Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông thôn huyện thanh sơn, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN ANH PHONG

NGUỒN LỰC VÀ THU NHẬP CỦA HỘ GIA ĐÌNH
NÔNG THÔN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

Thái Nguyên, năm 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN ANH PHONG

NGUỒN LỰC VÀ THU NHẬP CỦA HỘ GIA ĐÌNH
NÔNG THÔN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã ngành: 8 62 01 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn: PGS.TS Dương Văn Sơn

Thái Nguyên, năm 2020


i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận
văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Mọi trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm luận văn, trước Nhà
trường và phòng Đào tạo về các thông tin, số liệu trong đề tài luận văn này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Anh Phong


ii
LỜI CÁM ƠN

Trong thời gian thực tập và nghiên cứu tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú
Thọ, tôi đã hoàn thành xong đề tài luận văn cao học của mình. Để có được kết
quả này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ chu đáo,
tận tình của nhà trường, các cơ quan, thầy cô, gia đình và bạn bè. Tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn chân thành tới:
Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Phòng Đào
tạo cùng toàn thể các Thầy, Cô đã tận tụy giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học
tập cũng như thời gian hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Dương Văn Sơn đã tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của UBND huyện Thanh Sơn;
Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Thanh Sơn; Chi cục Thống kê huyện
Thanh Sơn; các hộ gia đình nông thôn trên địa bàn 3 xã Cự Thắng, Cự Đồng và
Thắng Sơn,… đã tạo mọi điều kiện thuận lợi có thể để tôi hoàn thành đề tài


luận văn này.
Với trình độ và thời gian có hạn, do đó bản luận văn của tôi không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô để bản đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Phú Thọ, tháng năm 2020
Học viên
Nguyễn Anh Phong


3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐĐ
B
C ồn
C
N
D ôn
D
N
F oa
T
A
H ổH
Đ
H ội
H

T
Kợ
K
C
Mhu
M
T
N ặt
N
Đ
N gh
N
Q
N gh
N
xP hà
P
T
Q há
Q
Đ
Q uQ
H
Q uố
Q
T
T uả
Tr
H
T un

Tr
H
T un
Tr
T
T an
T
T
U hô

BN
y
W
B gâ


4

DANH MỤC BẢNG

T
B r
ả a
B nM 3
ả ẫ
8
B N 4
ả ô
2
B T 4

ả u
3
B C 4
ả h
4
B N 4
ả g
5
B V 4
ả ố
6
B M 4
ả ột 7
B M 4
ả ột 9
B M 5
ả ột 0
B N 5
ả g
2
B T 5
ả h
5
B T 5
ả h 6
u
B T
5
ả h
7

B T 5
ả h
8
DANH MỤC HÌNH
H T
ì ra
H T 5
ìn h 4
u


5

TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
Tên đề tài: Nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông thôn ở huyện
Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 8.62.01.15
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Với mục đích trên cơ sở đánh giá thực trạng về nguồn lực và hoạt động
sinh nhai của hộ gia đình nông thôn tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Đánh
giá thực trạng thu nhập của hộ gia đình nông thôn tại huyện Thanh Sơn, tỉnh
Phú Thọ để từ đó đề xuất quan điểm, mục tiêu và một số giải pháp chủ yếu
góp phần cải thiện nguồn lực, nâng cao thu nhập hộ gia đình nông thôn tại
huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Đề tài chủ yếu đã sử dụng phương pháp điều
tra phỏng vấn bằng phiếu điều tra đã chuẩn bị trước để thu thập thông tin số
liệu sơ cấp từ 96 hộ thuộc 3 xã Cự Thắng, Cự Đồng và Thắng Sơn, cùng với
các phương pháp thảo luận nhóm và quan sát trực tiếp. Bằng các phương
pháp phân tích số liệu thông dụng, đề tài đã cung cấp bức tranh khá toàn diện
về nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình nông thôn huyện Thanh Sơn (tỉnh Phú
Thọ) gồm học vấn, nhân khẩu, lao động, đất đai, vốn,… Hoạt động sinh nhai

về trồng trọt của địa phương được đánh giá rất phong phú, trong đó quan trọng
nhất là: Lúa, ngô, sắn, lạc, cây ăn quả (chuối), chè, sơn,… góp phần quan
trọng trong đời sống hộ và thu nhập của gia đình nông thôn địa phương. Hoạt
động sinh nhai trong chăn nuôi quan trọng nhất đối với hộ gia đình nông thôn
địa phương được xếp theo thứ tự là: Gia cầm (chủ yếu là gà), lợn, cá, bò, trâu,
dê,… Chăn nuôi là nguồn thu nhập chủ yếu của nông hộ. Hoạt động sinh nhai
về phi nông nghiệp khá đa dạng, là nguồn thu nhập rất quan trọng đối với bà
con nông dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu thu nhập. Hoạt
động sinh kế phi nông nghiệp tập trung chủ yếu là làm công nhân lao động
trong các nhà máy, khai thác mỏ và khu công nghiệp trên địa bàn và ngoài địa
bàn; làm nghề kinh


6

doanh buôn bán, làm thuê, xây dựng (thợ xây và phụ xây), nấu rượu, chế biến
nông sản, chế biến ván bóc xuất khẩu, dịch vụ xay sát nghiền nông sản,…
Thu nhập nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn huyện Thanh Sơn
bình quân đạt 109,2 triệu đồng/hộ/năm. Trong đó, thu nhập nông nghiệp cao
nhất là nhóm hộ khá (123,7 triệu đồng/hộ/năm), tiếp đến là nhóm hộ trung
bình (117,2 triệu đồng/hộ/năm), nhóm hộ cận nghèo (95,3 triệu đồng/hộ/năm),
nhóm hộ nghèo có thu nhập từ nông nghiệp thấp nhất với giá trị chỉ đạt 78,5
triệu đồng/hộ/năm. Thu nhập phi nông nghiệp bình quân đạt 98,2 triệu
đồng/năm, trong đó tập trung vào 2 nhóm hộ khá và trung bình, nhóm hộ cận
nghèo và nghèo không có thu nhập phi nông nghiệp. Nhìn chung, tổng thu
nhập bình quân của các nhóm hộ đạt bình quân 136,8 triệu đồng/hộ/năm.
Trong đó, nhóm hộ khá có tổng thu nhập cao nhất (195,9 triệu đồng/hộ/năm),
tiếp đến là nhóm hộ trung bình (121,2 triệu đồng/hộ/năm), nhóm hộ cận
nghèo: 95,3 triệu đồng/hộ/năm, thấp nhất là nhóm hộ nghèo: 78,5 triệu
đồng/hộ/năm. Tổng thu nhập của nhóm hộ hỗn hợp đạt tới 176,2 triệu

đồng/hộ/năm, cao hơn 54,8 triệu đồng/hộ/năm so với nhóm hộ thuần nông,
tức là đạt 40,32 triệu đồng/người/năm, cao hơn 15,32 triệu đồng/người/năm
so với nhóm hộ thuần nông (chỉ đạt 24,79 triệu đồng/người/năm). Nếu tính
theo tháng, nhóm hộ hỗn hợp có thu nhập đạt bình quân 3,36 triệu
đồng/người/tháng, cao hơn 0,96 triệu đồng so với bình quân chung, nhóm hộ
thuần nông có thu nhập bình quân đạt
2,07 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn 0,33 triệu đồng so với bình quân chung.
Rõ ràng là hiện nay đang có sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm
hộ khác nhau cả về phân loại kinh tế hộ và nghề nghiệp của hộ, thể hiện sự
bất bình đằng về kinh tế, sẽ dẫn đến những hệ lụy rất đáng được quan tâm,
đánh giá đúng mức để có giải pháp khắc phục kịp thời để góp phần cải thiện
nguồn lực, nâng cao thu nhập cho nhóm cận nghèo, hộ nghèo và nhóm hộ
thuần nông. Thực tế nhóm hộ cận nghèo, hộ nghèo và hộ thuần nông đang
ngày càng bị bị tụt hậu, bị bỏ rơi lại phía sau. Mặt khác thu nhập của nhóm
hộ cận nghèo, hộ


vii
nghèo và hộ thuần nông này còn rất xa so với bộ tiêu chí trong xây dựng nông
thôn mới của Chính phủ. Chênh lệch về thu nhập và sự gia tăng bất bình đẳng
thu nhập ở huyện Thanh Sơn đều được bắt nguồn từ các nhân tố mang tính đặc
trưng của nhóm hộ; Sự khác biệt về xã hội học; Sự khác biệt về các động lực
tăng trưởng nông nghiệp và phi nông nghiệp giữa các cộng đồng cư dân;
Những thay đổi trong mô hình sản xuất, từ hoạt động sinh nhai nông nghiệp
đến các sinh nhai phi nông nghiệp, và từ công việc tay nghề thấp đến công
việc có kỹ năng cao; Sự dịch chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang các cơ hội
làm công ăn lương và kinh doanh phi nông nghiệp, tăng nguồn lợi thu được
từ đầu tư cho giáo dục, khác biệt về trình độ học vấn giữa các hộ,....
Để tăng thu nhập cho hộ gia đình nông thôn huyện Thanh Sơn cần thực
hiện đồng bộ một số nhóm giải pháp chủ yếu như: Nhóm giải pháp về phát

triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề để tăng thu
nhập về phi nông - lâm nghiệp, thủy sản; Nhóm giải pháp tăng cường tiếp cận
vay vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay của hộ nghèo, góp phần giảm
nghèo và phát triển kinh tế hộ nghèo; Nhóm giải pháp về đẩy mạnh phát triển
kinh tế trang trại; Nhóm giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu thúc đẩy
sản xuất và phát triển nông thôn; Nhóm giải pháp về đào tạo nghề và đào tạo
nhân lực, lao động, việc làm cho lao động nông thôn, dân tộc thiểu số; Nhóm
giải pháp về Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”, nâng cao thu nhập cho
người dân nông thôn; Nhómgiải pháp bảo tồn các giá trị văn hóa bản địa, cải
thiện sinh kế, nâng cao đời sống vật chất cho cộng đồng dân tộc thiểu số, và
giải pháp về
nguồn lực tự nhiên, rừng và đất rừng…
Tác giả
Nguyễn Anh Phong


8

MỤC LỤC
S T
T r
M 1

1 Tí 1
n
2 M 2
ục
3 Ý
2
n

3. Ý
2
1 n
3. Ý
2
2 n
4 Đ
3
ối
4. Đ
3
1 ối
4. P
3
2 hạ
C
4
h
1. C
4
1 ơ
1. N
4
1. g
1. N
4
1. g
1. N
5
1. g

1. H
6
1. ộ
1. K
6
1. há
1. P
7
1. hâ
1. Si 8
1. n
1. T
1
1. h
0
1. V 1
1. ai 0
1. C
1
1. ơ
1
1. Ti 1
1. êu 3
1. Đ 1
1. ối 3
Đ
1. ối 1
1. v
5
4. ới

M
1. ối 1
1. li
6
5 ên


9

1.
2.
1.
2.
1.
2.
1.
2.
1.
2.
1.
2.
1.
2.
3.
1.
1.
2.
1.
2.
2.

1
2.
1.
2.
1.
2.
2
2.
3
2.
3.
2.
3.
2.
3.
2.
2.
3.
2.
3.
2.
3.
2.
3.
2.
3.
2.
3.
2.
4

2.
4.
2.
4.

C
ơ
T

K
in
K
in
K
in
T

M
ột
số
n
M
ột
B
ài
C
h
Đ
ặc
Đ

iề
Đ
iề
N
ội
P
h
P
h
P
h
P
h
ư
ơ
P
h
Q
ua
P
h
P
h
P
h
P
h
H

C

ác
N
h

1
7
1
7
2
0
2
0
2
3
2
5
2
5
2
7
3
2
3
4
3
4
3
4
3
5

3
7
3
7
3
7
3
7
3
7
3
9
3
9
3
9
3
9
3
9
3
9
4
0
4
0
4
0



10

2.
4.
2.
4.
2.
4.
3.
1
3.
1.
1
3.
1.
23.
2
3.
3
3.
3.
3.
3.
3.
3.
3.
3.
2
3.
3.

2.
3.
3.
2.
2
3.
3.
3.
3.
2.
3.
3.
2.

N
h
N
h
N
h
C
h
T
h

cM
ột
số
nM
ột

số
hT
h
Q
ua
n
đi

Q
ua
Q
ua
M

M
ột
số
gi
N
h
ó
m
N
h
ó
m
gi
N
h
N

h
ó
m
.
G
iả
i

4
0
4
0
4
0
4
1
4
1
4
1
4
8
5
3
5
9
5
9
5
9

6
1
6
1
6
1
6
2
6
3
6
4
6
5


11

N
h
ó
m
G
iả
i
p
G
iả
i
pK

ết
1 K
ết
2 K
iế
T
ài
P
h
3.
3.
2.
3.
3.
2.
3.
3.
2.

6
7
6
9
7
0
7
2
7
2
7

4
7
5


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông thôn
và gần 70% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Tính chung khu
vực nông thôn cả nước trong năm 2016, khu vực nông thôn có 17 triệu hộ
trong đó có khoảng 13 triệu hộ chuyên sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế
hộ có 53,7% hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản; 51,4% số người trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động hoạt động chính là sản xuất nông, lâm nghiệp
và thủy sản; 47,9% tổng số hộ có thu nhập chính từ nông, lâm nghiệp và thủy
sản. Vì thế đảm bảo nguồn lực và nâng cao thu nhập cho hộ gia đình là vấn đề
được quan tâm nhiều trong nông thôn khi mà hiện nay quá trình CNH - HĐH
ngày càng diễn ra với tốc độ nhanh chóng.
Huyện Thanh Sơn (tỉnh Phú Thọ) có tình hình phát triển kinh tế-xã hội
ổn định, cùng với quá trình phát triển kinh tế hội nhập, địa phương đã thu hút
được rất nhiều nhà đầu tư đặc biệt là khu vực đầu tư vốn nước ngoài như Hàn
Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc,… hình thành các khu công nghiệp trọng điểm
của tỉnh, góp phần đóng góp vào ngân sách nhà nước và tỉnh lớn nhất. Chính
vì vậy mà huyện Thanh Sơn là một trong các địa phương có tỷ lệ nghèo chiếm
7,34% và hộ cận nghèo chiếm 6,49%, chỉ đứng sau thành phố Việt Trì.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội có phần hội nhập
rất nhanh và mạnh làm cho các hộ gia đình thay đổi về nếp sống, sinh hoạt,
khả năng tự chủ tài chính, khả năng phát triển kinh tế hộ,... do các khu công
nghiệp xây dựng trên quỹ đất lớn nên làm cho các hộ dân sau khi thu hồi đất

phải chuyển đổi mô hình kinh tế hộ. Một bộ phận các hộ dân chưa kịp thích
nghi với khả năng thay đổi hành vi lao động nên làm cho nguồn lực của kinh
tế hộ như nguồn nhân lực, nguồn tài chính, nguồn vốn vật chất, nguồn vốn xã
hội, nguồn vốn tự nhiên bị hạn chế. Thu nhập và mức sống của các hộ dân cư
không đồng đều và còn thấp; Khu vực dân cư ở xa các khu công nghiệp còn
phụ thuộc vào ngành nông nghiệp là chủ yếu; sản xuất nông nghiệp còn nhỏ
lẻ, manh mún và công nghệ còn lạc hậu; Hiệu quả không có sự liên kết kinh
tế hộ nên mạnh ai người nấy làm, khả năng ứng dụng khoa học vào nông
nghiệp chưa mạnh; Chênh lệnh giàu


2

- nghèo giữa các vùng còn lớn đang là vấn đề bức xúc trong xã hội; Đời sống
và thu nhập của nông dân thấp; Đặc biệt nhiều bản sắc văn hóa nông thôn
truyền thống đang bị mất dần, môi trường sinh thái bị ảnh hưởng bởi tốc độ đô
thị hóa nhanh,... Xuất phát từ thực tế đó tôi lựa chọn thực hiện đề tài: “Nguồn
lực và thu nhập của hộ gia đình huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ” làm luận
văn tốt nghiệp thạc sỹ, luận văn có ý nghĩa sâu sắc góp phần ổn định đời sống,
nâng cao thu nhập và góp phần xây dựng nông thôn mới sớm về đích đạt đủ
các tiêu chí, góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến nguồn lực, hoạt
động sinh nhai và thu nhập của hộ gia đình nông thôn;
- Đánh giá thực trạng về nguồn lực và hoạt động sinh nhai của hộ gia
đình nông thôn tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ;
- Đánh giá thực trạng thu nhập của hộ gia đình nông thôn tại huyện
Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ;
- Quan điểm, mục tiêu và một số giải pháp chủ yếu góp phần cải thiện
nguồn lực, nâng cao thu nhập hộ gia đình nông thôn tại huyện Thanh Sơn,

tỉnh Phú Thọ.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Cập nhật và hệ thống hóa cơ sở lý luận, lý thuyết và thực tiễn những liên
quan đến nguồn lực, vốn nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông
thôn.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc đánh giá thực trạng nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông
thôn tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, cũng như phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông thôn tại huyện Thanh
Sơn, tỉnh Phú Thọ nhằm rút ra bài học cho việc cải thiện nguồn lực và nâng
cao thu nhập cho các hộ gia đình nông thôn. Tôi hy vọng rằng những giải
pháp mà đề tài đã đề xuất sẽ được chính quyền địa phương huyện Thanh Sơn
và những nơi khác có điều kiện tương tự có thể tham khảo, vận dụng và áp
dụng vào thực


3

tiễn địa phương để cải thiện nguồn lực bền vững, góp phần nâng cao thu nhập
cho các hộ gia đình nông thôn trên địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những liên quan đến nguồn lực và
thu nhập của hộ gia đình nông thôn tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Đối tượng điều tra khảo sát là hộ gia đình nông thôn, đó chính là hộ
nông dân bao gồm hộ thuần nông và hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi
nông nghiệp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn được nghiên cứu tại huyện Thanh Sơn, tỉnh

Phú Thọ. Số liệu thứ cấp được thu thập trên toàn bộ huyện. Số liệu sơ cấp
được thu thập ở cấp hộ gia đình nông thôn tại 3 xã đại diện là Cự Thắng, Cự
Đồng và Thắng Sơn.
- Về thời gian: Luận văn tập trung thu thập số liệu từ các năm 2016-2019.
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu nguồn lực và thu nhập của
hộ gia đình nông thôn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ qua các năm 20162019 và đề xuất giải pháp đến năm 2025. Hộ gia đình phân theo nghề nghiệp
bao gồm hộ nông nghiệp và hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông
nghiệp, nhằm đảm bảo rằng hộ nông thôn điều tra trong nghiên cứu này phải
có thu nhập về nông nghiệp. Phân tích nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình
nông thôn được thực hiện dựa theo phân loại kinh tế của hộ và nghề nghiệp
của chủ hộ với hai loại nghề nghiệp trên đây.


4

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Nguồn lực và nguồn lực của hộ gia đình
1.1.1.1. Nguồn lực
Nguồn lực là khái niệm rộng, nên có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau
cũng như phạm vi khác nhau.
Theo nghĩa hẹp, nguồn lực thường được hiểu là các nguồn lực vật chất
cho phát triển, ví dụ tài nguyên thiên nhiên, tài sản vốn bằng tiền,… Theo
nghĩa hẹp này thì nguồn lực có thể hiểu là tất cả những yếu tố đầu vào cần
thiết.
Theo nghĩa rộng, nguồn lực được hiểu gồm tất cả những lợi thế, tiềm
năng vật chất và phi vật chất để phục vụ cho một mục tiêu phát triển nhất định
nào đó. Tuỳ vào phạm vi phân tích, khái niệm nguồn lực được sử dụng rộng
rãi ở các cấp độ khác nhau: quốc gia, vùng lãnh thổ, phạm vi doanh nghiệp

hoặc từng chủ thể là cá nhân tham gia vào quá trình phát triển kinh tế,….
Trên phạm vi một lãnh thổ, một quốc gia thì nguồn lực là tổng thể vị trí
địa lí, không gian, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia,
nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn và thị trường,... ở cả trong nước và
ngoài nước có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế của
một lãnh thổ nhất định.
Cần chú ý rằng: Nguồn lực không phải là bất biến do nó có thể thay đổi
được, bởi vậy con người có thể làm thay đổi nguồn lực để phục vụ cho mục
đích của mình. Về phân loại, nguồn lực có thể được chia thành 2 nhóm:
- Nguồn lực trong nước (nội lực): bao gồm tất cả các nguồn lực bên trong
của một quốc gia.
- Nguồn lực bên ngoài (ngoại lực): bao gồm tất cả các nguồn lực bên
ngoài của một quốc gia, có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của
quốc gia đó. Đó là vốn, thị trường, khoa học kĩ thuật, xu thế phát triển,…


5

Nguồn lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia, lãnh thổ bởi các lý do chủ yếu sau đây:
- Vị trí địa lí tạo thuận lợi hay gây khó khăn trong việc trao đổi. tiếp cận
hay cùng phát triển giữa các vùng trong một nước, giữa các quốc gia với nhau.
- Nguồn lực tự nhiên là cơ sở tự nhiên của quá trình sản xuất. Đó là
những nguồn vật chất vừa phục vụ trực tiếp cho cuộc sống, vừa phục vụ cho
phát triển kinh tế. Sự giàu có và đa dạng về tài nguyên thiên nhiên tạo lợi thế
quan trọng cho sự phát triển.
- Nguồn lực kinh tế - xã hội nhất là dân cư và nguồn lao động, nguồn
vốn, khoa học - kĩ thuật và công nghệ, chính sách toàn cầu hóa, khu vực hóa
và hợp tác, có vai trò quan trọng để lựa chọn chiến lược phát triển phù hợp với
điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn.

Hiểu biết và đánh giá đúng cũng như biết huy động tối đa các nguồn lực
sẽ thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Các nước đang phát
triển muốn nhanh chóng thoát khỏi tụt hậu cần phát hiện và sử dụng hợp lí các
nguồn lực sẵn có trong nước đồng thời kết hợp với sự hỗ trợ của các nước
phát triển.
1.1.1.2. Nguồn lực hộ gia đình
Nguồn lực của hộ gia đình là tất cả những gì liên quan đến nhân lực của
hộ, vật chất, vật lực, tài sản, vốn, đất đai, phương tiện sản xuất, máy móc thiết
bị, khoa học kỹ thuật,…
Đối với hộ gia đình, rõ ràng là có mối liên hệ giữa nguồn lực của hộ gia
đình và sinh nhai của hộ (hay còn gọi là sinh kế của hộ), và được hiểu là
những thứ cần thiết để đảm bảo đời sống của các thành viên trong hộ gia đình.
Trong phạm vi của nghiên cứu này, tác giả xin tập trung nghiên cứu một số
nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình nông thôn (hay còn gọi tắt là nông hộ)
như: Học vấn chủ hộ, nhân lực (nhân khẩu, lao động, số lượng lao động, lao
động đào tạo,…), đất đai, vốn sản xuất, vay vốn,...


6

1.1.2. Hộ nông thôn và hộ nông dân
1.1.2.1. Khái niệm hộ nông thôn, hộ nông dân
Hộ nông thôn trong nghiên cứu này được hiểu đó là hộ nông dân, tuy
rằng ở nông thôn còn có nhóm hộ không thuộc nông dân (như nhóm hộ cán bộ
viên chức, lực lượng võ trang, hộ phi nông nghiệp,… chẳng hạn). Cho đến nay
có nhiều cách hiểu khác nhau về hộ nông dân. Nói đến sự tồn tại của hộ nông
dân (còn được gọi tắt là nông hộ) trong nền kinh tế trước hết cần thấy rằng:
Hộ nông dân không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất các các nước có nền sản
xuất nông nghiệp trên thế giới. Hộ nông dân đã tồn tại qua nhiều phương thức
và vẫn đang tiếp tục phát triển.

Như vậy, hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề sản
xuất chính là nông nghiệp, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu bằng nghề
nông. Ngoài hoạt động nông nghiệp, hộ nông dân còn tham gia các hoạt động
phi nông nghiệp như (tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ,...) ở các
mức độ khác nhau. Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở,vừa là một đơn
vị sản xuất vừa là một đơn vị tiêu dùng. Như vậy, hộ nông dân không thể là
một đơn vị kinh tế độc lập tuyệt đối và toàn năng, mà còn phải phụ thuộc vào
các hệ thống kinh tế lớn hơn của nền kinh tế quốc dân. Theo tác giả Lê Anh
Vũ và Nguyễn Đức Đồng (2017): Khi trình độ phát triển lên mức cao của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thị trường, xã hội càng mở rộng và đi vào
chiều sâu, thì các hộ nông dân càng phụ thuộc nhiều hơn vào các hệ thống
kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vi một vùng, một lãnh thổ, một nước.
Điều này càng có ý nghĩa đối với các hộ nông dân nước ta hiện nay.
Cùng với khái niệm hộ nông dân, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm hộ gia
đình. Hộ gia đình hay còn gọi đơn giản là hộ, là một đơn vị xã hội, một tế bào
xã hội, bao gồm một hay một nhóm người ở chung và ăn chung (nhân khẩu).
Đối với những hộ có từ 2 người trở lên, các thành viên trong hộ có thể có hay
không có quỹ thu chi chung hoặc thu nhập chung. Hộ gia đình không đồng
nhất


7

với khái niệm gia đình, những người trong hộ gia đình có thể có hoặc không
có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hoặc hôn nhân hoặc cả hai.
Cần chú ý rằng trong hộ gia đình có chủ hộ, là người có vai trò điều
hành, quản lý gia đình, giữ vị trí chủ yếu, quyết định những công việc của hộ.
Đề tài này thu thập thông tin hộ gia đình thông qua chủ hộ.
1.1.2.2. Phân loại hộ nông dân
Hộ nông dân hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá phụ

thuộc rất nhiều vàotrìnhđộ sản xuất kinh doanh, khả năng kỹ thuật,quyền làm
chủ những tư liệu sản xuất và mức độ vốn đầu tư của mỗi hộ gia đình. Việc
phân loại hộ nông dân có căn cứ khoa học sẽ tạo điều kiện để xây dựng chính
sách tín dụng phù hợp nhằm đầu tư đem lại hiệu quả.
Hộ nông dân có thể chia thành: (1) Hộ thuần nông: Là những hộ gia
đình mà việc làm của mọi thành viên trong hộ thuộc khu vực nông nghiệp; (2)
Hộ sản xuất kinh doanh: là những hộ gia đình mà việc làm của mọi thành viên
trong hộ thuộc khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ; (3) Hộ nông nghiệp
– làm công: là những hộ gia đình mà việc làm của các thành viên trong hộ vừa
thuộc khu vực nông nghiệp vừa là làm công ăn lương; (4) Hộ nông nghiệp –
sản xuất kinh doanh: là những hộ gia đình mà việc làm của các thành viên
trong hộ vừa thuộc khu vực nông nghiệp vừa thuộc khu vực công nghiệp hoặc
khu vực dịch vụ, hoặc thuộc cả ba khu vực; (5) Hộ sản xuất kinh doanh - làm
công: là những hộ gia đình mà việc làm của các thành viên trong hộ vừa
thuộc khu vực công nghiệp, dịch vụ vừa là làm công ăn lương; (6) Hộ nông
nghiệp - sản xuất kinh doanh - làm công, gọi chung là hộ hỗn hợp: Là những
hộ gia đình mà việc làm của các thành viên trong hộ vừa thuộc khu vực nông
nghiệp vừa thuộc khu vực công nghiệp, dịch vụ, vừa có làm công ăn lương.
Trong phạm vi của nghiên cứu này, chúng tôi tập trung điều tra 2 nhóm hộ
khác nhau về nghề nghiệp là nhóm hộ thuần nông và nhóm hộ hỗn hợp kiêm
cả nông nghiệp và phi nông nghiệp.


8

Trên thực tế hiện nay, dưới sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và hội
nhập, nghề nghiệp của hộ gia đình nông thôn đang có sự biến đổi nhanh
chóng. Rất khó có hộ thuần nông nghiệp với 100% thành viên gia đình đều
làm nghề nông, thuộc khu vực nông nghiệp, bởi sẽ có một bộ phận thanh
niên, thậm chí trung niên trong số các nhóm hộ này đã rời khỏi khu vực nông

nghiệp để làm việc bán thời gian, hoặc toàn bộ thời gian cho khu vực phi
nông nghiệp như làm công nhân ở các khu công nghiệp, làm thuê ở các khu đô
thị,… Trong phạm vi đề tài này, tác giả tập trung phân tích đánh giá hoạt động
sinh kế và thu nhập của các nhóm hộ khác nhau về nghề nghiệp là: Thuần
nông nghiệp, hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp và hộ hoàn
toàn phi nông nghiệp.
- Căn cứ vào mức thu nhập của nông hộ người ta có thể chia thành các
nhóm hộ khác nhau về kinh tế như: Hộ giàu; Hộ khá; Hộ trung bình; Hộ cận
nghèo và hộ nghèo. Trong phạm vi nghiên cứu này, ở địa phương điều tra chỉ
có các nhóm hộ khá, trung bình, cận nghèo và nghèo. Không có nhóm hộ giàu.
Trong phạm vi đề tài này, tác giả sử dụng cách phân loại hộ theo kinh tế,
tức là thu nhập trên đây để so sánh, đánh giá các hoạt động sinh kế cũng như
thu nhập của các hộ gia đình nông thôn sinh sống trên địa bàn các xã Cự
Thắng, Cự Đồng, Thắng Sơn tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
1.1.3. Sinh nhai và hoạt động sinh nhai
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về sinh nhai (hay còn
thường được gọi là sinh kế). Theo một số tác giả, sinh kế bao gồm năng lực
tiềm tàng, tài sản (gồm các nguồn lực vật chất và xã hội như: Cửa hàng, nguồn
tài nguyên, đất đai, mặt nước, đường xá, máy móc thiết bị phục vụ cho đời
sống của người dân,…) cùng các hoạt động cần thiết làm phương tiện để kiếm
sống của con người (trích theo Phạm Đăng Định, 2015).
Sinh nhai được hiểu đơn giản là phương tiện đảm bảo đời sống của con
người. Sinh nhai có thể được xem xét ở các mức độ khác nhau, trong đó phổ
biến nhất là sinh kế quy mô hộ gia đình. Sinh kế bao gồm năng lực, tài sản (dự


9

trữ, nguồn lực, yêu cầu, tiếp cận) và các hoạt động cần có để bảo đảm phương
tiện sinh sống.

Với quan điểm cho rằng sinh nhai là kế để kiếm sống, nên có thể hiểu
khái niệm sinh nhai và sinh kế một cách tương đồng với nhau. Hoạt động sinh
kế của nông hộ là hoạt động kiếm sống của con người, được thể hiện qua hai
lĩnh vực chính là nông nghiệp, gọi là hoạt động sinh kế nông nghiệp và hoạt
động sinh kế phi nông nghiệp. Tương ứng với hoạt động sinh nhai nông
nghiệp và hoạt động sinh nhai phi nông nghiệp là thu nhập về lĩnh vực nông
nghiệp (gọi tắt là thu nhập nông nghiệp) và thu nhập về lĩnh vực phi nông
nghiệp (gọi tắt là thu nhập phi nông nghiệp), sẽ được làm rõ trong mục tiếp
theo.
Hoạt động sinh kế nông nghiệp bao gồm: Trồng trọt (Lúa, ngô, khoai,
sắn, lạc, cây ăn quả, rau màu,…); Chăn nuôi (Lợn, gà, trâu, bò, cá,…) và lâm
nghiệp

(Trồng cây keo, bạch đàn, mỡ, rừng,…).

Hoạt động sinh kế phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu bao gồm các
dịch vụ, buôn bán và các ngành nghề khác.
Như vậy, trong phạm vi đề tài này, hoạt động sinh kế của người dân
nông thôn được hiểu là các hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp
để nuôi sống cho chính gia đình họ. Vì vậy, cải thiện sinh kế bền vững chính là
việc cải thiện, cải tiến các hoạt động sinh kế về trồng trọt, chăn nuôi và các
hoạt động phi nông nghiệp, nâng cao thu nhập, góp phần phát triển kinh tế và
xóa đói giảm nghèo. Triết lý đối với hoạt động sinh kế là: những hoạt động
sinh kế nào càng được nhiều hộ gia đình lựa chọn và phát triển thì những hoạt
động sinh kế đó càng quan trọng đối với cộng đồng địa phương. Về quy mô,
hoạt động sinh kế thường được đánh giá thông qua chỉ tiêu số hộ hoặc tỷ lệ hộ
có hoạt động sinh kế, diện tích cây trồng bình quân hộ, số đầu gia súc bình
quân hộ, diện tích ao cá bình quân hộ,…



10

Sinh kế bền vững không được khai thác hoặc gây bất lợi cho môi trường
hoặc cho các sinh kế khác ở hiện tại và tương lai. Trên thực tế thì nó nên thúc
đẩy sự hòa hợp giữa chúng và mang lại những điều tố đẹp cho tương lai.
Sinh kế bền vững, nếu theo nghĩa này, phải hội đủ những nguyên tắc
sau: Lấy con người làm trung tâm, dễ tiếp cận, có sự tham gia của người dân,
xây dựng dựa trên sức mạnh con người và đối phó với các khả năng dễ bị tổn
thương, tổng thể, thực hiện ở nhiều cấp, trong mối quan hệ với đối tác, bền
vững và năng động.
Tiếp cận sinh kế thì cần tập trung trước hết và đầu tiên với con người.
Nó cố gắng đạt được sự hiểu biết chính xác và thực tế về sức mạnh của con
người (tài sản hoặc tài sản vốn) và cách họ cố gắng biến đổi chúng thành kết
quả sinh kế hữu ích (trích theo Phạm Đăng Định, 2015).
Cần chú ý rằng, khái niệm hoạt động sinh kế trong đề tài này hoàn toàn
phù hợp với khái niệm sinh nhai, nên nhiều khi có chỗ tác giả sử dụng thuật từ
“sinh nhai”, có lúc lại sử dụng thuật từ “sinh kế”, thì đó cũng là điều dễ hiểu.
Một điểm nữa cũng cần chú ý là có một sự liên hệ giữa sinh nhai và
nguồn lực của hộ gia đình hay cộng đồng địa phương và với thu nhập hộ gia
đình. Những điểm khá lý thú này sẽ được tiếp tục thảo luận trong những mục
tiếp theo của nghiên cứu này.
1.1.4. Thu nhập của hộ gia đình
1.1.4.1. Vai trò của thu nhập trong hộ gia đình
Chúng ta đều biết: Mức sống dân cư cao hay thấp, sự phân hóa giàu
nghèo, chênh lệch giữa hộ giàu và hộ nghèo,... phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó quan trọng nhất là mức thu nhập của từng hộ gia đình. Vì vậy, thu
nhập của gia đình sẽ quyết định quy mô và cơ cấu tiêu dùng của hộ gia đình.
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế ở Việt Nam đã sử dụng chỉ tiêu thu nhập
hỗn hợp để đánh giá thu nhập của hộ gia đình. Theo đó, thu nhập hỗn hợp của
nông hộ là phần thu được sau khi lấy tổng thu trừ đi chi phí vật chất, trừ đi

tiền công thuê ngoài và trừ chi phí khác (bao gồm thuế, khấu hao tài sản cố
định,...).


11

Vận dụng các quan điểm này, thu nhập của nông hộ ở địa bàn nghiên cứu
được xác định là phần thu còn lại của tổng thu sau khi trừ đi chi phí vật chất
và dịch vụ, khấu hao và thuế để có được khoản thu đó. Nguồn thu của hộ gia
đình bao gồm các khoản thu từ (1) Tiền lương, tiền công; (2) Hoạt động sản
xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi); (3) Các hoạt động thủy sản (đánh
bắt và nuôi trồng); (4) Các hoạt động lâm nghiệp; (5) Hoạt động thương mại,
công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn (viết tắt là ngành nghề) và (6) Các khoản
thu khác (trợ cấp, cho, biếu, tặng,...).
1.1.4.2. Cơ cấu thu nhập của hộ gia đình
Thu nhập của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và
các thành viên của hộ nhận được trong một thời gian nhất định (thường là một
năm), bao gồm: (1) Thu từ tiền công, tiền lương; (2) Thu từ sản xuất nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản (đã trừ chi phí sản xuất và thuế sản xuất); (3) Thu từ sản
xuất ngành nghề phi nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (đã trừ chi phí sản xuất và
thuế sản xuất); (4) Thu khác được tính vào thu nhập (không tính tiền rút tiết
kiệm, bán tài sản, vay thuần tuý, thu nợ và các khoản chuyển nhượng vốn
nhận được).
Thu nhập của hộ = Tổng thu của hộ - Tổng chi phí vật chất và dịch vụ
sử
dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ.
Thu nhập bình quân một nhân khẩu được tính bằng cách chia tổng thu
nhập trong năm của hộ gia đình cho số nhân khẩu của hộ.
Thu nhập là giá trị thu được (quy ra thóc hoặc tiền) sau khi đã trừ đi chi
phí trung gian, tức là chi phí vật chất và khấu hao tài sản cố định.

- Thu nhập hỗn hợp (MI): Là phần thu nhập thuần túy của người sản
xuất bao gồm cả công lao động và lợi nhuận thu được do người sản xuất trong
một chu kỳ sản xuất trên quy mô diện tích. Thu nhập hỗn hợp gồm cả thu
nhập về nông nghiệp, thu nhập về phi nông nghiệp và các khoản thu khác của
hộ gia đình. Trong đề tài này, thu nhập hỗn hợp được hiểu là tổng thu nhập,
bao gồm cả thu nhập về nông lâm nghiệp thủy sản (gọi tắt là thu nhập nông
nghiệp), các


12

khoản thu từ tiền công, tiền lương, thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp
và các khoản thu khác.
MI = GO – IC – TSX – C1
MI: Thu nhập hỗn hợp
GO: Giá trị sản xuất (của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong 1 thời
kỳ nhất định của hộ, thường là 1 năm).
IC: Chi phí trung gian
TSX: Thuế sản xuất
C1: Khấu hao tài sản cố định
- Thu nhập ổn định: Là khả năng tạo thu nhập một cách ổn định, lâu dài
qua các năm, đảm bảo ổn định cuộc sống lâu dài thông qua các hoạt động sản
xuất, kinh doanh của hộ.
- Phân loại thu nhập: theo mức độ, thì thu nhập bao gồm: Thu nhập
thường xuyên và thu nhập không thường xuyên.
+ Thu nhập thường xuyên: Là các khoản thu nhập có tính chất lặp đi lặp
lại và ổn định như: Tiền lương, tiền trợ cấp, các khoản thu nhập do các tổ chức
cá nhân chi trả,…
+ Thu nhập không thường xuyên: Là các khoản thu nhập không ổn định,
đột xuất như: Quà biếu tặng, thu nhập từ các hoạt động khoa học,…

Cơ cấu là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện chức năng của
chỉnh thể. Như vậy có thể hiểu cơ cấu thu nhập trên bình diện theo các loại tổ
chức thành phần. Tuy nhiên ở đây xét chủ thể của thu nhập là các hộ gia đình,
các nhóm xã hội tạo nên thu nhập. Vậy cơ cấu của nhóm xã hội đó là các yếu
tố xã hội như nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, học vấn.
Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng được tính bằng cách chia tổng
thu nhập trong năm của hộ dân cư cho số nhân khẩu của hộ và chia cho 12
tháng.


×