Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

SKKN: Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung hoc phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.19 MB, 53 trang )

SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐĂK NÔNG
TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN
­­­­­ ? ­­­­­

Sáng kiến kinh nghiệm

Lĩnh vực: 
Ngữ văn
Tên tác giả: 
Phan Thị Phương Lan
Giáo viên môn : Ngữ văn
Đơn vị công tác: Trường THPT Chu Văn An
.

Gia Nghĩa, tháng 3 năm 2017
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  1


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

MỤC LỤC
                                                                                                                                          

NỘI DUNG
A. MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.


5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.

Trang
1
2
2
2
3

B. NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ.
1. Về khái niệm “biện pháp tu từ” tiếng Việt.
2. Một số biện pháp tu từ tiếng Việt cấp độ từ vựng – ngữ nghĩa.
3. Tu từ với sáng tạo và cảm thụ văn chương.

4
4
4
6

II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.

7

1. Dạy học tu từ ở chương trình Ngữ văn trong trường phổ thông.

7

2. Một vài nhận xét từ kết quả điều tra thực tế về khả năng phân tích 
và vận dụng các biện pháp tu từ của học sinh phổ thông.


8

III. CÁC BIỆN PHÁP ĐàTIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị  biểu đạt của các biện pháp tu từ 
cho học sinh lớp 10.
2. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ 
cho học  sinh lớp 11 qua một số tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
1. Rèn luyện vận dụng ẩn dụ tu từ.
2. Rèn luyện vận dụng  ẩn dụ  chuyển đổi cảm giác và  ẩn dụ  tượng 
trưng.
3. Rèn luyện vận dụng hoán dụ tu từ.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  2

10
10
13
27
27
28
30


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

33

I. KẾT LUẬN.


34z

II. KIẾN NGHỊ.

HỆ THỐNG MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

Trung học cơ sở
Trung học phổ thông

THCS
THPT

Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  3


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

A. MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đề tài:
Các nhà ngôn ngữ học đều thống nhất rằng, vận dụng các biện pháp tu từ 
là một trong những con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả của hoạt động 
giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong văn chương, tu từ  là một trong những cách 
thức quan trọng để thể hiện tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Chính các  
biện pháp tu từ đã làm nên những câu văn hay, những câu thơ hay, những tác  
phẩm hay. Vì vậy mà việc phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ 
là chìa khóa vàng để thâm nhập và cảm thụ tốt một tác phẩm văn học. 

Học sinh được học lí thuyết về  các biện pháp tu từ   ở  bậc THSC. Đây là 
nội dung kiến thức khó, trừu tượng,  ở  lứa tuổi THCS, không phải học sinh  
nào cũng hiểu được một cách sâu sắc bản chất của các biện pháp tu từ, đặc 
biệt là những biện pháp tu từ khó như ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng... Do đó, 
khi lên bậc THPT, hiểu biết về tu từ và nhất là kĩ năng phân tích giá trị biểu  
đạt các biện pháp tu từ của học sinh chưa đáp ứng yêu cầu của bộ môn. Điều 
này rõ ràng làm hạn chế  năng lực cảm thụ  tác phẩm văn học của học sinh. 
Trong khi đó, yêu cầu của việc học văn đối với học sinh bậc THPT là không 
chỉ  dừng  ở  mức độ  cảm thụ  tốt mà còn phải biết vận dụng ngôn ngữ  một  
cách sáng tạo. 
Hình thành cho học sinh kĩ năng phân tích giá trị  biểu đạt của các biện  
pháp tu từ là việc cần thiết. Không nắm vững kiến thức ngôn ngữ, khi phân  
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  4


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

tích một tác phẩm văn chương, học sinh rất dễ  rơi vào bệnh suy diễn chủ 
quan, thiếu cơ sở, không có tính thuyết phục.
“Đối với một giáo viên ngữ văn điều đặc biệt cần thiết là trình độ  phong  
cách chức năng của việc nắm vững ngôn ngữ, là nguồn phương tiện, biện  
pháp tu từ dồi dào, đa dạng của ngôn ngữ… nhanh nhạy trước những sự kiện 
tu từ của ngôn ngữ” [11, tr 324]. Chính vì vậy, nghiên cứu đề tài này giúp tôi 
hoàn thiện thêm những kiến thức về  ngôn ngữ, giúp ích rất nhiều cho việc  
giảng dạy của bản thân, góp phần giúp cho học sinh học tốt bộ  môn Ngữ 
văn. Xuất phát từ  những lí do trên, tôi đã chọn đề  tài  “Rèn luyện kĩ năng 
phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ cho học sinh Trung học phổ 
thông”
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề  tài vận dụng những thành tựu nghiên cứu về  tu từ  học của những  

người đi trước, kết hợp với kinh nghiệm học tập và đứng lớp nhằm tìm ra  
phương pháp hiệu quả nhất để “rèn luyện cho học sinh kĩ năng phân tích giá  
trị biểu đạt của các biện pháp tu từ trong cảm thụ văn chương” theo phương 
châm   “bằng   thực   hành,   thông   qua   thực   hành   và   hướng   tới   thực   hành”. 
Phương pháp rèn luyện của đề  tài này sẽ  giúp ích rất nhiều cho học sinh  
trong việc nâng cao năng lực cảm thụ  văn chương để  học tốt bộ  môn Ngữ 
văn. Thực tế giảng dạy của bản thân tôi đã bước đầu khẳng định điều đó. 
3. Đối tượng nghiên cứu:
Tu từ  là một khái niệm có từ  thời cổ  đại. “Tu từ  học là môn học dạy 
người ta nói, viết đúng, tiến tới nói, viết hay, ra đời trong nhà trường của chủ 
nô Hi Lạp và được Aristote tổng kết trong cuốn  Tu từ học. Tiếp đó Tu từ trở 
thành một bộ môn bắt buộc trong Tam khoa (Trivium) của nhà trường Trung 
cổ và nhà trường cận đại ở châu Âu. (...) Đầu thế kỉ XX, trước sự phát triển 
của ngôn ngữ  học, Triết học ..., các nhà khoa học đã đổi mới môn học này, 
hiện đại hóa bằng cơ sở lí thuyết và gọi là phong cách học.” [7, tr.238]

Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  5


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

Trong sách hướng dẫn học tập môn Ngữ văn THPT, các tác giả có đề cập  
đến vai trò của tu từ  đối với văn chương hoặc phân tích giá trị  của chúng  
trong những tác phẩm văn học cụ thể. Tuy nhiên, vẫn chưa có tác giả nào chú 
trọng vào  phương pháp rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện  
pháp tu từ cho học sinh.
Như vậy, cho đến nay, vấn đề “Phương pháp rèn luyện kĩ năng phân tích  
và vận dụng các biện pháp tu từ học sinh phổ thông ” đang còn bỏ ngõ. Chính 
vì vậy tôi mạnh dạn đi vào địa hạt đang còn nhiều điều thú vị, bổ ích này với 
mong muốn tìm ra phương pháp góp phần giúp học sinh học tốt môn Ngữ 

văn.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Tôi vận dụng một số phương pháp chính sau:
­Phương pháp điều tra thực tế, thống kê nhằm nắm được chính xác kiến  
thức và kĩ năng của học sinh THCS và THPT về các biện pháp tu từ.
­Phương pháp khái quát, hệ thống hóa giúp nắm được một cách toàn diện  
những vấn đề liên quan đến đề tài.
­Phương pháp phân tích, tổng hợp, liên hệ, so sánh, thử nghiệm tu từ, bình  
giảng được vận dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu tác phẩm văn 
học.
­ Phương pháp phát vấn, thảo luận nhóm, diễn giảng .. khi đứng lớp và 
một số biện pháp bổ trợ khác.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Các biện pháp tu từ tiếng Việt xét ở các cấp độ ngôn ngữ là rất rộng, bao  
gồm các biện pháp từ  từ  ngữ  âm, từ  vựng – ngữ  nghĩa, ngữ  pháp, văn bản.  
Việc   rèn  luyện   phân   tích   và   vận  dụng  các   biện   pháp   tu  từ   là   công  việc 
thường xuyên được triển khai trong cả  chương trình Ngữ  văn, mục tiêu là 
hình thành cho học sinh cảm thụ tốt văn chương và vận dụng ngôn ngữ hiệu  
quả.

Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  6


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

Tuy nhiên, do kinh nghiệm đứng lớp có hạn, đề tài này chỉ tập vào những 
biện pháp tu từ thuộc cấp độ  từ  vựng ­ ngữ  nghĩa và cũng chỉ  tập trung vào  
các biện pháp tu từ được dùng phổ  biến như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, phép 
điệp, đối lập và tương phản. 
Cũng do khuôn khổ của một đề tài nhỏ, tôi chỉ trình bày gợi ý hướng dẫn  

học sinh phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ ở một số tiết Đọc  
văn, một số tiết thực hành Tiếng Việt ở chương trình Ngữ văn 10 và một số 
tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11. 

B. NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
1. Về khái niệm “biện pháp tu từ” tiếng Việt:
Ở nước ta, các tên gọi tu từ, tu từ học xuất hiện khá muộn, vào thập niện 
50 của thế kỉ XX. Trước đấy có nhiều tên gọi: “Phép làm văn”, “Mĩ từ pháp”,  
“Văn thể  học” ...cũng có nội hàm tương đương tu từ  học. Tu từ  có nghĩa là 
phép làm đẹp từ, cách sử dụng từ có sự trau chuốt, sửa chữa và sáng tạo (tu: 
sửa chữa, trau dồi; từ: lời nói, ngôn từ). Ngày nay khái niệm “tu từ học” vừa 
dùng để chỉ bộ môn Tu từ (hay Mĩ từ pháp) cổ điển để phân biệt với “Phong 
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  7


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

cách học” hiện đại, vừa có thể  gọi tên một bộ  phận cấu thành Phong cách  
học.
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất ý kiến khi dạy học tu từ, nhất  
là đối tượng học sinh phổ thông, nên thống nhất các khái niệm phương tiện  
và biện pháp tu từ  gọi chung là “biện pháp tu từ” hoặc là “phép tu từ”. Đây 
cũng là quan điểm của những tác giả  biên soạn sách giáo khoa Ngữ  văn cải 
cách. Ở chương trình Ngữ văn THCS, các tác giả dùng khái niệm “biện pháp 
tu từ”,  ở  chương trình Ngữ  văn THPT chuẩn, các tác giả  dùng khái niệm  
“phép tu từ”,  ở chương trình Ngữ  văn THPT nâng cao, các tác giả  dùng khái 
niệm “biện pháp tu từ”. Chúng tôi đi theo quan điểm này, thống nhất gọi 
chung các cách sử  dụng ngôn ngữ  có sắc thái tu từ  là các “biện pháp tu từ”  
(hoặc các “phép tu từ”). Các biện pháp tu từ được hiểu “là những cách thức, 

những hình thức diễn đạt bóng bẩy, gợi cảm nhằm nâng cao hiệu lực của 
ngôn ngữ” [2, tr 238].
Dựa vào các cấp độ  của ngôn ngữ  có thể  phân chia các biện pháp tu từ 
thành các biện pháp tu từ ngữ âm, các biện pháp tu từ từ vựng – ngữ nghĩa,  
các biện pháp tu từ ngữ pháp, các biện pháp tu từ văn bản.
Trên cơ sở thống nhất khái niệm đó, giáo viên và học sinh phổ thông sẽ có  
nhiều thuận lợi trong việc nghiên cứu, học tập và tìm ra được phương pháp 
hiệu quả  nhất để  “rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị  biểu đạt của của các  
biện pháp tu từ”, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn chương.
2. Một số biện pháp tu từ tiếng Việt cấp độ từ vựng – ngữ nghĩa:
2.1. So sánh “là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có 
nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt” . 
2.2. Ẩn dụ tu từ “là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện 
tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho  
sự diễn đạt”. 

Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  8


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

2.3. Hoán dụ tu từ “là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm này bằng tên 
của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm  
tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt”.
2.4. Tượng trưng  (học sinh chưa được học lí thuyết  ở  phổ  thông) “là 
những  ẩn dụ  tu từ, hoán dụ  tu từ  dùng nhiều lần, dùng phổ  biến, trở  nên  
quen thuộc đối với mọi người, đến mức hễ nhắc đến nó ai cũng hiểu thống  
nhất về nội dung biểu hiện của nó”. Khác với ẩn dụ  tu từ  và hoán dụ  tu từ 
còn giữ nguyên dấu ấn cá nhân, tượng trưng mang tính ước lệ xã hội. Chẳng 
hạn tùng, cúc, trúc, mai là những biểu tượng cho người quân tử trong xã hội 

ngày xưa. Ước lệ tượng trưng là đặc điểm của thơ trung đại.
2.5. Phép điệp “là biện pháp tu từ lặp lại một yếu tố diễn đạt (vần, nhịp, 
điệu, từ, cụm từ, câu) nhằm nhấn mạnh, biểu đạt cảm xúc và ý nghĩa, có 
khả  gợi hình tượng nghệ  thuật”. Hiệu quả  tu từ  của phép điệp là:  cộng  
hưởng, tạo âm hưởng; nhấn mạnh ý nghĩa đối tượng; khắc sâu dễ hiểu, dễ  
nhớ.
2.6. Phép đối lập (học sinh chưa được học lí thuyết ở phổ thông) “là biện 
pháp tu từ đặt cho cân xứng vào vị trí những từ ngữ có âm thanh và có ý nghĩa  
đối chọi lẫn nhau để  tạo sự  hài hòa cân đối về  ý nghĩa, hay nhạc điệu câu  
văn, đoạn văn.” (Nguyễn Thái Hòa) [7, tr 173]. Cần phân biệt cho học sinh 
phép đối với câu đối, là một thể  văn ngắn gồm hai câu sử  dụng phép đối,  
vừa có tính chất văn chương vừa có tính trang trí. Phép đối trong nội bộ  câu 
gọi là tiểu đối, phép đối giữa hai câu trở  lên gọi là bình đối, mở  rộng đến 
phép đối trong bố cục. Phép đối được dùng phổ  biến trong thơ  xưa, nhất là 
thơ Đường luật bát cú.
2.7. Tương phản hay còn gọi là phép nghịch nghĩa, nghịch ngữ, hay phản  
ngữ (học sinh chưa được học lí thuyết  ở  phổ  thông) “là phương thức dùng 
nghĩa trái ngược để  chỉ  một sự  thật chứa đựng mâu thuẫn” (Đỗ  Hữu Châu) 
[1, tr 216].   Trong thực tế  nhiều lúc học sinh không phân biệt đâu là “đối  
lập”, đâu là “tương phản. Có người gọi chung bằng khái niệm là phép đối  
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  9


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

lập – tương phản.  Tuy nhiên “tương phản” có cấu trúc tổ  chức ngôn ngữ 
hoàn toàn khác so với “đối  lập”. Tương phản nghiêng nhiều về đối chọi ngữ 
nghĩa hơn là hình thức. 
2.8. Nói quá “là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của  
sự  vật, hiện tượng được miêu tả  để  nhấn mạnh, gây  ấn tượng, tăng sức  

biểu cảm.”
2.9. Nói giảm nói tránh “là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị,  
uyển chuyển, tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô 
tục, thiếu lịch sự.”
3. Tu từ với sáng tạo và cảm thụ văn chương:
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của  
văn học. Ngôn ngữ  của tác phẩm văn học là ngôn ngữ  của đời sống, ngôn 
ngữ  của toàn dân nhưng đã được nâng lên đến trình độ  nghệ  thuật, nghĩa là 
ngôn ngữ  toàn dân đã được trau dồi, mài giũa, tinh luyện mà thành. Để  có  
những tác phẩm văn chương giá trị, bao người nghệ  sĩ ngôn từ  vô cùng vất  
vả, công phu, đúng như  nhà thơ  Nga đã nói:  “ Phải phí tốn ngàn cân quẵng  
chữ ­ Mới thu về một chữ mà thôi ­ Những chữ ấy làm cho rung động ­ Triệu  
trái tim trong hàng triệu năm dài” (Mai­a­cốp­ki)
Nghệ thuật ngôn từ có sức mạnh kì diệu đối với tâm hồn con người. “Cái 
làm nên kì diệu của ngôn ngữ đó chính là các phương tiện và biện pháp tu từ 
” (Đinh Trọng Lạc) [12, tr 4]. Các đơn vị  ngôn ngữ  của mỗi dân tộc là có 
hạn, chính sự vận dụng một cách sáng tạo, độc đáo ngôn từ của mỗi cá nhân  
đã làm phong phú thêm cho vốn ngôn ngữ. “Nghệ  thuật sử  dụng ngôn ngữ 
trong tác phẩm văn học trước hết là nghệ  thuật sử  dụng từ  ngữ”[5, tr 15].  
Người nghệ sĩ trước hết phải có vốn từ dồi dào nghĩa là phải tích cực thâm 
nhập vào đời sống để  đãi cát tìm vàng. “Người nghệ  sĩ không thể  ngồi bóp 
óc nghĩ cách trau dồi câu chữ  mà đi vào thực tế  đời sống mới bồi bổ  được 
chữ  nghĩa cho ngòi bút” (Tô Hoài). Khi mảnh đất ngôn từ  đã màu mỡ  nhưng  
người   nghệ  sĩ chưa có được cách gieo trồng hiệu quả, cũng chưa thể  có 
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  10


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

được mùa bội thu. “Tác phẩm đã có sự phong phú về vốn từ sẽ càng giàu có 

thêm nhờ  các biện pháp khai thác ngữ  nghĩa” [5, tr 15]. Như  vậy có thể 
khẳng định rằng, tu từ là một trong những phương diện quan trọng nhất thể 
hiện sự  sáng tạo của người nghệ  sĩ và góp phần quan trọng tạo nên giá trị 
của một tác phẩm văn chương. Nói cách khác “vận dụng hiệu quả  các biện 
pháp tu từ là một trong những con đường chủ yếu của nhà văn để có một tác 
phẩm giá trị”.
Chính vì thế, có thể nói việc phân tích giá trị  biểu đạt của các biện pháp  
tu từ là một chìa khóa vàng để thâm nhập và cảm thụ một tác phẩm văn học. 
Những đòi hỏi  ở  một giáo viên ngữ  văn là rất lớn: khả  năng cảm thụ, khả  
năng diễn đạt, khả  năng hướng dẫn. Vì vậy những hiểu biết về  tu từ  học,  
về phong cách học là cơ  sở  quan trọng chuẩn bị cho sự  thành công của giáo 
viên khi đứng lớp. 
Đối với học sinh, muốn ‘thưởng ngoạn” tốt một tác phẩm văn chương, 
không còn cách nào khác là phải trang bị đầy đủ, rèn luyện tốt những kĩ năng  
phân tích ngôn ngữ. Có thể nói đọc một tác phẩm thấy hay nhưng không biết  
hay chỗ nào, vì sao hay (tức là không biết nhà văn đã sử dụng biện pháp ngôn  
ngữ gì, không hiểu được hiệu quả của phương thức tu từ nào được sử dụng)  
nghĩa là chỉ mới khám phá được một nửa giá trị của tác phẩm.  
Vì vậy, muốn học tốt môn Ngữ văn, học sinh phải hiểu biết chắc chắn và 
có kĩ năng phân tích hiệu quả biểu đạt của các biện pháp tu từ. Đây là điều  
kiện cần đối với học sinh phổ thông nói riêng và đối với độc giả nói chung.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Dạy học tu từ ở chương trình Ngữ văn trong trường phổ thông:
1.1. Mục tiêu về dạy học tu từ ở THCS là: hiểu và nhận diện được, có kĩ  
năng phân tích được giá trị  tu từ, bước  đầu biết cách vận dụng.  Ở  bậc 
THPT, học sinh không học về  lí thuyêt nhưng được luyện tập về  một số 
biện pháp tu từ. Mục tiêu của việc dạy học tu từ  ở THPT là: nhận diện tốt,  
có kĩ năng phân tích tốt giá trị biểu đạt trong cảm thụ văn chương, biết vận  
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  11



SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

dụng sáng tạo các biện pháp tu từ. Như vậy, yêu cầu về phân tích hiệu quả 
và vận dụng các biện pháp tu từ đối với học sinh THPT là rất cao.
1.2. Tổng quan các biện pháp tu từ ở chương trình Ngữ văn ở trường phổ 
thông: 
Số 
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

11
12

13

Biện pháp tu từ
So sánh
Nhân hóa
Ân dụ
Hoán dụ

Điệp ngữ
Chơi chữ
Liệt kê
Nói quá
Nói giảm nói tránh
Tổng kết về từ vựng
(một   số   phép   tu   từ   từ 
vựng)
Ẩn   dụ,   hoán   dụ    (thực 
hành)
Phép điêp, phép đối (thực 
hành)
Ẩn dụ, nói giảm  
nói   tránh,   nói   quá  (thực 
hành)

Khối 
lớp
6
6
6
6
7
7
7
8
8

CT


9

10
10

10

Chuẩ
n
Chuẩ
n
Nâng 
cao

Số 
tiết
2
1
1
1
1
1
1
1
1

tuần

Trang


19, 21
22
23
24
13
14
28
9
10

24, 41
56
68
82
152
163
104
101
107

½

11

147

1

15


135

1

31

124

1

14

178

1.3. Nhận xét từ  việc hệ  thống nội dung dạy học tu từ   ở  trường phổ 
thông: 
Vai trò quan trọng của tu từ  đối với sáng tạo và cảm thụ  văn chương là 
không cần bàn cãi, 10 biện pháp tu từ  được đưa vào chương trình Ngữ  văn 
phổ thông cũng đã khẳng định điều đó. Tuy nhiên, với tổng cộng trên dưới 13  
tiết trực tiếp dành cho học lí thuyết và thực hành các biện pháp tu từ là quá  
khiêm tốn so với chương trình Ngữ văn trường phổ thông. 
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  12


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

Việc đưa các biện pháp tu từ cơ bản vào chương trình lớp 6, lớp 7 là một 
quan điểm đúng đắn, cần phải sớm tạo cho học sinh kiến thức và kĩ năng 
ngôn ngữ  cần thiết để  có thể  cảm thụ  văn chương và vận dụng ngôn ngữ 
hiệu quả. Nhưng vấn đề  đặt ra là với ý thức, vốn sống, vốn văn học, khả 

năng tư  duy của độ  tuổi này, để  nắm vững những kiến thức về  các biện  
pháp tu từ  khó như  so sánh,  ẩn dụ, hoán dụ  ... rõ ràng là không phải dễ  đối 
với học sinh. Trong khi đó thời lượng trực tiếp dành cho nội dung tu từ là quá 
ít. Ngoài những tiết học lí thuyết, học sinh THCS hầu như không có giờ thực  
hành về các biện pháp tu từ. Lớp 9, học sinh chỉ có một  tiết tổng kết về từ 
vựng và cũng chỉ còn một nửa thời lượng dành cho các biện pháp tu từ. Chính 
vì vậy, khi lên bậc THPT, một bộ phận không nhỏ học sinh đã quên đi kiến  
thức và yếu về  kĩ năng phân tích tu từ  trong cảm thụ  văn chương cũng như 
trong vận dụng ngôn ngữ.
Đương nhiên với quan điểm dạy tích hợp, các kiến thức về  Tiếng Việt  
phải được vận dụng để  học tốt một giờ  đọc văn. Tuy nhiên do áp lực của  
tiết học, không phải lúc nào giáo viên cũng khai thác hết được hiệu quả của  
các biện pháp tu từ. Học sinh buộc phải nắm vững kiến thức về tu từ và có ý  
thức, có phương pháp rèn luyện thường xuyên mới đáp ứng được yêu cầu.
2. Một vài nhận xét từ  kết quả  điều tra thực tế  về  khả  năng phân 
tích và vận dụng các biện pháp tu từ của học sinh phổ thông:
2. 1. Để  có một cái nhìn khái quát và chắn chắc về  mức độ  hiểu biết và 
khả  năng vận dụng các biện pháp tu từ  của học sinh khi vào lớp 10, tôi đã  
tiến hành điều tra thực tế tại một số lớp  ở một số trường trên địa bàn thị xã  
như  sau:  lớp 7A, lớp 8B, lớp 9C, trường THCS Trần Phú, thị  xã Gia Nghĩa 
(2015­2016); lớp 10A2, lớp 11A5 trường THPT Chu Văn An (2015­2016).
Mẫu phiếu điều tra: (Phụ lục 01)
Phiếu điều tra học sinh khối lớp khác cũng theo các cấp độ:   nắm khái  
niệm, nhận biết, phân tích hiệu quả  biểu đạt và vận dụng các biện pháp tu  

Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  13


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông


từ  như  mẫu trên, nhưng có thay đổi cứ  liệu cho phù hợp với trình độ  học 
sinh. 
2. 2. Kết quả điều tra theo mẫu: (Phụ lục 02)
Bảng thống kê kết quả điều tra vào đầu năm học như sau: 
Lớp
7
8
9
10
11

Khái niệm
89,3 %
72,6 %
67,2 %
70, 3 %
63,5 %

Nhận biết
85,2 %
78,6 %
80,4 %
60,5 %
62,5 %

Phân tích giá trị
43,1 %
45,4 %
56,3 %
52,4 %

56,7 %

Vận dụng
41,2 %
43 %
53,6 %
46,8 %
45,2 %

Mặc dù kết quả  điều tra  ở  trên chỉ  có tính tương đối (bởi lẽ  phần  
nhiều câu hỏi điều tra theo hình thức trắc nghiệm) nhưng rõ ràng nó cũng đã 
nói lên được phần nào thực trạng hiểu biết, kĩ năng phân tích và khả  năng 
vận dụng các biện pháp tu từ của học sinh khi vào lớp 10. 
Trên cơ  sở  đó, chúng tôi có nhận định sau đây: Thực tế  điều tra cho  
thấy, một bộ  phận không nhỏ  học sinh các lớp 8, lớp 9 còn mơ  hồ  về  các 
biện pháp tu từ. Tình hình này diễn ra tương tự khi các em lên lớp 10, thậm 
chí là những hiểu biết cơ bản về các biện pháp tu từ của học sinh lớp 10 đã 
giảm đi so với học sinh THCS. Sự nhầm lẫn các biện pháp tu từ, không phân 
tích được giá trị biểu đạt của chúng hoặc là không nhận diện được các biện  
pháp tu từ  khá phổ  biến. Khi cảm thụ  và phân tích tác phẩm văn học, học  
sinh thường rơi vào bệnh suy diễn chủ  quan, không có cơ  sở  ngôn ngữ  và 
thường bị tắc ý.
Tóm lại, thực tế điều tra và đứng lớp đã cho thấy một bộ phận không 
nhỏ học sinh  mới vào lớp 10 không nắm vững kiến thức về các biện pháp tu  
từ, nhất là học sinh của những trường có đầu vào thấp... Trong khi đó, yêu  
cầu học văn của chương trình THPT là rất cao:  cảm thụ  và sáng tạo. Nếu 
không trang bị tốt về ngôn ngữ, học sinh sẽ không có năng lực cảm thụ cũng 
như  sáng tạo. Rèn luyện kĩ năng vận dụng ngôn ngữ  là công việc thuờng  
xuyên, lâu dài, mới   mong có kết quả. Vì vậy   không còn cách nào khác là 


Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  14


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

phải khôi phục lại kiến thức tu từ cho học sinh khối 10 và dần dần giúp các  
em rèn luyện kĩ năng.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐàTIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ 
cho học sinh lớp 10:
1.1. Củng cố kiến thức về một số biện pháp tu từ cho học sinh lớp 10:
Tình hình thực tế  đã nói  ở  trên đặt ra yêu cầu cho giáo viên là phải khôi 
phục lại kiến thức và  kĩ năng về tu từ cho học sinh ngay khi vào lớp 10. Vì 
thế  tôi lập ra một kế hoạch cũng cố  kiến thức và kĩ năng về  các phép tu từ 
cho học sinh lớp 10 bằng cách lồng ghép vào các giờ  đọc văn hoặc làm văn  
một cách thường xuyên để  hình thành nên ý thức và thói quen rèn luyện cho  
học sinh. Tôi chú trọng vào những vấn đề chủ yếu sau đây:
Tập trung hướng dẫn học sinh nắm vững một số  biện pháp tu từ  khó 
hoặc dễ bị nhầm lẫn như:  so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, phép điệp, phép đối lập  
và tương phản. Muốn nắm vững biện pháp ẩn dụ, trước hết học sinh phải 
nắm vững biện pháp so sánh; muốn hiểu rõ hoán dụ phải đối chiếu với ẩn  
dụ. 
­  Qui trình của việc phân tích hiệu quả  của một biện pháp tu từ  nói  
chung:    Phát hiện vị  trí ngôn ngữ  có sử  dụng tu từ      Nhận diện chính xác 
biện pháp tu từ   Thử  thay thế bằng cách diễn đạt trung tính, không có màu  
sắc tu từ   Huy động kiến thức về tu từ và vốn sống để phân tích giá trị của 
cách sử dụng tu từ đó  Rút kinh nghiệm về cách sử dụng tu từ của tác giả. 
­ Sơ đồ qui trình phân tích một số biện pháp tu từ:   (Phụ lục 03)
1.2. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ  
trong một số tiết đọc văn:

Trong những giờ  đọc văn ngay từ  đầu năm học, tôi sẽ  lồng ghép cho học 
sinh lớp 10 những kiến thức và rèn luyện kĩ năng về các biện pháp tu từ, nhất  
là những đơn vị bài học có sử dụng đậm đặc các biện pháp tu từ như   ca dao,  
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  15


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

thơ  Hai­cư, truyện thơ  trung đại (Kiều, Chinh phụ  ngâm). Các biện pháp tu  
từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ được phân tích theo qui trình thống nhất.
Ví dụ 1:   Bài “Ca dao yêu thương tình nghĩa” (Ngữ văn 10 nâng cao) 
Câu (4); “ Khăn thương nhớ ai (...) Lo vì một nỗi không yên một bề”
Hướng dẫn học sinh tìm những biện pháp tu từ nổi bật trong bài ca dao:
­ Phép điệp: điệp từ (khăn, thương nhớ, đèn, mắt, lo), điệp cấu trúc câu: 
C – V + Bổ  ngữ, điệp vần (ai,  ắt). Hiệu quả  nhấn mạnh tâm trạng nhớ 
mong, nỗi nhớ  thường trực, tạo âm điệu triền miên, day dứt, dễ  thuộc, dễ 
hiểu.
­ Các biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ được vận dụng trong bài: 
Bước

A



(ẩn đi)

(hiển thị trên câu chữ)

con người (chủ sở hữu)


1+2

khăn (vật sở thuộc)

Biện pháp
hoán dụ

con người thao thức (sự  đèn (dấu hiệu của sự 
hoán dụ 
vật)
vật) 
con người (toàn thể)

mắt (bộ phận)

hoán dụ
có   tính   nhân 
hóa

Đối đáp với đồ vật (khăn, đèn) 
3

Thay thế  cách nói trực tiếp: ý lộ  rõ, thô, lại nhiều lần sẽ  vụng,  
diễn đạt một lần không hết ý

4

Khăn (vắt vai, rớt xuống ...)   tâm trạng đứng ngồi không yên, bổi 
hổi bồi hồi, không chủ  định; đèn (không tắt)  giải bày thao thức; 
mắt  không ngủ được, trằn trọc suốt đêm


5

Cách nói bóng gió, duyên dáng, tế  nhị, đồng thời bộc lộ  tinh tế 
những cung bậc, tâm trạng của tình yêu, tô đậm nỗi nhớ  thương  
dằng dặc của cô gái

Câu (5): “Cây đa cũ, bến đò xưa ­ Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ”
  Bướ
c

A
 (ẩn đi)

B
(hiển thị trên câu 
chữ)

1 + 2 người   ở   lại   (cố  cây đa, bến cũ
định)

Biện pháp
tương   đồng     ẩn  

Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  16


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

người đi (di động)


dụ

bộ hành 

gian khó, lâu dài (đối  nắng mưa (dấu hiệu 
tương cận hoán dụ
tượng)
của đối tượng)
3

Thay bằng cách nói trực tiếp A: chỉ có giá trị cụ thể, không có tính 
khái quát, không có tính hình tượng, không tạo được tình cảm gần 
gũi, thân thương

4

Cây đa, bến cũ là những hình  ảnh thân quen của đời sống người  
Việt, gợi xúc động, nắng mưa là biểu hiện của sự  gian khổ, đợi 
chờ, những hình ảnh này đều gợi được sự thủy chung, son sắt của  
người ở lại.

5

 Cách nói bóng gió, kín đáo, sâu sắc, phù hợp với tâm lí người Việt 
đồng thời có giá trị phổ quát, đúng với nhiều trường hợp 

Ví dụ 2 :   Bài “Ca dao than thân” (Ngữ văn 10 nâng cao)
Câu hỏi 4(SGK): Liệt kê những hình  ảnh so sánh,  ẩn dụ  trong chùm ca 
dao. Cho học sinh xác định vị trí ngôn ngữ  có sử  dụng tu từ, sau đó xác định 

A: 
Câu

A
thân em

1

5

giếng giữa đàng ....

Biện pháp
so sánh
ẩn dụ
so sánh

thân   phận   người   phụ  người   khôn...   người 
ẩn dụ
nữ
phàm...
Bướm vàng, đọt mù u

ẩn dụ

Sợ mẹ, sợ cha

biển, trời

so sánh


tình cảm (của anh)

mây bạc

ẩn dụ

con cò (toàn bài)

tượng trưng 

3
4

tấm lụa đào .....

thân   phận   người   phụ 
phất phơ giữa chợ ...
nữ
thân em

2

B

(chết)   vinh   dự,   trong 
sạch
(xáo) nước trong
(chết)   nhục   nhã,   hèn  (xáo) nước đục
kém


ẩn dụ

Trên cơ  sở  hiểu được cơ  chế  các phép tu từ, học sinh rút ra giá trị  biểu  
đạt.
Ví dụ 3: Bài “Nỗi thương mình” (Kiều – Nguyễn Du)
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  17


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

Phép đối được sử dụng phép tiểu đối (nội bộ) câu và bình đối (đối giữa 
hai câu) gần như xuyên suốt cả đoạn thơ: khắc sâu sự đau đớn, dày vò giữa 
hiện tại và quá khứ ... của Kiều
Phép điệp gồm:  điệp từ (mình, khi, sao, thân...), điệp cụm, điệp cấu trúc 
được dùng dày đặc, tạo âm điệu triền miên, da diết, sự dằng xé nội tâm ....
Hoán dụ:  cuộc say, trận cười, phong gấm rủ  là, dày gió, dạn sương và 
ẩn dụ: bướm lả, ong lơi, lá gió cành chim, hoa giữa đường, bướm chán, ong  
chường (gợi đến hoa tàn nhụy rữa)...đã đặc tả  nỗi đau khổ  bị  vùi dập của  
Kiều. 
Rõ ràng chính các biện pháp tu từ  đã góp phần đắc lực thể  hiện sâu sắc  
giá trị nội dung tư tưởng của đoạn trích.
1.3. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu 
từ trong một số tiết thực hành Tiếng Việt:
Ví dụ  :   Bài  “Thực hành phép tu từ   ẩn dụ  và hoán dụ”  (Ngữ  văn 10 ­ 
chương trình chuẩn, tập 1)
Yêu cầu để  đạt được mục tiêu: học sinh đã được khôi phục những kiến 
thức cơ  bản về các biện pháp tu từ  này qua những giờ  văn trước đó và tích 
cực chuẩn bị chu đáo bài tập ở  nhà. Tiến hành phân tích theo qui trình thống 
nhất được sơ  đồ  hóa, học sinh thực hiện theo sự  chuẩn bị, giáo viên định  

hướng: 
* Luyện tập về ẩn dụ  (Phụ lục 04)
* Luyện tập về hoán dụ: (Phụ lục 05)
* Hướng dẫn phân biệt ẩn dụ và hoán dụ:
­ Điểm giống nhau: đều là cách gọi tên sự vật này bằng sự vật khác, trong  
ẩn dụ và hoán dụ có một vế (đối tượng) bị ẩn đi (đây là vấn đề làm cho học 
sinh dễ nhầm lẫn hoặc khó xác định ẩn dụ và hoán dụ)
­ Điểm khác nhau: 
Ẩn dụ
Hoán dụ
­ Dựa trên liên tưởng tương đồng (có  ­ Dựa trên liên tưởng tương cận (gần 
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  18


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

nét   giống   hoặc   gần   giống   của   các  gũi đi đôi với nhau trong thực tế của  
đối tượng)
đối tượng)
­ So sánh ngầm
­ Không so sánh mà  hoán đổi vị  trí,  
thay thế nhau
­   Không   chuyển   đổi   trường   nghĩa, 
­ Thường có sự chuyển nghĩa
cùng một trường nghĩa
* Rèn luyện vận dụng ẩn dụ và hoán dụ: (sẽ trình bày ở phần sau)
Do áp lực của chương trình học, những kiến thức về tu từ đã nói ở trên rõ 
ràng không dễ  nắm vững ngay đối với học sinh lớp 10. Nhưng nếu không 
nắm vững chúng, học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn trong cảm thụ văn chương 
và sử  dụng ngôn ngữ, nhất là đối với những học sinh chuyên văn. Những 

kiến thức này sẽ được tiếp tục củng cố cho học sinh khi lên lớp 11.
2. Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị  biểu đạt của các biện pháp tu 
từ cho học  sinh lớp 11 qua một số tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại:
2.1.  Ẩn dụ  chuyển đổi cảm giác, điệp ngữ  trong “Vội vàng”­ Xuân  
Diệu:
Thơ   mới   chịu   nhiều   ảnh   hưởng   thuyết   tương   giao   của   Bô­đơ­le 
(Baudelaire) và lối thơ  tượng trưng của Pháp, mà “môn đồ” xuất sắc nhất 
của thuyết tương giao trong các nhà thơ mới chính là Xuân Diệu. “Vội vàng”  
là một bài thơ tiêu biểu cho “tâm hồn khát khao giao cảm với đời” của Xuân  
Diệu và cũng là bài thơ  tiêu biểu cho nghệ  thuật tương giao trong thơ  ông.  
Biện pháp tu từ   ẩn dụ  chuyển đổi cảm giác và ẩn dụ  tượng trưng được 
nhà thơ vận dụng sáng tạo, độc đáo.
“Vội vàng” là dòng cảm xúc hối hả, tuôn trào nhưng vẫn thể  hiện được 
mạch triết lí, triết luận sâu sắc, thể hiện cả một quan niệm nhân sinh về lẽ 
sống vội vàng với bố cục khá rõ ràng. Bố cục ấy có thể khái quát bằng sơ đồ 
sau:  
(Mạch cảm xúc ào ạt tuôn trào)
                   I                                     II                                      III
                ong bướm  mùa xuân     tuổi trẻ                       ôm             chếnh choáng
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  19


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

Này đây  lá hoa # tuần hoàn >< không thắm lạiMuốn  riết cho   đã đầy cắn
                yến anh,        vô hạn            hữu hạn                 say              no nê
                                                                                             thâu 
* Phát hiện một thiên    * Giật mình nhận ra              * Hãy sống bằng tất cả các
   đường trần thế với       qui luật nghiệt ngã               quan, không bỏ phí một
   mùa xuân, tình yêu       của thời gian, cái hữu             phút giây tận hưởng

   và tuổi trẻ                    hạn của đời người  
  Sung sướng                     Băn khoăn, tiếc nuối                Giục giã, vội vàng
                        
 
Muốn tắt nắng, buộc gió làm ngưng đọng thời gian   Chỉ còn một cách: tăng tốc 
                                                                                          độ, cường độ sống        
       Nhưng không thể được                                    Sống đủ đầy trong mỗi phút giây

(Triết lí sống vội vàng)

Trong từng đoạn thơ, Xuân Diệu đã sử  dụng những biện pháp tu từ hợp 
lí và sáng tạo, góp phần thể  hiện sâu sắc chủ  đề  tư  tưởng. Cần gợi ý cho  
học sinh phân tích hiệu quả của những biện pháp tu từ nổi bật. 
2.1.1 Khổ đầu bài thơ, 
Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã được phát huy hiệu quả: “Tôi muốn tắt  
nắng  đi”, “Tôi  muốn  buộc  gió  lại”.  Quả  thật là những  ước muốn khác 
thường. Cách nói  tắt nắng, buộc gió  đã gây  được cảm giác mới lạ  cho 
người đọc. Vì sao thi nhân lại có những khát vọng mà thoạt nhìn ngỡ như kì  
dị  vậy: “tắt nắng” và “buộc” gió để  sắc hương cuộc đời đừng phai nhạt? 
Tất cả đều xuất phát từ một lòng yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. 
 2.1.2. Đoạn thơ: “ Của ong bướm ........ nhưng vội vàng một nửa”
Biện pháp tu từ  điệp ngữ: “này đây” được điệp năm lần, diễn tả  sự 
sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì  
nhiều quá, đẹp quá nên nói một lần không xuể.  Nhà thơ  phát hiện có một 
thiên đường sự sống ngay trên mặt đất, ngay trong tầm tay của mỗi người.  
Này đây, hiện hữu ngay đây, sao con người ta cứ mãi tìm niềm vui mãi tận  

Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  20



SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

đâu đâu chốn bồng lai  ảo mộng.   “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai 
nấy về hạ giới” (Hoài Thanh).  
Phép liệt kê và nhân hóa cùng với giọng điệu say mê, hình ảnh giàu sức 
sống đã gợi lên trước mắt người đọc bộ  dạng, tâm hồn một người thanh 
niên đang dang tay ngạc nhiên, ngơ  ngác mà vui sướng giữa vườn đời đẹp 
quá.  “Tháng  giêng ngon   như  một  cặp  môi gần”  xứng  đáng  là  câu  thơ 
thuộc vào những câu tuyệt bút của thơ  hiện đại. Đọc câu thơ  nghe hay, 
nhưng vì sao nó hay? Nếu không nắm vững ngôn ngữ, học sinh rất dễ diễn  
xuôi một cách chủ  quan thiếu cơ  sở, hoặc nói theo, nói lại người khác, 
không có sự  sáng tạo. Câu thơ  trên vừa thể  hiện niềm yêu đời mãnh liệt, 
vừa thể hiện một quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, đồng thời chứng tỏ được tài 
vận dụng ngôn từ của Xuân Diệu. Trước hết câu thơ ấy sử dụng ít nhất là 
hai biện pháp tu từ: so sánh và ẩn dụ. Độc đáo chính là phép ẩn dụ. Tháng 
giêng là khái niệm trừu tượng chỉ thời gian, ngon là khái niệm chỉ cảm giác 
cụ thể. Vậy đây là ẩn dụ tượng trưng. Nhưng “tháng giêng ngon như một 
cặp môi gần”. Cặp môi gần gợi xúc giác, trong khi ngon là vị giác. Ở đây đã 
có sự chuyển đổi cảm giác tức là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Sự kết hợp 
hai kiểu ẩn dụ này có khả năng dựng cảm giác mạnh trong cảm xúc người 
đọc. Những cảm giác thật mới, thật lạ. Đây là câu thơ rất Xuân Diệu. Hình 
ảnh thơ  rất táo bạo, sáng tạo, thể  hiện độc đáo vẻ  đẹp diệu kì của trần  
gian. Đó là vẻ  đẹp vừa gần gũi, vừa xa vời, vừa có tính nhục thể, vừa vô  
cùng trong trắng, tinh khôi. Có thể  nói rằng cả  phép tương giao và lối thơ 
tượng trưng được Xuân Diệu vận dụng tài tình. Câu thơ  có sự  kết hợp hòa 
quyện giữa mùa xuân, tuổi trẻ  và tình yêu: tháng giêng ngọt ngào như  đôi  
môi đang giao hòa trong tình yêu say đắm.
Đem tháng giêng mà so sánh với cặp môi gần thì quả là trước Xuân Diệu 
không ai nghĩ ra. Bởi lẽ   ở  đây có sự  chi phối của tư  duy thơ  và như  quan 
niệm thẩm mĩ. Thi nhân xưa thường tư duy theo khuôn mẫu có sẵn, thơ xưa  

lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp (giáo viên cần dẫn chứng). Xuân 
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  21


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

Diệu đã thay đổi quan niệm thẩm mĩ cho thơ ca:  với thi nhân, con người với  
tuổi trẻ  và tình yêu, mà nhất là người thiếu nữ  là chuẩn mực cho mọi vẻ  
đẹp, là thước đo thẩm mĩ của vũ trụ. Với cách cảm và cách nghĩ như  vậy, 
Xuân Diệu đã tạo nên một lối tư duy thơ rất hiện đại, nhà thơ  đã nhìn đời 
bằng con mắt “mĩ lệ hóa”, “mĩ nhân hóa”. Qua cái nhìn tình tứ ấy, nên thiên 
nhiên thường hiện ra với vẻ đẹp xuân tình. Tâm hồn say đắm của thi nhân 
đã làm sống dậy nét quyến rũ, tình tứ, vẻ  đẹp diệu kì, tươi nguyên ngay  
trong những cảnh sắc quen thuộc.
2.1.3 Đoạn thơ: “Xuân đương tới .,. mùa chưa ngả chiều hôm”.
Một hệ  thống hình  ảnh  tương phản:  tới­qua, non­già, hết­mất, rộng­
chật, tuần hoàn ­ chẳng hai lần, vô hạn ­ hữu hạn... và phép tiểu đối   góp 
phần khẳng định một chân lý ­ triết lý: đời người quí nhất là tuổi trẻ, mà tuổi 
trẻ  ngắn ngủi, mong manh, đời người lại hữu hạn. Xuân Diệu đã không 
đồng tình người xưa,  thời gian của đời người là tuần hoàn, đi rồi trở  lại.  
Với Xuân Diệu, thời gian là tuyến tính. Thời gian là dòng chảy xuôi chiều, 
một đi không trở  lại, mỗi khoảnh khắc trôi quan là mất đi vĩnh viễn.  Quan 
niệm này xuất phát từ  cái nhìn biện chứng về  vũ trụ, về  thời gian:   Xuân 
đương tới nghĩa là xuân đương qua.  Xuân Diệu lấy cái quỹ  thời gian hữu 
hạn của sinh mệnh cá thể ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí lấy  
quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh con người là tuổi trẻ để 
làm thước đo.  Điều đau đớn nhất là cái quí giá của đời người   đang từng 
giây, từng phút mất đi, mất đi vĩnh viễn. Phép đối lập và  tương phản đã 
giúp cho đoạn thơ thể hiện rõ chất triết lí, thể hiện một cái nhìn biện chứng, 
mới mẻ về qui luật thời gian.

Biện pháp nhân hóa được vận dụng đúng chỗ. Nói cảnh vật thiên nhiên 
mà là để  nói về  con người. Với Xuân Diệu hầu như  cuộc sống nơi “vườn 
trần” đều ít nhiều mang “bi kịch” về  thời gian. Cũng là “gió”, là “chim”… 
nhưng gió “thì thào” vì “hờn”, “chim” bỗng ngừng hót, ngừng rao vì “sợ”! 

Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  22


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

Biện pháp chuyển đổi cảm giác lại phát huy tác dụng để tạo nên một thế 
giới tương giao đang diễn ra trong chính tâm hồn thi sĩ. Trong một câu thơ mà 
cảm giác được được chuyển đổi liên tục qua nhiều kênh khác nhau: “Mùi 
tháng năm đều rớm vị  chia phôi”. “Mùi” là  khứu giác, “tháng năm” là khái 
niệm chỉ  thời gian,  ở  đây có ẩn dụ  tượng trưng. Xuân Diệu đã cảm nhận 
thời gian bằng mùi hương. Thảo nào ông muốn “buộc gió” lại. Chữ rớm gợi 
cho ta hình dung những giọt lệ, chia li nên “rớm” lệ. Vậy đó là  thị  giác. 
Nhưng rớm vị thì là chưa nghe, chưa thấy bao giờ. Cảm giác đã chuyển đổi 
qua vị giác, một mùi vị vô hình lạ kì, “vị chia phôi”. Hóa ra chia phôi đối với 
Xuân Diệu cũng là một khoảnh khắc quí giá để  mà hưởng thụ, và với một 
giác quan thì chưa đủ độ ham muốn, ông đã dùng tất cả giác quan có thể của  
mình để  sống.  Ở  câu thơ  này đã có sự  giao thoa kì lạ  giữa   khứu giác, thị  
giác và vị giác. Những câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật nghịch 
lí giữa mùa xuân­tuổi trẻ và thời gian. 
Ta bỗng hiểu sâu sắc vì sao tâm hồn thi nhân bỗng  ngông cuồng muốn níu 
giữ  tạo hóa, muốn “tắt nắng”, “buộc gió”, làm những việc xưa nay chưa 
từng thấy ai làm. Và đương nhiên, cái tôi khát vọng đời sống trần thế  dĩ  
nhiên không chịu sự  lừa dối. Vậy thì làm thế  nào để  cho mỗi khoảnh khắc 
cuộc đời  không bị mất đi một cách uổng phí. Chỉ còn một cách khả thi nhất 
là chạy đua với thời gian, phải tăng tốc độ, cường độ  sống, sống sao cho đủ 

đầy nhất trong từng đơn vị thời gian.. Đó là cơ sở của triết lí sống vội vàng  
Xuân Diệu.  
2.1.4 Đoạn thơ cuối:
Để diễn tả sự cuống quít, hối hả của lòng ham sống, khát khao giao cảm,  
Xuân Diệu đã sử  dụng dày đặc biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác với 
những kết hợp từ  mới lạ  (ôm sự  sống, riết mây, gió, say cánh bướm, thâu  
trong một cái hôn nhiều, chếnh choáng mùi thơm, đã đầy ánh sáng, no nê  
thanh sắc, cắn ... xuân) và ẩn dụ tượng trưng (sự sống mơn mởn, thời tươi,  
xuân hồng...). Có lẽ  lần đầu đọc đoạn thơ  này, học sinh nào nhạy cảm với 
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  23


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

ngôn ngữ  sẽ  có cảm giác choáng ngợp trước dòng thác ngôn từ  tuôn ào  ạt  
như  bất tận với những cảm giác cứ  đan cài, giao thoa, trộn lẫn vào nhau 
không theo một qui luật nào. Nhưng càng đọc ta sẽ  càng cảm giác thích thú  
bởi cách cảm nhận cuộc sống của nhà thơ mới quá, và quả thật là “Tây” quá,  
nhưng mà rất đúng và rất trúng với những tâm hồn nhiều đam mê, khao khát. 
Phép tương giao (giữa các giác quan, giữa con người và tạo hóa) được Xuân 
Diệu phô diễn độc đáo.
Cùng với biện pháp  ẩn dụ, Xuân Diệu đã khai thác triệt để tác dụng của  
phép điệp  (điệp câu, điệp cụm, điệp từ:  ta muốn, cho, ..., điệp cảm xúc), 
kèm theo đó là cách liệt kê tăng cấp các động từ  cảm giác mạnh: ôm, riết,  
thâu, cắn; các tính từ cảm giác: chếnh choáng, đã đầy, no nê;  các từ ngữ gợi 
tươi tắn, quyến rũ, tình tứ: mơn mởn, rạng, tươi, hồng, cái hôn nhiều... Nhà 
thơ  tạo nên những làn sóng ngôn từ  cộng hưởng nhau theo chiều tăng tiến, 
càng lúc càng mạnh và đạt cao trào:  ta muốn  →  cho  →  ta muốn cắn. Biện 
pháp  nhân hóa  mùa xuân và đặt trong thế  đối thoại với con người đã tăng 
thêm sức sống cho cảnh vật. Tác giả  đã tạo ra những hình ảnh thơ  giàu sức 

sống, đắm say mãnh liệt. Còn cần phải kể  đến giọng điệu cuống quít, hối 
hả, vội vã thể hiện một tâm hồn ham sống, giục giã sống ... 
Nhưng sống gấp, sống vội vàng không phải là sống ích kỉ mà là sống sao 
cho có ý nghĩa nhất trong mỗi khoảnh khắc cuộc đời, không bỏ phí tuổi xuân,  
tình yêu và hạnh phúc. Đây là một quan niệm sống tích cực với một tinh thần  
nhân văn mới. Bao nhiêu năm sau còn làm cho không ít người ngỡ  ngàng!  
Xuân Diệu đã sống “vội vàng” như  vậy. Xét  ở  một góc độ  nào đấy, chính 
quan niệm sống này có thể  khơi dậy  ở  thế  hệ  thanh niên lúc bấy giờ  niềm 
ham sống, thoát khỏi tình trạng u tối, chán chường, bi quan, lạc hướng.
Tóm lại, từ  những gợi ý phân tích trên, học sinh có thể  nhận thấy được 
rằng các biện pháp tu từ  đóng một vai trò rất quan trọng cho sự  thành công 
của bài thơ “Vội vàng”. Xuân Diệu đã sử dụng ở mức độ đậm đặc các biện  
pháp tu từ và những cấu trúc ngôn từ đầy sáng tạo. 
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  24


SKKN :  Rèn luyện kĩ năng phân tích và vận dụng các biện pháp tu từ  cho học sinh Trung hoc phổ thông

Thử làm một phép liệt kê các phép ẩn dụ toàn bài thơ “Vội vàng”
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

11
12
13

Ẩn dụ chuyển đổi cảm 

TT

   Ẩn dụ tượng trưng

giác
tắt nắng
buộc gió
ngon ... cặp môi gần
mùi ...rớm vị chia phôi
đứt tiếng reo thi
ôm sự sống
riết mây đưa, gió lượn
say cánh bướm
thâu trong một cái hôn
chếnh choáng mùi thơm
đã đầy ánh sáng
no nê thanh sắc
cắn ( xuân hồng)

1
2
3
4
5

6
7
8
9
10
11

tuần tháng mật
tháng giêng ngon
vội vàng một nửa
lòng rôi rộng
lượng trời chật
tuổi trẻ ... thắm
mùi tháng năm
sự sống mơn mởn
thời tươi
thanh sắc của thời tươi
xuân hồng

(Nội dung này giáo viên có thể ra yêu cầu học sinh thực hiện ở nhà)
Có thể nói chính sức nặng của nghệ thuật vận dụng ngôn từ độc đáo, 
sáng tạo, mới lạ đã làm cho bài thơ hay.
“Vội vàng” cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một  
giọng thơ  sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn như  có chất xúc tác trong 
thơ. Cách dùng từ  rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ  rất tài hoa, nghệ 
thuật tu từ đạt trình độ tinh tế, điêu luyện bậc thầy. 
2.2. Thủ  pháp đối lập và tương phản trong “Tràng giang” của   Huy  
Cận:
Đặc trưng của thơ Huy Cận là cảm hứng vũ trụ. Với “Lửa thiêng” (1940),  
ông đã thể  hiện một hướng đi riêng, độc đáo của thơ  mình. Thơ  là sự  gắn 

nối giữa con người và “vũ trụ  vừa cao rộng, bí ẩn vừa gần gũi”: “Thơ   ơi –  
chiếc võng ta treo – đầu theo vũ trụ, đầu theo loài người”. Trước Cách mạng  
tháng Tám, thơ  Huy Cận thường buồn, đó là một nỗi sấu “man man thiên  
cổ”, là cái sầu vũ trụ. Thơ  Huy cận vì thế  thiên về  dựng cảnh không gian, 
thời gian (vũ:  không gian; trụ:  thời gian) và lẽ  dĩ nhiên Huy Cận phải sở 
trường về các biện pháp đối lập và tương phản. Đối lập và tương phản có 
Giáo viên: Phan Phương Lan                                                                            Trang:  25


×