ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-----------------------
HOÀNG THỊ MAI
VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC HỌC SINH Ở TRƯỜNG THCS HOÀNG
VĂN THỤ HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-----------------------
HOÀNG THỊ MAI
VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC HỌC SINH Ở TRƯỜNG THCS HOÀNG
VĂN THỤ HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Cán bộ hướng dẫn Khoa học: TS. NGÔ THỊ THU TRANG
THÁI NGUYÊN - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học “Văn hóa ứng xử trong một số
truyện thơ Nôm Tày và vấn đề giáo dục học sinh ở Trường THCS Hoàng Văn
Thụ, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn” dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Ngô Thị
Thu Trang là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong
luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Thái nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Mai
i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn là một phần kết quả nghiên cứu của dự án:“Những vấn đề cấp
bách về bảo tồn và phát huy các giá trị văn học cổ truyền dân tộc thiểu số Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển” (Ủy ban dân tộc là cơ quan chủ
quản, Viện NCXH và NVNM là cơ quan chủ trì, TS. Trần Thị Ngọc Anh chủ
nhiệm), mã số CTDT.30.17/16-20.
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến TS. Ngô
Thị Thu Trang – người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi về tri thức, phương
pháp và kinh nghiệm nghiên cứu suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, Phòng Đào tạo - Trường Đại học Sư
phạm - Đại học Thái Nguyên, Trung tâm học liệu - Đại học Thái Nguyên, Thư
viện Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới người thân, đồng
nghiệp, bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành tốt khóa học này.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Mai
ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu............................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 10
6. Đóng góp mới của luận văn........................................................................... 10
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 11
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN........................................................................................12
1.1. Khái niệm văn hóa và văn hóa ứng xử ....................................................... 12
1.1.1. Văn hóa.................................................................................................... 12
1.1.2. Văn hóa ứng xử ....................................................................................... 13
1.2. Vài nét về văn hóa ứng xử trong văn học trung đại Việt Nam................... 14
1.3. Khái quát về truyện thơ Nôm Tày .............................................................. 21
1.3.1. Khái niệm................................................................................................. 21
1.3.2. Nội dung và nghệ thuật............................................................................ 23
1.4. Vài nét về Trường THCS Hoàng Văn Thụ, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc
Kạn.... 24
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 26
Chương 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG
MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY ........................................................... 28
2.1. Văn hóa ứng xử trong gia đình................................................................... 28
2.1.1. Văn hóa ứng xử trong mối quan hệ cha mẹ - con cái.............................. 28
2.1.2. Văn hóa ứng xử trong mối quan hệ vợ chồng ......................................... 42
3
2.1.3. Văn hóa ứng xử trong mối quan hệ anh chị em ...................................... 55
2.2. Văn hóa ứng xử ngoài xã hội...................................................................... 59
2.2.1. Văn hóa ứng xử trong mối quan hệ giữa bề dưới với bề trên ................. 59
2.2.2. Văn hóa ứng xử trong mối quan hệ bạn bè ............................................. 64
2.2.3. Văn hóa ứng xử trong mối quan hệ giữa người chịu ơn và người làm ơn ....
70
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 73
Chương 3: TÍCH HỢP GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ TỪ
TRUYỆN THƠ NÔM TÀY CHO HỌC SINH TRƯỜNG THCS
HOÀNG VĂN THỤ, HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN .................... 75
3.1. Một số nguyên tắc tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử từ truyện thơ
Nôm Tày cho học sinh....................................................................................... 75
3.2. Đề xuất các biện pháp tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử từ truyện thơ
Nôm Tày cho học sinh Trường THCS Hoàng Văn Thụ, huyện Chợ Đồn,
tỉnh Bắc Kạn ...................................................................................................... 77
3.2.1. Xây dựng hệ thống bài tập....................................................................... 77
3.2.2. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa .......................................................... 82
3.2.3. Thực hiện chuyên đề học tập................................................................... 84
3.3. Thiết kế thể nghiệm một chuyên đề học tập tích hợp giáo dục văn hóa ứng
xử từ truyện thơ Nôm Tày cho học sinh Trường THCS Hoàng Văn Thụ..............
86
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 93
KẾT LUẬN....................................................................................................... 95
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .......................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 101
4
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Truyện thơ Nôm Tày là một bộ phận đặc biệt của văn học dân tộc thiểu số
nói riêng, của văn học Việt Nam nói chung. Có thể nói, truyện thơ Nôm Tày là
một trong những thể loại văn học tiêu biểu với số lượng tác phẩm khá phong
phú và nội dung phản ánh muôn mặt đời sống xã hội của đồng bào dân tộc Tày.
Trong các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày, giá trị văn học và văn hóa hòa quyện
đan xen vào nhau. Những giá trị văn học,văn hóa đó cần được bảo tồn và phát
huy trong đời sống hiện nay.
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi, vùng cao, nơi quần tụ nhiều dân tộc anh em
cùng sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm 53% dân số toàn tỉnh. Văn hóa của
mỗi tộc người bao hàm nhiều yếu tố và chứa đựng những giá trị riêng. Ngoài
những nét đặc trưng tiêu biểu về phong tục tập quán, một số tộc người ở Bắc
Kạn còn có chữ viết riêng, trong đó có chữ Nôm của dân tộc Tày. Trong đời
sống hàng ngày, họ sử dụng tiếng Tày là chủ yếu, còn chữ Nôm rất ít khi sử
dụng mà chỉ dùng trong các buổi lễ cúng bái hay ghi chép các truyện thơ Nôm,
ca dao, tục ngữ… Trong đời sống văn hóa người dân Tày tỉnh Bắc Kạn, truyện
thơ Nôm có ý nghĩa to lớn, là niềm tự hào vì đó là thứ chữ viết riêng, ngôn ngữ
riêng của dân tộc. Các sáng tác truyện thơ Nôm Tày góp phần làm phong phú
thêm nền văn học dân tộc. Ngoài ra qua các truyện thơ Nôm Tày con người học
được những giá trị chân thiện mĩ được gửi gắm qua tác phẩm, hướng con người
đến lối sống tích cực, nhân văn. Truyện thơ Nôm có ý nghĩa giáo dục to lớn đối
với các thế hệ người dân Tày, trong đó có giá trị giáo dục về văn hóa ứng xử.
Văn hóa ứng xử được tập hợp, kết tinh từ đời sống, từ những phong tục, tập
quán truyền thống, được tích lũy, trao truyền từ đời trước cho đời sau.Vì vậy nó
có giá trị nhân văn sâu sắc và đặc biệt quan trọng trong đời sống thường nhật
của người dân Tày. Với người dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn, văn hóa ứng xử của
họ mang đặc tính của cư dân miền núi, phản ánh đặc trưng văn hoá tộc người
1
trên mọi phương diện của cuộc sống. Không chỉ có ý nghĩa khẳng định sự riêng
biệt về tư duy, quan điểm, chữ viết của người dân tộc Tày, truyện thơ Nôm Tày
còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với lứa tuổi học sinh trên địa bàn tỉnh Bắc
Kạn. Truyện thơ Nôm Tày làm phong phú thêm đời sống tinh thần của học
sinh, giáo dục ý thức tự hào về truyền thống dân tộc, tự giác nâng cao ý thức
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, truyện thơ Nôm
Tày còn giáo dục học sinh văn hóa ứng xử với thiên nhiên, văn hóa ứng xử
trong cộng đồng làng bản và xã hội, văn hóa ứng xử trong mỗi gia đình…
Với mong muốn khẳng định ý nghĩa giáo dục văn hóa ứng xử của truyện
thơ Nôm Tày đồng thời vận dụng những nét đẹp văn hóa ứng xử đó trong công
tác giáo dục học sinh, chúng tôi lựa chọn đề tài “Văn hóa ứng xử trong một số
truyện thơ Nôm Tày và vấn đề giáo dục học sinh ở trường THCS Hoàng Văn
Thụ huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hiện nay văn học các dân tộc thiểu số nói chung, văn học dân tộc Tày nói
riêng luôn thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Đặc
biệt, truyện thơ Nôm Tày với sự phong phú về số lượng tác phẩm và giá trị về
nhiều mặt đã trở thành đối tượng quan tâm không chỉ của các trí thức bản tộc
mà còn của nhiều nhà nghiên cứu trên cả nước. Đến nay đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về bộ phận văn học này.
2.1. Các công trình sưu tầm, giới thiệu và chuyển dịch truyện thơ Nôm Tày
sang tiếng Việt
Từ trước đến nay đã có nhiều tác phẩm truyện thơ Nôm Tày được sưu
tầm, giới thiệu và chuyển dịch sang tiếng Việt. Chúng ta có thể kể đến các công
trình như: Truyện thơ Tày - Nùng (Nông Quốc Chấn giới thiệu, Nxb Văn học,
1961-1963); Nam Kim - Thị Đan (Vũ Khoanh sưu tầm, Hoàng Hưng hiệu đính;
Ty văn hóa Cao Bằng xuất bản, 1961); Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Tập
6: Văn học dân tộc thiểu số, Quyển 1 (Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu,
2
Mạc Phi biên soạn, Nxb Văn hóa, 1962); Đính Quân. Truyện thơ Tày - Nùng
(Nxb Dân tộc Việt Bắc, 1963); Truyện thơ Tày - Nùng, tập 1, Hoàng An Định
dịch, Hoàng Quyết hiệu đính và giới thiệu, Nxb Văn học, 1964); Tần
Chu: Truyện thơ Tày, Nùng (Cần Slao Slec chú thích, Nông Phúc Tước giới
thiệu, Nxb Văn hóa dân tộc, 1978); Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập 6 Quyển
2: Văn học dân tộc ít người (in lần 2) ( Nông Quốc Chấn, Hoàng Thao, Hà
Văn Thơ biên soạn, Nxb Văn học, 1981); Tam Mậu Ngọ: Truyện thơ Tày
(Bế Sĩ Uông và Ma Trường Nguyên sưu tầm, phiên âm và dịch chú, Sở Văn
hóa thông tin Bắc Thái xuất bản, 1983); Tuyển tập văn học các dân tộc ít
người ở Việt Nam (Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 1992);
Nam Kim - Thị Đan: Truyện thơ Nôm dân tộc Tày (Hoàng Quyết sưu tầm,
dịch và chú thích, Nxb Văn hóa dân tộc, 1994); Truyện thơ Nôm Tày (Hoàng
Quyết, Hoàng Triều Ân sưu tầm, dịch, chú thích, giới thiệu, Nxb Văn hóa
dân tộc, 2004); Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc. Tập 1: Tày - Nùng
- Sán Cháy (Đặng Văn Lung, Trần Thị An biên soạn, Nxb Văn hóa dân tộc,
1995); Tổng tập văn học Việt Nam (Tập 39, 40 do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên
giới thiệu truyện thơ Tày, Nxb Khoa học xã hội, 2000); Chữ Nôm Tày và
truyện thơ (Triều Ân chủ biên, Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản,
2003); Tử thư - Văn Thậy (Hà Thị Bình dịch và giới thiệu, Nxb Khoa học xã
hội, 2005);
Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại (Triều Ân dịch và giới thiệu,
Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản,
2004); Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 21, 22;
Truyện thơ (Viện Nghiên cứu văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, 2008)…
Các công trình này đã dịch và giới thiệu được một số truyện thơ Tày như:
Đính Quân (Hán Đính), Quảng Tân - Ngọc Lương, Trần Châu (Tần Chu),
Nam Kim - Thị Đan, Truyện Chim Sáo, Lưu Đài - Hán Xuân, Tam Mậu
Ngọ, Lương Nhân, Nhân Lăng, Bjoóc Lả, Chiêu Đức, Lý Thế Khanh, Nho
Hương, Quảng Tân - Ngọc Lương, Truyện Nàng Kim, Truyện Nàng Hán,
3
Truyện Nàng Quyển, Truyện Nàng Ngọc Long, Truyện Nàng Ngọc Dong…
Các nhà nghiên
4
cứu cũng nhận thấy hạn chế của những bộ sách xuất bản trước là chỉ có phần
bản dịch tiếng Việt mà chưa xuất bản được bằng song ngữ (tiếng mẹ đẻ và
tiếng Việt). Hạn chế này đã dần được các bộ sách xuất bản sau khắc phục. Đặc
biệt phải kể đến một bộ sách khá đồ sộ là sản phẩm của Chương trình sưu tầm,
bảo quản, số hóa, nghiên cứu khai thác chữ viết cổ truyền các dân tộc thiểu số
ở Việt Nam do Viện nghiên cứu Hán Nôm chủ trì, phối hợp với Viện Dân tộc
học và Viện Từ điển học và Bách khoa thư thực hiện. Chương trình đã tiến
hành sưu tầm, dịch chú, giới thiệu và xuất bản bộ Tổng tập truyện thơ Nôm các
dân tộc thiểu số Việt Nam gồm 19 tập truyện thơ Nôm Tày với gần 40 tác
phẩm. Trong công trình này, các tác phẩm đã được giới thiệu bằng chữ viết cổ
truyền (Nôm Tày), phiên âm tiếng dân tộc và bản dịch tiếng Việt.
2.2. Các công trình nghiên cứu, phê bình truyện thơ Nôm Tày
Năm 2003, Hoàng Triều Ân trong cuốn Chữ Nôm Tày và thể loại truyện
thơ đã nhận định về thời điểm ra đời truyện thơ Tày: “Suy nghĩ tìm tòi truyện
thơ Tày xuất hiện từ bao giờ, ta thấy có nét chung là xuất hiện từ sau khi có
văn tự Nôm Tày (là thế kỉ thứ V); đi vào cụ thể từng pho truyện ta sẽ thấy sự
xuất hiện khác nhau về thời điểm, ta cần đọc xem xét nội dung truyện cũng như
bối cảnh lịch sử, tương quan lịch sử của truyện đó” [2; 32-33]. Luận án PTS.
Khoa học Ngữ văn của Lê Trường Phát Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân
tộc thiểu số Việt Nam (1997) được coi là một trong số những công trình quan
trọng làm nền tảng lí luận nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày. Luận án đã đi sâu
tìm hiểu kết cấu cốt truyện, nhân vật và một số phương diện ngôn ngữ trong
truyện thơ các dân tộc thiểu số. Nhà nghiên cứu Hoàng Triều Ân đã thể hiện sự
quan tâm đặc biệt đến truyện thơ Tày qua hai công trình Ba áng thơ Nôm Tày
và thể loại và Chữ Nôm Tày và thể loại truyện thơ (Nxb Văn học - Trung tâm
nghiên cứu Quốc học, 2003). Bằng sự am hiểu về ngôn ngữ và văn hóa Tày,
Hoàng Triều Ân đã đưa ra những nhận định mang tính khái quát: “Truyện phải
có tình tiết, có những mối quan hệ giữa các nhân vật trong truyện; thường chia
5
hai tuyến nhân vật. Truyện thường dùng tự sự, có vận dụng thêm lời đối thoại,
miêu tả nội tâm nhân vật, ngoại cảnh, có cả hình ảnh (nếu cần)… tập trung lại
để miêu tả được tính cách nhân vật trong truyện của hai tuyến đối lập” [3; 35].
Năm 2007, tác giả Kiều Thu Hoạch trong công trình nghiên cứu Truyện Nôm
lịch sử phát triển và thi pháp thể loại (Nxb Giáo dục, Hà Nội) đã chỉ ra mối
quan hệ giữa truyện thơ Nôm Kinh với truyện thơ Tày với biểu hiện là sự tương
đồng ở câu mở đầu, câu kết thúc truyện, ở phong cách ngôn ngữ thơ pha tạp
không thuần nhất.
Phan Đăng Nhật trong Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam xếp truyện
thơ vào loại hình văn học hát. Ông chia truyện thơ các dân tộc ít người thành ba
loại đề tài: truyện thơ về tình yêu, về sự nghèo khổ và về chính nghĩa. Tác giả
cũng đưa ra nhận định về truyện thơ: “Truyện thơ bắt nguồn từ dân ca và
truyện kể, đã phát huy những đặc điểm về nghệ thuật của các loại hình này, do
đó vừa có khả năng diễn tả mọi tình cảm tinh vi, phức tạp, lại vừa hấp dẫn
người nghe bằng phương pháp kể truyện lý thú... Giữa truyện thơ miền núi và
truyện thơ Nôm miền xuôi có những nét tương đồng về các mặt: tư tưởng chủ
đạo, xây dựng nhân vật, kết cấu tác phẩm và các thủ pháp nghệ thuật thường
dùng.... Truyện thơ đánh dấu một bước phát triển cao của văn học cổ truyền
các dân tộc thiểu số. Ở loại hình này các dân tộc đã đạt được những thành tựu
xuất sắc về chất lượng cũng như về số lượng. Truyện thơ đã tập hợp tinh hoa
các loại, thể văn học, đồng thời cũng ảnh hưởng sâu sắc đến các loại, thể phát
triển sau nó” [21; 209].
Võ Quang Nhơn thì quan niệm truyện thơ là cầu nối giữa văn học dân gian
và văn học thành văn. Trong cuốn Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt
Nam tác giả đã chia truyện thơ thành 4 nhóm sau: nhóm truyện thơ gắn với sinh
hoạt nghi lễ dân gian, tiêu biểu như: Khảm hải (Vượt biển); nhóm truyện thơ kế
thừa truyền thống tự sự của truyện cổ dân gian các dân tộc như: Chim sáo, Kim
Quế; nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống trữ tình của thơ ca dân gian các dân
6
tộc như: Nam Kim - Thị Đan; nhóm truyện thơ thiên về thuyết giáo đạo đức của
truyện thơ Nôm Kinh như: Lưu Đài - Hán Xuân, Trần Châu - Quyển Vương,
Quảng Tân - Ngọc Lương. Sau khi phân tích các đặc điểm thể loại, tác giả đưa
ra nhận định chung: “Truyện thơ một mặt kế thừa và phát triển truyền thống tự
sự và trữ tình của truyện cổ và thơ ca dân gian, một mặt tiếp thu ảnh hưởng
của nền văn hóa bác học và đặc biệt là của văn học bác học Việt. Từ những sự
kế thừa và chịu ảnh hưởng về nhiều mặt đó, các nghệ nhân dân gian và các trí
thức dân tộc đã sáng tạo nên một thể loại văn học dân gian mới, với nội dung
bề thế hơn về dung lượng, với nghệ thuật được trau chuốt và hoàn thiện hơn. Ở
một số dân tộc ít người, thể loại truyện thơ đánh dấu bước phát triển mới của
văn học dân gian. Nó phản ảnh quá trình vận động, biến chuyển của văn học
dân gian các dân tộc ít người, tiến tới tiếp cận và đi dần vào quỹ đạo của nền
văn học thành văn của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam” [25; 393].Võ Quang
Nhơn cũng cho rằng một trong những tiền đề để truyện thơ ra đời là “sự phân
biệt giàu nghèo và theo đó là sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp” [25;
393]. Đề tài của truyện thơ “đề cập đến nhiều mặt trong hiện thực xã hội của
các dân tộc anh em: hoặc thân phận những đứa trẻ mồ côi; hoặc cuộc sống cực
nhục của những người lao động nghèo khổ; hoặc khát vọng lập công cứu
nước trả thù nhà của các chàng trai; hoặc các mốc lịch sử lớn trong đời sống
các dân tộc... Đặc biệt là đề tài về cuộc đấu tranh cho tự do yêu đương, cho
quyền sống của người phụ nữ trong lòng xã hội cũ là một đề tài khá phổ biến.
Đó là khát vọng dân chủ thiết tha, mãnh liệt của quần chúng trong lòng xã hội
phong kiến mà quyền sống con người bị chà đạp, bóp nghẹt nặng nề, được
phản ánh vào trong nền văn học truyền thống các dân tộc anh em” [25; 395396].
Nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn trong công trình Truyện thơ Tày - Nguồn
gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại đã trình bày một cách hệ thống về
nguồn gốc thể loại, xác lập và nêu lên giả thiết về lược đồ của quá trình phát
triển, phân tích thi pháp của thể loại truyện thơ Tày. Đây là công trình được
7
đánh giá cao về những đóng góp đối với việc nghiên cứu văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam.
Bên cạnh đó còn có những công trình bước đầu nghiên cứu và đưa ra
những nhận định về thời điểm xuất hiện truyện thơ Nôm Tày như Chữ Nôm
Tày và thể loại truyện thơ (Triều Ân chủ biên, Nxb Văn học, 2003); phân tích
một số vấn đề về nội dung và một số yếu tố nghệ thuật như Tử Thư - Văn Thậy
(Hà Thị Bình dịch và giới thiệu, Nxb Khoa học xã hội, 2005); đưa ra nhận xét
về kết cấu truyện thơ như Truyện thơ Tày - Nùng (Nông Quốc Chấn, Nxb Văn
học, 1964)… Nhận định về giá trị truyện thơ Nôm Tày, nhà nghiên cứu Lục
Văn Pảo cho rằng: “Truyện thơ Tày Nùng là tấm gương phản ánh cuộc sống
hiện thực và tâm tư nguyện vọng của dân tộc… Có thể nói truyện thơ Tày Nùng
là cái khung của văn học thành văn nơi đây. Chính nó mới là những tác phẩm
văn học với đúng nghĩa thực của nó” [26; 293].
Công trình Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam (gồm
23 tập), của Viện Nghiên cứu Văn hóa phối hợp với Nhà xuất bản Khoa học xã
hội tổ chức biên soạn và xuất bản trong 4 năm 2007 - 2010 được đánh giá là
quy mô, toàn diện và khoa học. Công trình này cung cấp cho người đọc cái
nhìn tổng thể nhất về khái niệm truyện thơ, những nét chung về truyện thơ, nội
dung và nghệ thuật của các truyện thơ cụ thể từ những đánh giá của các nhà
nghiên cứu có uy tín như Nguyễn Lộc, Võ Quang Nhơn, Kiều Thu Hoạch,
Phan Đăng Nhật, Lục Văn Pảo, Nông Quốc Chấn...
Truyện thơ Nôm Tày còn là đối tượng nghiên cứu của một số luận văn,
luận án thuộc các trường Đại học trong nước. Có thể kể đến những công trình
như: Truyện thơ Nôm Tày - Điểm nối giữa văn học dân gian và văn học Tày
(Hà Thị Bích Hiền, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2000);
Nghiên cứu so sánh các truyện thơ Nôm Tày cùng cốt truyện với truyện thơ
Nôm Kinh (Phạm Quốc Tuấn, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, 2014); Truyện thơ Lương Nhân trong đời sống văn hóa dân gian của
8
người Tày Bắc Kạn (Lương Thị Duyên, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên, 2006); Sự tương đồng và khác biệt về nội dung giữa truyện
thơ Tày và truyện thơ Thái (Triệu Thị Phượng, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại
học Sư phạm Thái Nguyên, 2009); Không gian và thời gian nghệ thuật trong
truyện thơ Tày (Mông Thị Bạch Vân, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên, 2011); Nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu Tương (Triệu
Thị Thanh Hương, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên,
2018); Hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày (Nguyễn
Thị Hồng Hảo, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên,
2019)… Nhìn chung các luận văn, luận án đã đi vào nghiên cứu các khía cạnh
nội dung, nghệ thuật của truyện thơ Nôm Tày hoặc đặt truyện thơ Nôm Tày
trong cái nhìn so sánh với truyện thơ Nôm Kinh … Tất cả những nghiên cứu
này ở mức độ khác nhau đã góp phần cung cấp thêm các góc nhìn đa dạng về
truyện thơ Nôm Tày.
Mặc dù trong thời gian qua, truyện thơ Nôm Tày đã được chú ý và thu hút
được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhiều trí thức bản tộc
nhưng đúng như nhận xét của tác giả Vũ Anh Tuấn, để có một công trình
“nghiên cứu chỉnh thể, hệ thống về truyện thơ Nôm Tày thì vẫn còn là một
thách thức” [39, 18].
Qua khảo sát, tiếp cận với các tài liệu có liên quan, chúng tôi nhận thấy
rằng truyện thơ Nôm Tày đã được nhiều học giả quan tâm, đầu tư nghiên cứu.
Những phát hiện sáng tạo và quan điểm được đề cập trong các công trình thật
sự là đóng góp lớn về mặt lí luận và thực tiễn trong công tác nghiên cứu truyện
thơ Nôm Tày. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào chọn
vấn đề văn hóa ứng xử trong truyện thơ Nôm Tày trong việc giáo dục học sinh
ở trường THCS làm đối tượng nghiên cứu chính. Do vậy đề tài này là một vấn
đề đáng được quan tâm và nghiên cứu.
9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ những biểu hiện của văn hóa ứng xử trong một số truyện thơ
Nôm Tày. Từ đó góp phần khẳng định giá trị của truyện thơ Nôm Tày trong
nền văn học các dân tộc thiểu số nói riêng và trong văn học Việt Nam nói
chung.
- Làm rõ những giá trị văn hóa (văn hóa ứng xử) cần được bảo tồn, phát
huy trong đời sống xã hội của người Tày hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử từ các
truyện thơ Nôm Tày cho học sinh Trường THCS Hoàng Văn Thụ, huyện Chợ
Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung thực hiện những
nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan.
- Khảo sát, thống kê những biểu hiện của văn hóa ứng xử trong truyện
thơ Nôm Tày.
- Phân tích, đánh giá văn hóa ứng xử trong truyện thơ Nôm Tày.
- Thực trạng trong giáo dục văn hóa ứng xử từ các truyện thơ Nôm Tày
cho học sinh ở Trường THCS Hoàng Văn Thu, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là Văn hóa ứng xử trong một số
truyện thơ Nôm Tày; chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu những nét đẹp trong văn
hóa ứng xử của con người trong các mối quan hệ gia đình và xã hội.
- Vấn đề giáo dục văn hóa ứng xử từ các truyện thơ Nôm Tày cho học
sinh Trường THCS Hoàng Văn Thụ huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
10
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi đối tượng nghiên cứu:
Truyện thơ Nôm Tày có số lượng tác phẩm rất nhiều, với thời gian và
khuôn khổ có hạn của một luận văn thạc sĩ chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu
vấn đề văn hóa ứng xử trong một số truyện như: Nhân Lăng, Lưu Đài - Hán
Xuân, Lưu Tương, Nàng Ngọc Long, Lý Lan - Thị Dung, Trương Hán - Mẫu
Đơn, Lưu Bình - Dương Lễ, Nàng Quyển, Truyện Thị Đan, Nàng Ngọc Dong,
Nàng Kim, Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Tử - Ngọc Hoa.
- Về phạm vi tư liệu nghiên cứu:
Văn bản các tác phẩm trong bộ Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc
thiểu số Việt Nam gồm 19 tập do Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện
nghiên cứu Hán Nôm tổ chức sưu tầm, biên dịch, giới thiệu từ năm 2008 đến
năm 2018, Nxb Khoa học xã hội xuất bản.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: đối tượng nghiên cứu của chúng tôi
không chỉ thuộc lĩnh vực văn học mà còn cần được tiếp cận từ những lĩnh vực
khác như văn hóa học, dân tộc học, xã hội học, giáo dục học ... Vì vậy chúng tôi
cần đến phương pháp tiếp cận liên ngành để đáp ứng được mục đích của đề tài.
- Phương pháp khảo sát, thống kê: chúng tôi sử dụng phương pháp này
để khảo sát, thống kê những biểu hiện của văn hóa ứng xử trong các truyện thơ
Nôm Tày.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: trên cơ sở những biểu hiện của văn
hóa ứng xử, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích để có những nhận xét, bình luận, đánh
giá phù hợp.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Đề tài góp phần làm rõ những biểu hiện của văn hóa ứng xử trong
truyện thơ Nôm Tày, từ đó thấy được thực trạng và ý nghĩa giáo dục đạo đức,
giá trị văn hóa, văn học của bộ phận văn học này.
11
- Đề xuất được một số biện pháp tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử từ
truyện thơ Nôm Tày trong giáo dục học sinh ở Trường THCS Hoàng Văn Thụ huyện Chợ Đồn - tỉnh Bắc Kạn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng trong công
tác giáo dục học sinh và hiệu quả dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của
luận văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan.
Chương 2: Những biểu hiện của văn hóa ứng xử trong một số truyện thơ
Nôm Tày.
Chương 3: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử từ truyện thơ Nôm Tày
cho học sinh trường THCS Hoàng Văn Thụ, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÓ LIÊN QUAN
1.1. Khái niệm văn hóa và văn hóa ứng xử
1.1.1. Văn hóa
Thuật ngữ “văn hóa” không còn quá xa lạ trong đời sống của con người.
Trong nghiên cứu khoa học nhân văn, khái niệm văn hóa trở thành một nội
dung được các học giả trao đổi, tranh luận khá sôi nổi. Có nhiều quan điểm
được đưa ra tạo nên cái nhìn đa chiều về văn hóa. Tùy theo lĩnh vực tiếp cận
mà người nghiên cứu sẽ đưa ra cách hiểu khác nhau về văn hóa. Cho đến nay,
vẫn chưa thể khẳng định khái niệm văn hóa nào là đúng nhất, chuẩn nhất và
được sử dụng thống nhất trong tất cả các lĩnh vực. Có những khái niệm mô tả
bản chất, nhưng cũng có khái niệm diễn giải tính chất lịch sử, có khi khái niệm
lại chỉ về cách ứng xử hay nếp sống của con người… Theo số liệu năm 1952
được hai nhà văn hóa Mỹ A.L Kroeber và K. Klaxon công bố thì có tới 164
định nghĩa về văn hóa. Theo Phan Ngọc thống kê thì có hơn 400 định nghĩa về
văn hóa.
Ở Việt Nam, văn hóa trở thành đối tượng được nghiên cứu một cách bài
bản, khoa học và hệ thống bắt đầu từ nửa đầu thế kỷ XX. Những nhà khoa học
mở đầu cho việc nghiên cứu văn hóa là Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên,
Trần Quốc Vượng, Chu Xuân Diên... Nhiều khái niệm được đưa ra có tính
thuyết phục. Trong đó phải kể đến khái niệm của nhà nghiên cứu Trần Ngọc
Thêm. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, ông cho rằng: “Văn hóa là một hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy
qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội” [33, 10]. Cách hiểu này cho thấy văn hóa là sản
phẩm do con người sáng tạo ra và có mối quan hệ chặt chẽ với con người. Có
thể hiểu một cách khái quát như sau: Văn hóa là hoạt động của con người cải
biến thế giới tự nhiên theo hướng tích cực, làm ra các giá trị vật chất và tinh
13
thần, thể hiện tài năng, sự sáng tạo của con người. Văn hóa phản ánh cuộc sống
của con người và sự phát triển của xã hội.
1.1.2. Văn hóa ứng xử
Trong cuốn Văn hoá giao tiếp, nhà nghiên cứu Phạm Vũ Dũng viết: “Văn
hoá ứng xử là hệ thống tinh tuyển những nếp ứng xử, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn
mực ứng xử, trong mối quan hệ ứng xử giữa con người và các đối tượng khác
nhau, thể hiện qua ngôn ngữ, hành vi, nếp sống, tâm sinh lý… trong quá trình
phát triển và hoàn thiện đời sống, đã được tiêu chuẩn hoá, trở thành chuẩn
mực của cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, toàn bộ xã hội, thừa nhận và làm
theo” [10, 27]. Cũng nói về văn hóa ứng xử nhưng nghiên cứu dưới góc độ tâm
lí học, tác giả Đỗ Long nêu quan điểm“Văn hóa ứng xử là một hệ thống thái
độ, hành vi được xác định để xử lý các mối quan hệ giữa người với người trên
các căn cứ pháp luật, đạo lý nhằm thúc đẩy nhanh sự phát triển của cộng đồng
người của xã hội” [20, 73]. Trong đời sống, văn hóa ứng xử thể hiện ở hai hình
thức cụ thể: một là cách xử sự của con người thông qua hành vi, thái độ đối với
người khác, đối với xã hội và môi trường xung quanh (hình thức trực tiếp); hai
là thông qua các ngành khoa học như triết học, văn học, nghệ thuật... nội dung
văn hóa ứng xử của con người được phản ánh lại (hình thức gián tiếp). Dù được
thể hiện dưới hình thức nào thì văn hoá ứng xử cũng phản ánh cách xử sự của
con người đối với con người và môi trường sống xung quanh mình. Nó mang
tính dân tộc, tính kế thừa, được bổ sung tạo nên sự phong phú và đa dạng.
Tóm lại, văn hóa ứng xử là là một hệ thống các quy tắc ứng xử chuẩn mực
về hành vi, thái độ của con người đối với môi trường tự nhiên và xã hội. Thông
qua văn hóa ứng xử có thể biết được sự phát triển của một quốc gia, một xã hội
hay một tộc người. Văn hóa ứng xử là thước đo phản ánh tư duy, trình độ nhận
thức, cách xử thế của con người.
Vấn đề giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh ở trường THCS
Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nêu rõ: “Đổi mới chương
14
trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn
diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người
và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng nề về truyền
thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng
lực, hài hòa đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh”.
Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đối với môn Ngữ Văn cũng xác định
mục tiêu giáo dục học sinh là có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc,
góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế. Mục tiêu chương
trình được xây dựng trên những cơ sở rất khoa học phù hợp đặc điểm tâm lí lứa
tuổi. Học sinh cấp THCS có độ tuổi từ 11 – 14 tuổi, lứa tuổi này còn gọi là tuổi
thiếu niên – độ tuổi có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách của con người. Đây là thời kì chuyển giao từ tuổi thơ sang
tuổi trưởng thành, các em có nhiều sự thay đổi về thể chất, tâm lí, sinh lí…
Được giáo dục, định hướng tích cực trong giai đoạn này, học sinh sẽ trưởng
thành về mọi mặt, góp phần hoàn thiện nhân cách của con người. Như vậy, vấn
đề giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh ở trường THCS phải dựa vào mục tiêu
của chương trình giáo dục phổ thông và đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh.
1.2. Vài nét về văn hóa ứng xử trong văn học trung đại Việt Nam
Đối với mỗi quốc gia, giá trị của nền văn học chính là việc phản ánh đầy
đủ lịch sử tinh thần, lịch sử tâm hồn của dân tộc, của đất nước. Đối với nền văn
học Việt Nam điều này càng thể hiện một cách rõ nét. Trải qua bốn nghìn năm
văn hiến, văn học Việt Nam thể hiện phong phú đời sống vật chất, tinh thần và
văn hóa ứng xử của người Việt. Nền văn học đó đậm đà bản sắc dân tộc, nó
được hình thành từ đời sống của nhân dân, từ quá trình dựng và giữ nước của
dân tộc. Nó ghi lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác và ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ, nhận thức của
người dân Việt Nam.
15
Song hành cùng sự phát triển của nền văn học, văn hóa ứng xử của con
người đối với tự nhiên, ứng xử giữa người với người, ứng xử của con người với
xã hội đã được văn học ghi lại dưới nhiều hình thức phong phú bắt đầu từ văn
học dân gian nối tiếp với văn học trung đại cho đến văn học hiện đại. Văn hóa
ứng xử của con người trong văn học đặc biệt được chú ý để lại cho hậu thế
những bài học về cách đối nhân xử thế, cách sống đẹp, hài hòa trong mối quan
hệ với tự nhiên và xã hội.
Trong văn học trung đại, văn hóa ứng xử với thiên nhiên, con người, xã
hội được thể hiện phong phú dưới ngòi bút của các tác giả. Đặc biệt là văn hóa
ứng xử giữa người với người đã được thể hiện sâu sắc, trở thành những tấm
gương, những bài học có ý nghĩa giáo dục lớn. Văn học trung đại Việt Nam rất
đề cao nét đẹp văn hóa ứng xử giữa con người với con người. Rõ nét nhất là
văn học phản ánh văn hóa ứng xử trong mối quan hệ gia đình và văn hóa ứng
xử với các mối quan hệ xã hội.
Gia đình là cội nguồn vun đắp tâm hồn mỗi con người. Gia đình chính là
trường học lớn nhất của mỗi con người vì luôn dạy chúng ta những phẩm chất
tốt đẹp và cách ứng xử đúng mực với những người xung quanh. Trong mối
quan hệ gia đình con người luôn cảm nhận được giá trị của tình yêu thương, sự
gắn bó giữa các thành viên trong các mối quan hệ vợ - chồng, cha mẹ - con cái,
bề dưới với bề trên… Văn học trung đại Việt Nam phản ánh văn hóa ứng xử
trong tình cảm vợ chồng rất giản dị mà cảm động. Đó là những người vợ hết
lòng vun vén cho hạnh phúc gia đình, chịu nhận về mình bao nỗi thiệt thòi để
chồng có thể yên tâm hoàn thành công việc. Nhân vật Vũ Nương trong Chuyện
Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ để lại trong lòng người đọc sự cảm
thương cho số phận oan khuất của nàng nhưng đồng thời lại làm sáng ngời lên
vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là nét đẹp văn hóa ứng
xử trong cuộc sống vợ chồng. Vũ Nương “tính tình đã thùy mị, nết na lại thêm
tư dung tốt đẹp” khi được Trương Sinh cưới về làm vợ, biết chồng mình “có
tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức” nàng đã “luôn giữ gìn khuôn
16
phép, không từng để vợ chồng phải đến thất hòa”. Cách mà Vũ Nương xây
dựng gia đình trong ấm ngoài êm đó thật đáng được người ta nể phục, cách ứng
xử của nàng luôn nhẫn nhịn, biết giữ mình, giữ gìn vun vén cuộc sống gia đình
hạnh phúc. Khi tiễn chồng đi lính lời dặn dò của nàng vô cùng xót thương, tình
nghĩa, ân cần, chu đáo. Nàng không mong vinh hiển mà chỉ mong chồng trở về
bình an. Nàng cảm thông những vất vả, gian lao của chồng nơi biên ải xa xôi.
Những lời dặn dò, đưa tiễn khi chia tay chồng ngọt ngào xúc động lòng người
của nàng thể hiện sự khéo léo trong ứng xử, làm vững lòng người đi. Phẩm chất
tốt đẹp của Vũ Nương còn được Nguyễn Dữ tái hiện trong hình ảnh người vợ
thủy chung, luôn thương nhớ chồng. Khi bị chồng vì hiểu lầm mà ruồng rẫy,
mắng chửi, đánh đập, đuổi đi, Vũ Nương vẫn cư xử phải phép. Nàng chỉ biết
khóc, phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, nàng hết lòng tìm cách hàn
gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.Nàng đau đớn tuyệt vọng, đành
cam chịu số phận khi giải thích mà Trương Sinh không lắng nghe. Đến cùng
cực nỗi đau nàng than oán, phẫn uất, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất
và sự trong sạch vô tội của mình để tìm đến cái chết. Nguyễn Dữ cũng như
người đọc luôn dành cho Vũ Nương một sự trân trọng, cảm thông và đề cao
phẩm giá của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Hình ảnh người vợ thủy
chung, yêu thương chồng, hy sinh vì chồng trong văn học trung đại không quá
xa lạ. Đó là một đề tài mà các tác giả trung đại dành nhiều tình cảm. Trong xã
hội phong kiến thân phận người phụ nữ nhỏ bé, thấp hèn, chỉ biết hy sinh mà ít
được chồng mình sẻ chia, ghi nhận những công lao. Nhưng Tú Xương dường
như là một người chồng mang một tư tưởng mới, khác hẳn với những quan
niệm phụ nữ nhất nhất phải nghe chồng “xuất giá tòng phu” đã ăn sâu bám rễ
vào suy nghĩ của nam nhân xưa. Tú Xương mạnh dạn thể hiện tình cảm yêu
thương, trân trọng người vợ của mình, điều này xưa nay hiếm gặp trong văn
học trung đại. Dưới cái nhìn của người chồng, công việc lao động của vợ thật
vất vả, cực nhọc:
17
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
(Thương vợ - Tú Xương)
Bà Tú đã thay chồng cáng đáng công việc nuôi sống gia đình bằng “buôn
bán ở mom sông” để chồng có thể yên tâm việc đèn sách, thi cử. “Thân cò” lặn
lội khi ở mom sông lúc nơi quãng vắng gợi hình ảnh người vợ, người mẹ ấy đã
phải vất vả ngược xuôi lo lắng cơm áo gạo tiền cho gia đình. Tú Xương không
đề cao cái “tôi” của nam nhân, ông tự nhận mình là ông chồng không giúp đỡ
được cho vợ về kinh tế trong gia đình. Lòng thương, sự cảm kích của ông dành
cho vợ chính là sự ghi nhận công lao, vai trò của vợ trong gia đình.
Cách ứng xử trong mối quan hệ gia đình giữa cha mẹ và con cái, anh chị
em cũng là một nét văn hóa. Từ xa xưa ông cha đã đúc rút hàng ngàn câu nói
hay về cách ứng xử trong gia đình để răn dạy con cháu như:
- Chị ngã em nâng
- Một giọt máu đào hơn ao nước lã
(Tục ngữ )
- Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần
- Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển đông
(Ca dao)
Tiếp nối nét đẹp đó từ văn học dân gian, văn học trung đại thể hiện sâu sắc
tình cảm giữa cha mẹ với con cái. Cha mẹ nào mà không yêu con cái, khi biết
con phải hy sinh bản thân vì gia đình, vì cha mẹ thì nỗi đau ấy dường như còn
lớn hơn bởi cha mẹ luôn nghĩ rằng mình sinh ra là điểm tựa, chỗ dựa cho con
cái mình. Như Vương Ông vì lực bất tòng tâm, không còn cách nào đành gạt
18
nước mắt nhìn Thúy Kiều bán thân mình chuộc cha và em. Nỗi đau ấy như xé
tâm can người làm cha làm mẹ:
“Thương tình con trẻ cha già
Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Còn Thúy Kiều, nàng cho rằng là con luôn phải giữ đạo hiếu, nên khi gia
đình gặp nạn nàng đã quyết bán mình, dù không biết sau này cuộc đời mình sẽ
trôi nổi ra sao:
“Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành
Quyết tình nàng mới hạ tình
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Trong mười lăm năm lưu lạc dặm trường lúc nào nàng cũng canh cánh
trong lòng nỗi lo về cha mẹ, ai sẽ thay nàng chăm sóc mẹ cha, ai quạt cho cha
mẹ những ngày hè oi nóng, ai ủ ấm cho cha mẹ những ngày đông giá. Quên
thân phận mình bị vùi dập, nổi trôi Thúy Kiều chỉ nghĩ đến gia đình, cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Mối quan hệ giữa anh chị em trong gia đình được văn học trung đại đề cập
khá nhiều. Đó là tình cảm yêu thương, gắn bó, quan tâm, chia sẻ của anh chị
em dành cho nhau. Truyện Kiều của Nguyễn Du nói về sự hy sinh của Thúy
Kiều - người chị cả trong gia đình, khi nhà Kiều gặp tai biến. Kiều sẵn sàng
đứng ra nhận trách nhiệm cáng đáng gia đình, bán mình chuộc cha và em, hy
19