SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐĂK NÔNG
TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN
?
Sáng kiến kinh nghiệm
Lĩnh vực:
Ngữ văn
Tên tác giả:
Phan Thị Phương Lan
Giáo viên môn : Ngữ văn
Đơn vị công tác: Trường THPT Chu Văn An
.
Gia Nghĩa, tháng 3 năm 2017
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 1
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
MỤC LỤC
NỘI DUNG
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Trang
1
2
2
2
3
B. NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ.
1. Về khái niệm “biện pháp tu từ” tiếng Việt.
2. Một số biện pháp tu từ tiếng Việt cấp độ từ vựng – ngữ nghĩa.
3. Tu từ với sáng tạo và cảm thụ văn chương.
4
4
4
6
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
7
1. Dạy học tu từ ở chương trình Ngữ văn trong trường phổ thông.
7
2. Một vài nhận xét từ kết quả điều tra thực tế về khả năng phân tích
và vận dụng các biện pháp tu từ của học sinh phổ thông.
8
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ
cho học sinh lớp 10.
2. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ
cho học sinh lớp 11 qua một số tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
1. Rèn luyện vận dụng ẩn dụ tu từ.
2. Rèn luyện vận dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác và ẩn dụ tượng
trưng.
3. Rèn luyện vận dụng hoán dụ tu từ.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 2
10
10
13
27
27
28
30
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
33
I. KẾT LUẬN.
34z
II. KIẾN NGHỊ.
HỆ THỐNG MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
THCS
THPT
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 3
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Các nhà ngôn ngữ học đều thống nhất rằng, vận dụng các biện pháp tu từ
là một trong những con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả của hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong văn chương, tu từ là một trong những cách
thức quan trọng để thể hiện tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Chính các
biện pháp tu từ đã làm nên những câu văn hay, những câu thơ hay, những tác
phẩm hay. Vì vậy mà việc phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ
là chìa khóa vàng để thâm nhập và cảm thụ tốt một tác phẩm văn học.
Học sinh được học lí thuyết về các biện pháp tu từ ở bậc THSC. Đây là
nội dung kiến thức khó, trừu tượng, ở lứa tuổi THCS, không phải học sinh
nào cũng hiểu được một cách sâu sắc bản chất của các biện pháp tu từ, đặc
biệt là những biện pháp tu từ khó như ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng... Do đó,
khi lên bậc THPT, hiểu biết về tu từ và nhất là kĩ năng phân tích giá trị biểu
đạt các biện pháp tu từ của học sinh chưa đáp ứng yêu cầu của bộ môn. Điều
này rõ ràng làm hạn chế năng lực cảm thụ tác phẩm văn học của học sinh.
Trong khi đó, yêu cầu của việc học văn đối với học sinh bậc THPT là không
chỉ dừng ở mức độ cảm thụ tốt mà còn phải biết vận dụng ngôn ngữ một
cách sáng tạo.
Hình thành cho học sinh kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện
pháp tu từ là việc cần thiết. Không nắm vững kiến thức ngôn ngữ, khi phân
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 4
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
tích một tác phẩm văn chương, học sinh rất dễ rơi vào bệnh suy diễn chủ
quan, thiếu cơ sở, không có tính thuyết phục.
“Đối với một giáo viên ngữ văn điều đặc biệt cần thiết là trình độ phong
cách chức năng của việc nắm vững ngôn ngữ, là nguồn phương tiện, biện
pháp tu từ dồi dào, đa dạng của ngôn ngữ… nhanh nhạy trước những sự kiện
tu từ của ngôn ngữ” [11, tr 324]. Chính vì vậy, nghiên cứu đề tài này giúp tôi
hoàn thiện thêm những kiến thức về ngôn ngữ, giúp ích rất nhiều cho việc
giảng dạy của bản thân, góp phần giúp cho học sinh học tốt bộ môn Ngữ
văn. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “Rèn luyện kĩ năng
phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung học phổ
thông”
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài vận dụng những thành tựu nghiên cứu về tu từ học của những
người đi trước, kết hợp với kinh nghiệm học tập và đứng lớp nhằm tìm ra
phương pháp hiệu quả nhất để “rèn luyện cho học sinh kĩ năng phân tích giá
trị biểu đạt của các biện pháp tu từ trong cảm thụ văn chương” theo phương
châm “bằng thực hành, thông qua thực hành và hướng tới thực hành”.
Phương pháp rèn luyện của đề tài này sẽ giúp ích rất nhiều cho học sinh
trong việc nâng cao năng lực cảm thụ văn chương để học tốt bộ môn Ngữ
văn. Thực tế giảng dạy của bản thân tôi đã bước đầu khẳng định điều đó.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Tu từ là một khái niệm có từ thời cổ đại. “Tu từ học là môn học dạy
người ta nói, viết đúng, tiến tới nói, viết hay, ra đời trong nhà trường của chủ
nô Hi Lạp và được Aristote tổng kết trong cuốn Tu từ học. Tiếp đó Tu từ trở
thành một bộ môn bắt buộc trong Tam khoa (Trivium) của nhà trường Trung
cổ và nhà trường cận đại ở châu Âu. (...) Đầu thế kỉ XX, trước sự phát triển
của ngôn ngữ học, Triết học ..., các nhà khoa học đã đổi mới môn học này,
hiện đại hóa bằng cơ sở lí thuyết và gọi là phong cách học.” [7, tr.238]
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 5
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
Trong sách hướng dẫn học tập môn Ngữ văn THPT, các tác giả có đề cập
đến vai trò của tu từ đối với văn chương hoặc phân tích giá trị của chúng
trong những tác phẩm văn học cụ thể. Tuy nhiên, vẫn chưa có tác giả nào chú
trọng vào phương pháp rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện
pháp tu từ cho học sinh.
Như vậy, cho đến nay, vấn đề “Phương pháp rèn luyện kĩ năng phân tích
và vận dụng các biện pháp tu từ học sinh phổ thông ” đang còn bỏ ngõ. Chính
vì vậy tôi mạnh dạn đi vào địa hạt đang còn nhiều điều thú vị, bổ ích này với
mong muốn tìm ra phương pháp góp phần giúp học sinh học tốt môn Ngữ
văn.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Tôi vận dụng một số phương pháp chính sau:
Phương pháp điều tra thực tế, thống kê nhằm nắm được chính xác kiến
thức và kĩ năng của học sinh THCS và THPT về các biện pháp tu từ.
Phương pháp khái quát, hệ thống hóa giúp nắm được một cách toàn diện
những vấn đề liên quan đến đề tài.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, liên hệ, so sánh, thử nghiệm tu từ, bình
giảng được vận dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu tác phẩm văn
học.
Phương pháp phát vấn, thảo luận nhóm, diễn giảng .. khi đứng lớp và
một số biện pháp bổ trợ khác.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Các biện pháp tu từ tiếng Việt xét ở các cấp độ ngôn ngữ là rất rộng, bao
gồm các biện pháp từ từ ngữ âm, từ vựng – ngữ nghĩa, ngữ pháp, văn bản.
Việc rèn luyện phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ là công việc
thường xuyên được triển khai trong cả chương trình Ngữ văn, mục tiêu là
hình thành cho học sinh cảm thụ tốt văn chương và vận dụng ngôn ngữ hiệu
quả.
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 6
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
Tuy nhiên, do kinh nghiệm đứng lớp có hạn, đề tài này chỉ tập vào những
biện pháp tu từ thuộc cấp độ từ vựng ngữ nghĩa và cũng chỉ tập trung vào
các biện pháp tu từ được dùng phổ biến như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, phép
điệp, đối lập và tương phản.
Cũng do khuôn khổ của một đề tài nhỏ, tôi chỉ trình bày gợi ý hướng dẫn
học sinh phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ ở một số tiết Đọc
văn, một số tiết thực hành Tiếng Việt ở chương trình Ngữ văn 10 và một số
tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11.
B. NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
1. Về khái niệm “biện pháp tu từ” tiếng Việt:
Ở nước ta, các tên gọi tu từ, tu từ học xuất hiện khá muộn, vào thập niện
50 của thế kỉ XX. Trước đấy có nhiều tên gọi: “Phép làm văn”, “Mĩ từ pháp”,
“Văn thể học” ...cũng có nội hàm tương đương tu từ học. Tu từ có nghĩa là
phép làm đẹp từ, cách sử dụng từ có sự trau chuốt, sửa chữa và sáng tạo (tu:
sửa chữa, trau dồi; từ: lời nói, ngôn từ). Ngày nay khái niệm “tu từ học” vừa
dùng để chỉ bộ môn Tu từ (hay Mĩ từ pháp) cổ điển để phân biệt với “Phong
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 7
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
cách học” hiện đại, vừa có thể gọi tên một bộ phận cấu thành Phong cách
học.
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất ý kiến khi dạy học tu từ, nhất
là đối tượng học sinh phổ thông, nên thống nhất các khái niệm phương tiện
và biện pháp tu từ gọi chung là “biện pháp tu từ” hoặc là “phép tu từ”. Đây
cũng là quan điểm của những tác giả biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn cải
cách. Ở chương trình Ngữ văn THCS, các tác giả dùng khái niệm “biện pháp
tu từ”, ở chương trình Ngữ văn THPT chuẩn, các tác giả dùng khái niệm
“phép tu từ”, ở chương trình Ngữ văn THPT nâng cao, các tác giả dùng khái
niệm “biện pháp tu từ”. Chúng tôi đi theo quan điểm này, thống nhất gọi
chung các cách sử dụng ngôn ngữ có sắc thái tu từ là các “biện pháp tu từ”
(hoặc các “phép tu từ”). Các biện pháp tu từ được hiểu “là những cách thức,
những hình thức diễn đạt bóng bẩy, gợi cảm nhằm nâng cao hiệu lực của
ngôn ngữ” [2, tr 238].
Dựa vào các cấp độ của ngôn ngữ có thể phân chia các biện pháp tu từ
thành các biện pháp tu từ ngữ âm, các biện pháp tu từ từ vựng – ngữ nghĩa,
các biện pháp tu từ ngữ pháp, các biện pháp tu từ văn bản.
Trên cơ sở thống nhất khái niệm đó, giáo viên và học sinh phổ thông sẽ có
nhiều thuận lợi trong việc nghiên cứu, học tập và tìm ra được phương pháp
hiệu quả nhất để “rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của của các
biện pháp tu từ”, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn chương.
2. Một số biện pháp tu từ tiếng Việt cấp độ từ vựng – ngữ nghĩa:
2.1. So sánh “là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có
nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt” .
2.2. Ẩn dụ tu từ “là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện
tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho
sự diễn đạt”.
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 8
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
2.3. Hoán dụ tu từ “là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm này bằng tên
của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm
tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt”.
2.4. Tượng trưng (học sinh chưa được học lí thuyết ở phổ thông) “là
những ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ dùng nhiều lần, dùng phổ biến, trở nên
quen thuộc đối với mọi người, đến mức hễ nhắc đến nó ai cũng hiểu thống
nhất về nội dung biểu hiện của nó”. Khác với ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ
còn giữ nguyên dấu ấn cá nhân, tượng trưng mang tính ước lệ xã hội. Chẳng
hạn tùng, cúc, trúc, mai là những biểu tượng cho người quân tử trong xã hội
ngày xưa. Ước lệ tượng trưng là đặc điểm của thơ trung đại.
2.5. Phép điệp “là biện pháp tu từ lặp lại một yếu tố diễn đạt (vần, nhịp,
điệu, từ, cụm từ, câu) nhằm nhấn mạnh, biểu đạt cảm xúc và ý nghĩa, có
khả gợi hình tượng nghệ thuật”. Hiệu quả tu từ của phép điệp là: cộng
hưởng, tạo âm hưởng; nhấn mạnh ý nghĩa đối tượng; khắc sâu dễ hiểu, dễ
nhớ.
2.6. Phép đối lập (học sinh chưa được học lí thuyết ở phổ thông) “là biện
pháp tu từ đặt cho cân xứng vào vị trí những từ ngữ có âm thanh và có ý nghĩa
đối chọi lẫn nhau để tạo sự hài hòa cân đối về ý nghĩa, hay nhạc điệu câu
văn, đoạn văn.” (Nguyễn Thái Hòa) [7, tr 173]. Cần phân biệt cho học sinh
phép đối với câu đối, là một thể văn ngắn gồm hai câu sử dụng phép đối,
vừa có tính chất văn chương vừa có tính trang trí. Phép đối trong nội bộ câu
gọi là tiểu đối, phép đối giữa hai câu trở lên gọi là bình đối, mở rộng đến
phép đối trong bố cục. Phép đối được dùng phổ biến trong thơ xưa, nhất là
thơ Đường luật bát cú.
2.7. Tương phản hay còn gọi là phép nghịch nghĩa, nghịch ngữ, hay phản
ngữ (học sinh chưa được học lí thuyết ở phổ thông) “là phương thức dùng
nghĩa trái ngược để chỉ một sự thật chứa đựng mâu thuẫn” (Đỗ Hữu Châu)
[1, tr 216]. Trong thực tế nhiều lúc học sinh không phân biệt đâu là “đối
lập”, đâu là “tương phản. Có người gọi chung bằng khái niệm là phép đối
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 9
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
lập – tương phản. Tuy nhiên “tương phản” có cấu trúc tổ chức ngôn ngữ
hoàn toàn khác so với “đối lập”. Tương phản nghiêng nhiều về đối chọi ngữ
nghĩa hơn là hình thức.
2.8. Nói quá “là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của
sự vật, hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức
biểu cảm.”
2.9. Nói giảm nói tránh “là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị,
uyển chuyển, tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô
tục, thiếu lịch sự.”
3. Tu từ với sáng tạo và cảm thụ văn chương:
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của
văn học. Ngôn ngữ của tác phẩm văn học là ngôn ngữ của đời sống, ngôn
ngữ của toàn dân nhưng đã được nâng lên đến trình độ nghệ thuật, nghĩa là
ngôn ngữ toàn dân đã được trau dồi, mài giũa, tinh luyện mà thành. Để có
những tác phẩm văn chương giá trị, bao người nghệ sĩ ngôn từ vô cùng vất
vả, công phu, đúng như nhà thơ Nga đã nói: “ Phải phí tốn ngàn cân quẵng
chữ Mới thu về một chữ mà thôi Những chữ ấy làm cho rung động Triệu
trái tim trong hàng triệu năm dài” (Maiacốpki)
Nghệ thuật ngôn từ có sức mạnh kì diệu đối với tâm hồn con người. “Cái
làm nên kì diệu của ngôn ngữ đó chính là các phương tiện và biện pháp tu từ
” (Đinh Trọng Lạc) [12, tr 4]. Các đơn vị ngôn ngữ của mỗi dân tộc là có
hạn, chính sự vận dụng một cách sáng tạo, độc đáo ngôn từ của mỗi cá nhân
đã làm phong phú thêm cho vốn ngôn ngữ. “Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
trong tác phẩm văn học trước hết là nghệ thuật sử dụng từ ngữ”[5, tr 15].
Người nghệ sĩ trước hết phải có vốn từ dồi dào nghĩa là phải tích cực thâm
nhập vào đời sống để đãi cát tìm vàng. “Người nghệ sĩ không thể ngồi bóp
óc nghĩ cách trau dồi câu chữ mà đi vào thực tế đời sống mới bồi bổ được
chữ nghĩa cho ngòi bút” (Tô Hoài). Khi mảnh đất ngôn từ đã màu mỡ nhưng
người nghệ sĩ chưa có được cách gieo trồng hiệu quả, cũng chưa thể có
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 10
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
được mùa bội thu. “Tác phẩm đã có sự phong phú về vốn từ sẽ càng giàu có
thêm nhờ các biện pháp khai thác ngữ nghĩa” [5, tr 15]. Như vậy có thể
khẳng định rằng, tu từ là một trong những phương diện quan trọng nhất thể
hiện sự sáng tạo của người nghệ sĩ và góp phần quan trọng tạo nên giá trị
của một tác phẩm văn chương. Nói cách khác “vận dụng hiệu quả các biện
pháp tu từ là một trong những con đường chủ yếu của nhà văn để có một tác
phẩm giá trị”.
Chính vì thế, có thể nói việc phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp
tu từ là một chìa khóa vàng để thâm nhập và cảm thụ một tác phẩm văn học.
Những đòi hỏi ở một giáo viên ngữ văn là rất lớn: khả năng cảm thụ, khả
năng diễn đạt, khả năng hướng dẫn. Vì vậy những hiểu biết về tu từ học,
về phong cách học là cơ sở quan trọng chuẩn bị cho sự thành công của giáo
viên khi đứng lớp.
Đối với học sinh, muốn ‘thưởng ngoạn” tốt một tác phẩm văn chương,
không còn cách nào khác là phải trang bị đầy đủ, rèn luyện tốt những kĩ năng
phân tích ngôn ngữ. Có thể nói đọc một tác phẩm thấy hay nhưng không biết
hay chỗ nào, vì sao hay (tức là không biết nhà văn đã sử dụng biện pháp ngôn
ngữ gì, không hiểu được hiệu quả của phương thức tu từ nào được sử dụng)
nghĩa là chỉ mới khám phá được một nửa giá trị của tác phẩm.
Vì vậy, muốn học tốt môn Ngữ văn, học sinh phải hiểu biết chắc chắn và
có kĩ năng phân tích hiệu quả biểu đạt của các biện pháp tu từ. Đây là điều
kiện cần đối với học sinh phổ thông nói riêng và đối với độc giả nói chung.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Dạy học tu từ ở chương trình Ngữ văn trong trường phổ thông:
1.1. Mục tiêu về dạy học tu từ ở THCS là: hiểu và nhận diện được, có kĩ
năng phân tích được giá trị tu từ, bước đầu biết cách vận dụng. Ở bậc
THPT, học sinh không học về lí thuyêt nhưng được luyện tập về một số
biện pháp tu từ. Mục tiêu của việc dạy học tu từ ở THPT là: nhận diện tốt,
có kĩ năng phân tích tốt giá trị biểu đạt trong cảm thụ văn chương, biết vận
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 11
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
dụng sáng tạo các biện pháp tu từ. Như vậy, yêu cầu về phân tích hiệu quả
và vận dụng các biện pháp tu từ đối với học sinh THPT là rất cao.
1.2. Tổng quan các biện pháp tu từ ở chương trình Ngữ văn ở trường phổ
thông:
Số
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
Biện pháp tu từ
So sánh
Nhân hóa
Ân dụ
Hoán dụ
Điệp ngữ
Chơi chữ
Liệt kê
Nói quá
Nói giảm nói tránh
Tổng kết về từ vựng
(một số phép tu từ từ
vựng)
Ẩn dụ, hoán dụ (thực
hành)
Phép điêp, phép đối (thực
hành)
Ẩn dụ, nói giảm
nói tránh, nói quá (thực
hành)
Khối
lớp
6
6
6
6
7
7
7
8
8
CT
9
10
10
10
Chuẩ
n
Chuẩ
n
Nâng
cao
Số
tiết
2
1
1
1
1
1
1
1
1
tuần
Trang
19, 21
22
23
24
13
14
28
9
10
24, 41
56
68
82
152
163
104
101
107
½
11
147
1
15
135
1
31
124
1
14
178
1.3. Nhận xét từ việc hệ thống nội dung dạy học tu từ ở trường phổ
thông:
Vai trò quan trọng của tu từ đối với sáng tạo và cảm thụ văn chương là
không cần bàn cãi, 10 biện pháp tu từ được đưa vào chương trình Ngữ văn
phổ thông cũng đã khẳng định điều đó. Tuy nhiên, với tổng cộng trên dưới 13
tiết trực tiếp dành cho học lí thuyết và thực hành các biện pháp tu từ là quá
khiêm tốn so với chương trình Ngữ văn trường phổ thông.
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 12
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
Việc đưa các biện pháp tu từ cơ bản vào chương trình lớp 6, lớp 7 là một
quan điểm đúng đắn, cần phải sớm tạo cho học sinh kiến thức và kĩ năng
ngôn ngữ cần thiết để có thể cảm thụ văn chương và vận dụng ngôn ngữ
hiệu quả. Nhưng vấn đề đặt ra là với ý thức, vốn sống, vốn văn học, khả
năng tư duy của độ tuổi này, để nắm vững những kiến thức về các biện
pháp tu từ khó như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ ... rõ ràng là không phải dễ đối
với học sinh. Trong khi đó thời lượng trực tiếp dành cho nội dung tu từ là quá
ít. Ngoài những tiết học lí thuyết, học sinh THCS hầu như không có giờ thực
hành về các biện pháp tu từ. Lớp 9, học sinh chỉ có một tiết tổng kết về từ
vựng và cũng chỉ còn một nửa thời lượng dành cho các biện pháp tu từ. Chính
vì vậy, khi lên bậc THPT, một bộ phận không nhỏ học sinh đã quên đi kiến
thức và yếu về kĩ năng phân tích tu từ trong cảm thụ văn chương cũng như
trong vận dụng ngôn ngữ.
Đương nhiên với quan điểm dạy tích hợp, các kiến thức về Tiếng Việt
phải được vận dụng để học tốt một giờ đọc văn. Tuy nhiên do áp lực của
tiết học, không phải lúc nào giáo viên cũng khai thác hết được hiệu quả của
các biện pháp tu từ. Học sinh buộc phải nắm vững kiến thức về tu từ và có ý
thức, có phương pháp rèn luyện thường xuyên mới đáp ứng được yêu cầu.
2. Một vài nhận xét từ kết quả điều tra thực tế về khả năng phân
tích và vận dụng các biện pháp tu từ của học sinh phổ thông:
2. 1. Để có một cái nhìn khái quát và chắn chắc về mức độ hiểu biết và
khả năng vận dụng các biện pháp tu từ của học sinh khi vào lớp 10, tôi đã
tiến hành điều tra thực tế tại một số lớp ở một số trường trên địa bàn thị xã
như sau: lớp 7A, lớp 8B, lớp 9C, trường THCS Trần Phú, thị xã Gia Nghĩa
(20152016); lớp 10A2, lớp 11A5 trường THPT Chu Văn An (20152016).
Mẫu phiếu điều tra: (Phụ lục 01)
Phiếu điều tra học sinh khối lớp khác cũng theo các cấp độ: nắm khái
niệm, nhận biết, phân tích hiệu quả biểu đạt và vận dụng các biện pháp tu
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 13
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
từ như mẫu trên, nhưng có thay đổi cứ liệu cho phù hợp với trình độ học
sinh.
2. 2. Kết quả điều tra theo mẫu: (Phụ lục 02)
Bảng thống kê kết quả điều tra vào đầu năm học như sau:
Lớp
7
8
9
10
11
Khái niệm
89,3 %
72,6 %
67,2 %
70, 3 %
63,5 %
Nhận biết
85,2 %
78,6 %
80,4 %
60,5 %
62,5 %
Phân tích giá trị
43,1 %
45,4 %
56,3 %
52,4 %
56,7 %
Vận dụng
41,2 %
43 %
53,6 %
46,8 %
45,2 %
Mặc dù kết quả điều tra ở trên chỉ có tính tương đối (bởi lẽ phần
nhiều câu hỏi điều tra theo hình thức trắc nghiệm) nhưng rõ ràng nó cũng đã
nói lên được phần nào thực trạng hiểu biết, kĩ năng phân tích và khả năng
vận dụng các biện pháp tu từ của học sinh khi vào lớp 10.
Trên cơ sở đó, chúng tôi có nhận định sau đây: Thực tế điều tra cho
thấy, một bộ phận không nhỏ học sinh các lớp 8, lớp 9 còn mơ hồ về các
biện pháp tu từ. Tình hình này diễn ra tương tự khi các em lên lớp 10, thậm
chí là những hiểu biết cơ bản về các biện pháp tu từ của học sinh lớp 10 đã
giảm đi so với học sinh THCS. Sự nhầm lẫn các biện pháp tu từ, không phân
tích được giá trị biểu đạt của chúng hoặc là không nhận diện được các biện
pháp tu từ khá phổ biến. Khi cảm thụ và phân tích tác phẩm văn học, học
sinh thường rơi vào bệnh suy diễn chủ quan, không có cơ sở ngôn ngữ và
thường bị tắc ý.
Tóm lại, thực tế điều tra và đứng lớp đã cho thấy một bộ phận không
nhỏ học sinh mới vào lớp 10 không nắm vững kiến thức về các biện pháp tu
từ, nhất là học sinh của những trường có đầu vào thấp... Trong khi đó, yêu
cầu học văn của chương trình THPT là rất cao: cảm thụ và sáng tạo. Nếu
không trang bị tốt về ngôn ngữ, học sinh sẽ không có năng lực cảm thụ cũng
như sáng tạo. Rèn luyện kĩ năng vận dụng ngôn ngữ là công việc thuờng
xuyên, lâu dài, mới mong có kết quả. Vì vậy không còn cách nào khác là
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 14
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
phải khôi phục lại kiến thức tu từ cho học sinh khối 10 và dần dần giúp các
em rèn luyện kĩ năng.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ
cho học sinh lớp 10:
1.1. Củng cố kiến thức về một số biện pháp tu từ cho học sinh lớp 10:
Tình hình thực tế đã nói ở trên đặt ra yêu cầu cho giáo viên là phải khôi
phục lại kiến thức và kĩ năng về tu từ cho học sinh ngay khi vào lớp 10. Vì
thế tôi lập ra một kế hoạch cũng cố kiến thức và kĩ năng về các phép tu từ
cho học sinh lớp 10 bằng cách lồng ghép vào các giờ đọc văn hoặc làm văn
một cách thường xuyên để hình thành nên ý thức và thói quen rèn luyện cho
học sinh. Tôi chú trọng vào những vấn đề chủ yếu sau đây:
Tập trung hướng dẫn học sinh nắm vững một số biện pháp tu từ khó
hoặc dễ bị nhầm lẫn như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, phép điệp, phép đối lập
và tương phản. Muốn nắm vững biện pháp ẩn dụ, trước hết học sinh phải
nắm vững biện pháp so sánh; muốn hiểu rõ hoán dụ phải đối chiếu với ẩn
dụ.
Qui trình của việc phân tích hiệu quả của một biện pháp tu từ nói
chung: Phát hiện vị trí ngôn ngữ có sử dụng tu từ Nhận diện chính xác
biện pháp tu từ Thử thay thế bằng cách diễn đạt trung tính, không có màu
sắc tu từ Huy động kiến thức về tu từ và vốn sống để phân tích giá trị của
cách sử dụng tu từ đó Rút kinh nghiệm về cách sử dụng tu từ của tác giả.
Sơ đồ qui trình phân tích một số biện pháp tu từ: (Phụ lục 03)
1.2. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ
trong một số tiết đọc văn:
Trong những giờ đọc văn ngay từ đầu năm học, tôi sẽ lồng ghép cho học
sinh lớp 10 những kiến thức và rèn luyện kĩ năng về các biện pháp tu từ, nhất
là những đơn vị bài học có sử dụng đậm đặc các biện pháp tu từ như ca dao,
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 15
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
thơ Haicư, truyện thơ trung đại (Kiều, Chinh phụ ngâm). Các biện pháp tu
từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ được phân tích theo qui trình thống nhất.
Ví dụ 1: Bài “Ca dao yêu thương tình nghĩa” (Ngữ văn 10 nâng cao)
Câu (4); “ Khăn thương nhớ ai (...) Lo vì một nỗi không yên một bề”
Hướng dẫn học sinh tìm những biện pháp tu từ nổi bật trong bài ca dao:
Phép điệp: điệp từ (khăn, thương nhớ, đèn, mắt, lo), điệp cấu trúc câu:
C – V + Bổ ngữ, điệp vần (ai, ắt). Hiệu quả nhấn mạnh tâm trạng nhớ
mong, nỗi nhớ thường trực, tạo âm điệu triền miên, day dứt, dễ thuộc, dễ
hiểu.
Các biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ được vận dụng trong bài:
Bước
A
B
(ẩn đi)
(hiển thị trên câu chữ)
con người (chủ sở hữu)
1+2
khăn (vật sở thuộc)
Biện pháp
hoán dụ
con người thao thức (sự đèn (dấu hiệu của sự
hoán dụ
vật)
vật)
con người (toàn thể)
mắt (bộ phận)
hoán dụ
có tính nhân
hóa
Đối đáp với đồ vật (khăn, đèn)
3
Thay thế cách nói trực tiếp: ý lộ rõ, thô, lại nhiều lần sẽ vụng,
diễn đạt một lần không hết ý
4
Khăn (vắt vai, rớt xuống ...) tâm trạng đứng ngồi không yên, bổi
hổi bồi hồi, không chủ định; đèn (không tắt) giải bày thao thức;
mắt không ngủ được, trằn trọc suốt đêm
5
Cách nói bóng gió, duyên dáng, tế nhị, đồng thời bộc lộ tinh tế
những cung bậc, tâm trạng của tình yêu, tô đậm nỗi nhớ thương
dằng dặc của cô gái
Câu (5): “Cây đa cũ, bến đò xưa Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ”
Bướ
c
A
(ẩn đi)
B
(hiển thị trên câu
chữ)
1 + 2 người ở lại (cố cây đa, bến cũ
định)
Biện pháp
tương đồng ẩn
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 16
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
người đi (di động)
dụ
bộ hành
gian khó, lâu dài (đối nắng mưa (dấu hiệu
tương cận hoán dụ
tượng)
của đối tượng)
3
Thay bằng cách nói trực tiếp A: chỉ có giá trị cụ thể, không có tính
khái quát, không có tính hình tượng, không tạo được tình cảm gần
gũi, thân thương
4
Cây đa, bến cũ là những hình ảnh thân quen của đời sống người
Việt, gợi xúc động, nắng mưa là biểu hiện của sự gian khổ, đợi
chờ, những hình ảnh này đều gợi được sự thủy chung, son sắt của
người ở lại.
5
Cách nói bóng gió, kín đáo, sâu sắc, phù hợp với tâm lí người Việt
đồng thời có giá trị phổ quát, đúng với nhiều trường hợp
Ví dụ 2 : Bài “Ca dao than thân” (Ngữ văn 10 nâng cao)
Câu hỏi 4(SGK): Liệt kê những hình ảnh so sánh, ẩn dụ trong chùm ca
dao. Cho học sinh xác định vị trí ngôn ngữ có sử dụng tu từ, sau đó xác định
A:
Câu
A
thân em
1
5
giếng giữa đàng ....
Biện pháp
so sánh
ẩn dụ
so sánh
thân phận người phụ người khôn... người
ẩn dụ
nữ
phàm...
Bướm vàng, đọt mù u
ẩn dụ
Sợ mẹ, sợ cha
biển, trời
so sánh
tình cảm (của anh)
mây bạc
ẩn dụ
con cò (toàn bài)
tượng trưng
3
4
tấm lụa đào .....
thân phận người phụ
phất phơ giữa chợ ...
nữ
thân em
2
B
(chết) vinh dự, trong
sạch
(xáo) nước trong
(chết) nhục nhã, hèn (xáo) nước đục
kém
ẩn dụ
Trên cơ sở hiểu được cơ chế các phép tu từ, học sinh rút ra giá trị biểu
đạt.
Ví dụ 3: Bài “Nỗi thương mình” (Kiều – Nguyễn Du)
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 17
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
Phép đối được sử dụng phép tiểu đối (nội bộ) câu và bình đối (đối giữa
hai câu) gần như xuyên suốt cả đoạn thơ: khắc sâu sự đau đớn, dày vò giữa
hiện tại và quá khứ ... của Kiều
Phép điệp gồm: điệp từ (mình, khi, sao, thân...), điệp cụm, điệp cấu trúc
được dùng dày đặc, tạo âm điệu triền miên, da diết, sự dằng xé nội tâm ....
Hoán dụ: cuộc say, trận cười, phong gấm rủ là, dày gió, dạn sương và
ẩn dụ: bướm lả, ong lơi, lá gió cành chim, hoa giữa đường, bướm chán, ong
chường (gợi đến hoa tàn nhụy rữa)...đã đặc tả nỗi đau khổ bị vùi dập của
Kiều.
Rõ ràng chính các biện pháp tu từ đã góp phần đắc lực thể hiện sâu sắc
giá trị nội dung tư tưởng của đoạn trích.
1.3. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu
từ trong một số tiết thực hành Tiếng Việt:
Ví dụ : Bài “Thực hành phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ” (Ngữ văn 10
chương trình chuẩn, tập 1)
Yêu cầu để đạt được mục tiêu: học sinh đã được khôi phục những kiến
thức cơ bản về các biện pháp tu từ này qua những giờ văn trước đó và tích
cực chuẩn bị chu đáo bài tập ở nhà. Tiến hành phân tích theo qui trình thống
nhất được sơ đồ hóa, học sinh thực hiện theo sự chuẩn bị, giáo viên định
hướng:
* Luyện tập về ẩn dụ (Phụ lục 04)
* Luyện tập về hoán dụ: (Phụ lục 05)
* Hướng dẫn phân biệt ẩn dụ và hoán dụ:
Điểm giống nhau: đều là cách gọi tên sự vật này bằng sự vật khác, trong
ẩn dụ và hoán dụ có một vế (đối tượng) bị ẩn đi (đây là vấn đề làm cho học
sinh dễ nhầm lẫn hoặc khó xác định ẩn dụ và hoán dụ)
Điểm khác nhau:
Ẩn dụ
Hoán dụ
Dựa trên liên tưởng tương đồng (có Dựa trên liên tưởng tương cận (gần
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 18
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
nét giống hoặc gần giống của các gũi đi đôi với nhau trong thực tế của
đối tượng)
đối tượng)
So sánh ngầm
Không so sánh mà hoán đổi vị trí,
thay thế nhau
Không chuyển đổi trường nghĩa,
Thường có sự chuyển nghĩa
cùng một trường nghĩa
* Rèn luyện vận dụng ẩn dụ và hoán dụ: (sẽ trình bày ở phần sau)
Do áp lực của chương trình học, những kiến thức về tu từ đã nói ở trên rõ
ràng không dễ nắm vững ngay đối với học sinh lớp 10. Nhưng nếu không
nắm vững chúng, học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn trong cảm thụ văn chương
và sử dụng ngôn ngữ, nhất là đối với những học sinh chuyên văn. Những
kiến thức này sẽ được tiếp tục củng cố cho học sinh khi lên lớp 11.
2. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu
từ cho học sinh lớp 11 qua một số tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại:
2.1. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, điệp ngữ trong “Vội vàng” Xuân
Diệu:
Thơ mới chịu nhiều ảnh hưởng thuyết tương giao của Bôđơle
(Baudelaire) và lối thơ tượng trưng của Pháp, mà “môn đồ” xuất sắc nhất
của thuyết tương giao trong các nhà thơ mới chính là Xuân Diệu. “Vội vàng”
là một bài thơ tiêu biểu cho “tâm hồn khát khao giao cảm với đời” của Xuân
Diệu và cũng là bài thơ tiêu biểu cho nghệ thuật tương giao trong thơ ông.
Biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác và ẩn dụ tượng trưng được
nhà thơ vận dụng sáng tạo, độc đáo.
“Vội vàng” là dòng cảm xúc hối hả, tuôn trào nhưng vẫn thể hiện được
mạch triết lí, triết luận sâu sắc, thể hiện cả một quan niệm nhân sinh về lẽ
sống vội vàng với bố cục khá rõ ràng. Bố cục ấy có thể khái quát bằng sơ đồ
sau:
(Mạch cảm xúc ào ạt tuôn trào)
I II III
ong bướm mùa xuân tuổi trẻ ôm chếnh choáng
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 19
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
Này đây lá hoa # tuần hoàn >< không thắm lạiMuốn riết cho đã đầy cắn
yến anh, vô hạn hữu hạn say no nê
thâu
* Phát hiện một thiên * Giật mình nhận ra * Hãy sống bằng tất cả các
đường trần thế với qui luật nghiệt ngã quan, không bỏ phí một
mùa xuân, tình yêu của thời gian, cái hữu phút giây tận hưởng
và tuổi trẻ hạn của đời người
Sung sướng Băn khoăn, tiếc nuối Giục giã, vội vàng
Muốn tắt nắng, buộc gió làm ngưng đọng thời gian Chỉ còn một cách: tăng tốc
độ, cường độ sống
Nhưng không thể được Sống đủ đầy trong mỗi phút giây
(Triết lí sống vội vàng)
Trong từng đoạn thơ, Xuân Diệu đã sử dụng những biện pháp tu từ hợp
lí và sáng tạo, góp phần thể hiện sâu sắc chủ đề tư tưởng. Cần gợi ý cho
học sinh phân tích hiệu quả của những biện pháp tu từ nổi bật.
2.1.1 Khổ đầu bài thơ,
Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã được phát huy hiệu quả: “Tôi muốn tắt
nắng đi”, “Tôi muốn buộc gió lại”. Quả thật là những ước muốn khác
thường. Cách nói tắt nắng, buộc gió đã gây được cảm giác mới lạ cho
người đọc. Vì sao thi nhân lại có những khát vọng mà thoạt nhìn ngỡ như kì
dị vậy: “tắt nắng” và “buộc” gió để sắc hương cuộc đời đừng phai nhạt?
Tất cả đều xuất phát từ một lòng yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt.
2.1.2. Đoạn thơ: “ Của ong bướm ........ nhưng vội vàng một nửa”
Biện pháp tu từ điệp ngữ: “này đây” được điệp năm lần, diễn tả sự
sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì
nhiều quá, đẹp quá nên nói một lần không xuể. Nhà thơ phát hiện có một
thiên đường sự sống ngay trên mặt đất, ngay trong tầm tay của mỗi người.
Này đây, hiện hữu ngay đây, sao con người ta cứ mãi tìm niềm vui mãi tận
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 20
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
đâu đâu chốn bồng lai ảo mộng. “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai
nấy về hạ giới” (Hoài Thanh).
Phép liệt kê và nhân hóa cùng với giọng điệu say mê, hình ảnh giàu sức
sống đã gợi lên trước mắt người đọc bộ dạng, tâm hồn một người thanh
niên đang dang tay ngạc nhiên, ngơ ngác mà vui sướng giữa vườn đời đẹp
quá. “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” xứng đáng là câu thơ
thuộc vào những câu tuyệt bút của thơ hiện đại. Đọc câu thơ nghe hay,
nhưng vì sao nó hay? Nếu không nắm vững ngôn ngữ, học sinh rất dễ diễn
xuôi một cách chủ quan thiếu cơ sở, hoặc nói theo, nói lại người khác,
không có sự sáng tạo. Câu thơ trên vừa thể hiện niềm yêu đời mãnh liệt,
vừa thể hiện một quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, đồng thời chứng tỏ được tài
vận dụng ngôn từ của Xuân Diệu. Trước hết câu thơ ấy sử dụng ít nhất là
hai biện pháp tu từ: so sánh và ẩn dụ. Độc đáo chính là phép ẩn dụ. Tháng
giêng là khái niệm trừu tượng chỉ thời gian, ngon là khái niệm chỉ cảm giác
cụ thể. Vậy đây là ẩn dụ tượng trưng. Nhưng “tháng giêng ngon như một
cặp môi gần”. Cặp môi gần gợi xúc giác, trong khi ngon là vị giác. Ở đây đã
có sự chuyển đổi cảm giác tức là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Sự kết hợp
hai kiểu ẩn dụ này có khả năng dựng cảm giác mạnh trong cảm xúc người
đọc. Những cảm giác thật mới, thật lạ. Đây là câu thơ rất Xuân Diệu. Hình
ảnh thơ rất táo bạo, sáng tạo, thể hiện độc đáo vẻ đẹp diệu kì của trần
gian. Đó là vẻ đẹp vừa gần gũi, vừa xa vời, vừa có tính nhục thể, vừa vô
cùng trong trắng, tinh khôi. Có thể nói rằng cả phép tương giao và lối thơ
tượng trưng được Xuân Diệu vận dụng tài tình. Câu thơ có sự kết hợp hòa
quyện giữa mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu: tháng giêng ngọt ngào như đôi
môi đang giao hòa trong tình yêu say đắm.
Đem tháng giêng mà so sánh với cặp môi gần thì quả là trước Xuân Diệu
không ai nghĩ ra. Bởi lẽ ở đây có sự chi phối của tư duy thơ và như quan
niệm thẩm mĩ. Thi nhân xưa thường tư duy theo khuôn mẫu có sẵn, thơ xưa
lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp (giáo viên cần dẫn chứng). Xuân
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 21
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
Diệu đã thay đổi quan niệm thẩm mĩ cho thơ ca: với thi nhân, con người với
tuổi trẻ và tình yêu, mà nhất là người thiếu nữ là chuẩn mực cho mọi vẻ
đẹp, là thước đo thẩm mĩ của vũ trụ. Với cách cảm và cách nghĩ như vậy,
Xuân Diệu đã tạo nên một lối tư duy thơ rất hiện đại, nhà thơ đã nhìn đời
bằng con mắt “mĩ lệ hóa”, “mĩ nhân hóa”. Qua cái nhìn tình tứ ấy, nên thiên
nhiên thường hiện ra với vẻ đẹp xuân tình. Tâm hồn say đắm của thi nhân
đã làm sống dậy nét quyến rũ, tình tứ, vẻ đẹp diệu kì, tươi nguyên ngay
trong những cảnh sắc quen thuộc.
2.1.3 Đoạn thơ: “Xuân đương tới .,. mùa chưa ngả chiều hôm”.
Một hệ thống hình ảnh tương phản: tớiqua, nongià, hếtmất, rộng
chật, tuần hoàn chẳng hai lần, vô hạn hữu hạn... và phép tiểu đối góp
phần khẳng định một chân lý triết lý: đời người quí nhất là tuổi trẻ, mà tuổi
trẻ ngắn ngủi, mong manh, đời người lại hữu hạn. Xuân Diệu đã không
đồng tình người xưa, thời gian của đời người là tuần hoàn, đi rồi trở lại.
Với Xuân Diệu, thời gian là tuyến tính. Thời gian là dòng chảy xuôi chiều,
một đi không trở lại, mỗi khoảnh khắc trôi quan là mất đi vĩnh viễn. Quan
niệm này xuất phát từ cái nhìn biện chứng về vũ trụ, về thời gian: Xuân
đương tới nghĩa là xuân đương qua. Xuân Diệu lấy cái quỹ thời gian hữu
hạn của sinh mệnh cá thể ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí lấy
quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh con người là tuổi trẻ để
làm thước đo. Điều đau đớn nhất là cái quí giá của đời người đang từng
giây, từng phút mất đi, mất đi vĩnh viễn. Phép đối lập và tương phản đã
giúp cho đoạn thơ thể hiện rõ chất triết lí, thể hiện một cái nhìn biện chứng,
mới mẻ về qui luật thời gian.
Biện pháp nhân hóa được vận dụng đúng chỗ. Nói cảnh vật thiên nhiên
mà là để nói về con người. Với Xuân Diệu hầu như cuộc sống nơi “vườn
trần” đều ít nhiều mang “bi kịch” về thời gian. Cũng là “gió”, là “chim”…
nhưng gió “thì thào” vì “hờn”, “chim” bỗng ngừng hót, ngừng rao vì “sợ”!
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 22
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
Biện pháp chuyển đổi cảm giác lại phát huy tác dụng để tạo nên một thế
giới tương giao đang diễn ra trong chính tâm hồn thi sĩ. Trong một câu thơ mà
cảm giác được được chuyển đổi liên tục qua nhiều kênh khác nhau: “Mùi
tháng năm đều rớm vị chia phôi”. “Mùi” là khứu giác, “tháng năm” là khái
niệm chỉ thời gian, ở đây có ẩn dụ tượng trưng. Xuân Diệu đã cảm nhận
thời gian bằng mùi hương. Thảo nào ông muốn “buộc gió” lại. Chữ rớm gợi
cho ta hình dung những giọt lệ, chia li nên “rớm” lệ. Vậy đó là thị giác.
Nhưng rớm vị thì là chưa nghe, chưa thấy bao giờ. Cảm giác đã chuyển đổi
qua vị giác, một mùi vị vô hình lạ kì, “vị chia phôi”. Hóa ra chia phôi đối với
Xuân Diệu cũng là một khoảnh khắc quí giá để mà hưởng thụ, và với một
giác quan thì chưa đủ độ ham muốn, ông đã dùng tất cả giác quan có thể của
mình để sống. Ở câu thơ này đã có sự giao thoa kì lạ giữa khứu giác, thị
giác và vị giác. Những câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật nghịch
lí giữa mùa xuântuổi trẻ và thời gian.
Ta bỗng hiểu sâu sắc vì sao tâm hồn thi nhân bỗng ngông cuồng muốn níu
giữ tạo hóa, muốn “tắt nắng”, “buộc gió”, làm những việc xưa nay chưa
từng thấy ai làm. Và đương nhiên, cái tôi khát vọng đời sống trần thế dĩ
nhiên không chịu sự lừa dối. Vậy thì làm thế nào để cho mỗi khoảnh khắc
cuộc đời không bị mất đi một cách uổng phí. Chỉ còn một cách khả thi nhất
là chạy đua với thời gian, phải tăng tốc độ, cường độ sống, sống sao cho đủ
đầy nhất trong từng đơn vị thời gian.. Đó là cơ sở của triết lí sống vội vàng
Xuân Diệu.
2.1.4 Đoạn thơ cuối:
Để diễn tả sự cuống quít, hối hả của lòng ham sống, khát khao giao cảm,
Xuân Diệu đã sử dụng dày đặc biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác với
những kết hợp từ mới lạ (ôm sự sống, riết mây, gió, say cánh bướm, thâu
trong một cái hôn nhiều, chếnh choáng mùi thơm, đã đầy ánh sáng, no nê
thanh sắc, cắn ... xuân) và ẩn dụ tượng trưng (sự sống mơn mởn, thời tươi,
xuân hồng...). Có lẽ lần đầu đọc đoạn thơ này, học sinh nào nhạy cảm với
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 23
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
ngôn ngữ sẽ có cảm giác choáng ngợp trước dòng thác ngôn từ tuôn ào ạt
như bất tận với những cảm giác cứ đan cài, giao thoa, trộn lẫn vào nhau
không theo một qui luật nào. Nhưng càng đọc ta sẽ càng cảm giác thích thú
bởi cách cảm nhận cuộc sống của nhà thơ mới quá, và quả thật là “Tây” quá,
nhưng mà rất đúng và rất trúng với những tâm hồn nhiều đam mê, khao khát.
Phép tương giao (giữa các giác quan, giữa con người và tạo hóa) được Xuân
Diệu phô diễn độc đáo.
Cùng với biện pháp ẩn dụ, Xuân Diệu đã khai thác triệt để tác dụng của
phép điệp (điệp câu, điệp cụm, điệp từ: ta muốn, cho, ..., điệp cảm xúc),
kèm theo đó là cách liệt kê tăng cấp các động từ cảm giác mạnh: ôm, riết,
thâu, cắn; các tính từ cảm giác: chếnh choáng, đã đầy, no nê; các từ ngữ gợi
tươi tắn, quyến rũ, tình tứ: mơn mởn, rạng, tươi, hồng, cái hôn nhiều... Nhà
thơ tạo nên những làn sóng ngôn từ cộng hưởng nhau theo chiều tăng tiến,
càng lúc càng mạnh và đạt cao trào: ta muốn → cho → ta muốn cắn. Biện
pháp nhân hóa mùa xuân và đặt trong thế đối thoại với con người đã tăng
thêm sức sống cho cảnh vật. Tác giả đã tạo ra những hình ảnh thơ giàu sức
sống, đắm say mãnh liệt. Còn cần phải kể đến giọng điệu cuống quít, hối
hả, vội vã thể hiện một tâm hồn ham sống, giục giã sống ...
Nhưng sống gấp, sống vội vàng không phải là sống ích kỉ mà là sống sao
cho có ý nghĩa nhất trong mỗi khoảnh khắc cuộc đời, không bỏ phí tuổi xuân,
tình yêu và hạnh phúc. Đây là một quan niệm sống tích cực với một tinh thần
nhân văn mới. Bao nhiêu năm sau còn làm cho không ít người ngỡ ngàng!
Xuân Diệu đã sống “vội vàng” như vậy. Xét ở một góc độ nào đấy, chính
quan niệm sống này có thể khơi dậy ở thế hệ thanh niên lúc bấy giờ niềm
ham sống, thoát khỏi tình trạng u tối, chán chường, bi quan, lạc hướng.
Tóm lại, từ những gợi ý phân tích trên, học sinh có thể nhận thấy được
rằng các biện pháp tu từ đóng một vai trò rất quan trọng cho sự thành công
của bài thơ “Vội vàng”. Xuân Diệu đã sử dụng ở mức độ đậm đặc các biện
pháp tu từ và những cấu trúc ngôn từ đầy sáng tạo.
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 24
SKKN : Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông
Thử làm một phép liệt kê các phép ẩn dụ toàn bài thơ “Vội vàng”
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
Ẩn dụ chuyển đổi cảm
TT
Ẩn dụ tượng trưng
giác
tắt nắng
buộc gió
ngon ... cặp môi gần
mùi ...rớm vị chia phôi
đứt tiếng reo thi
ôm sự sống
riết mây đưa, gió lượn
say cánh bướm
thâu trong một cái hôn
chếnh choáng mùi thơm
đã đầy ánh sáng
no nê thanh sắc
cắn ( xuân hồng)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
tuần tháng mật
tháng giêng ngon
vội vàng một nửa
lòng rôi rộng
lượng trời chật
tuổi trẻ ... thắm
mùi tháng năm
sự sống mơn mởn
thời tươi
thanh sắc của thời tươi
xuân hồng
(Nội dung này giáo viên có thể ra yêu cầu học sinh thực hiện ở nhà)
Có thể nói chính sức nặng của nghệ thuật vận dụng ngôn từ độc đáo,
sáng tạo, mới lạ đã làm cho bài thơ hay.
“Vội vàng” cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một
giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn như có chất xúc tác trong
thơ. Cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa, nghệ
thuật tu từ đạt trình độ tinh tế, điêu luyện bậc thầy.
2.2. Thủ pháp đối lập và tương phản trong “Tràng giang” của Huy
Cận:
Đặc trưng của thơ Huy Cận là cảm hứng vũ trụ. Với “Lửa thiêng” (1940),
ông đã thể hiện một hướng đi riêng, độc đáo của thơ mình. Thơ là sự gắn
nối giữa con người và “vũ trụ vừa cao rộng, bí ẩn vừa gần gũi”: “Thơ ơi –
chiếc võng ta treo – đầu theo vũ trụ, đầu theo loài người”. Trước Cách mạng
tháng Tám, thơ Huy Cận thường buồn, đó là một nỗi sấu “man man thiên
cổ”, là cái sầu vũ trụ. Thơ Huy cận vì thế thiên về dựng cảnh không gian,
thời gian (vũ: không gian; trụ: thời gian) và lẽ dĩ nhiên Huy Cận phải sở
trường về các biện pháp đối lập và tương phản. Đối lập và tương phản có
Giáo viên: Phan Phương Lan Trang: 25