sinh ra có tuổi thai từ 38 – 42 tuần.
+ Đủ thông tin và các yếu tố nghiên cứu được ghi trong h ồ s ơ.
* Tiêu chuẩn chọn nhóm trẻ cân nặng bình thường để so sánh:
+ Cân nặng trẻ sơ sinh từ 2500g – 3999g [26].
+ Trẻ sinh ra có tuổi thai từ 38 - 42 tuần.
+ Đủ thông tin và các yếu tố nghiên cứu được ghi trong h ồ s ơ.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Cân nặng trẻ sơ sinh ≥ 4000g.
+ Trẻ sinh ra có tuổi thai < 38 tuần hoặc > 42 tuần.
+ Không đủ thông tin và các yếu tố nghiên cứu đ ược ghi trong h ồ
sơ.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm
Tại khoa Sản bệnh viện Bạch Mai.
25
2.2.2. Thời gian
Từ ngày 1 tháng 12 năm 2016 đến ngày 10 tháng 05 năm 2017.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu h ồi cứu
mô tả. Để tìm hiểu các yếu tố liên quan đến việc sinh con th ấp cân trong
nghiên cứu sẽ chọn ra nhóm so sánh.
Nghiên cứu tiến hành hồi cứu các hồ sơ của các bà mẹ sinh con tại
khoa Sản bệnh viện Bạch Mai từ 01/01/2015 đến 31/12/2016.
2.3.2. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu: mẫu toàn bộ bệnh án sản phụ sinh con từ 01/01/2015
đến 31/12/2016.
Nhóm so sánh: nhóm bệnh án sản phụ không đẻ thấp cân để so
sánh. Bệnh án nhóm sản phụ không đẻ thấp cân được chọn liên tục theo
thời gian các sản phụ đẻ trong năm, với mỗi bệnh án sản ph ụ đẻ th ấp
cân được chọn, chọn một bệnh án nhóm không đẻ th ấp cân t ương ứng.
Tỷ lệ nhóm trẻ đẻ thấp cân với nhóm so sánh là 1:2.
2.3.3. Kĩ thuật và công cụ thu thập thông tin
Kĩ thuật: Thu thập số liệu sử dụng thông tin có sẵn trong bệnh án
mẫu nghiên cứu.
Công cụ: Bệnh án mẫu.
2.3.4. Các biến số nghiên cứu
Các thông tin người mẹ : tuổi, dân tộc, nghề nghiệp, nơi ở, thể
trạng, số cân tăng trong thời kỳ mang thai.
Các đặc điểm trẻ sơ sinh : Cân nặng khi sinh, số thai, tuổi thai khi
sinh.