Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về quyền bí mật đời tư ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.15 KB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA KINH TẾ - LUẬT

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở

VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Vinh
Hương
Đơn vị công tác: Bộ môn Luật Căn bản
Khoa Kinh tế - Luật

Hà Nội, 2017


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở VIỆT NAM................................................................................ 1
1.1. TÍNH CẤP THIẾT NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI............................................. 1
1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC CỦA ĐỀ
TÀI................................................................................................................................ 4
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước..................................................................... 4
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước..................................................................... 5
1.3. XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ VẤN ĐỀ TRONG ĐỀ TÀI..................................... 7
1.4. CÁC MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU....................................................................... 8
1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.................................................................................... 8
1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI................................................ 9
1.7. KẾT CẤU BÁO CÁO NGHIÊN CỨU.............................................................. 10


2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ...................................11
2.1.1. Khái niệm quyền bí mật đời tư......................................................................... 11
2.1.2. Đặc điểm của quyền bí mật đời tư.................................................................... 14
2.1.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền bí mật đời tư.................................................... 21
2.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ.....22
2.2.1. Cá nhân có quyền đối với các thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình của mình..................................................................... 22
2.3.2. Cá nhân có quyền bí mật đối vói thư tín, điện thoại, điện tín và các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân.................................................... 23
2.3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN
BÍ MẬT ĐỜI TƯ....................................................................................................... 25
2.4. QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ
QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI................................................................................. 29
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ VÀ
THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở VIỆT NAM........................32
3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ........................ 32
3.1.1. Thực trạng quy định pháp luật dân sự về quyền bí mật đời tư.......................32


3.1.2. Các nhóm hành vi xâm phạm bí mật đời tư thông qua các văn bản pháp luật
chuyên ngành............................................................................................................. 36
3.1.3. Các biện pháp bảo vệ quyền bí mật đời tư....................................................... 45
3.2. THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở VIỆT NAM.................51
3.2.1. Việc cung cấp các thông tin liên quan đến bản thân, gia đình cho cơ quan
sử dụng lao động........................................................................................................ 52
3.2.2. Về việc liệu có tồn tại bí mật đời tư trong đời sống hôn nhân?.......................53
3.2.3. Tiết lộ, rao bán thông tin khách hàng........................................................... 55
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ
MẬT ĐỜI TƯ............................................................................................................ 57

4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN` THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT
ĐỜI TƯ...................................................................................................................... 57
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ........................................ 60
4.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư.......................60
4.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền bí mật đời
tư................................................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở VIỆT NAM


1.1. TÍNH CẤP THIẾT NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Con người là vốn quý của xã hội, một xã hội càng tiến bộ, quyền tự do dân chủ
càng được mở rộng bao nhiêu thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu. Kèm theo
đó các quyền nhân thân cũng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng cùng với các
biện pháp bảo vệ ngày càng hiệu quả hơn. Quyền bí mật đời tư là một trong các quyền
nhân thân quan trọng, bất khả xâm phạm của cá nhân, đây là quyền hiến định nhưng
đồng thời cũng là quyền nhân thân cơ bản được ghi nhận trong các văn bản pháp luật
về dân sự…
Trong bối cảnh phát triển công nghệ thông tin hiện đại, sự phổ biến của internet
khiến hình ảnh xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật của cá nhân ai đó sẽ bị lan truyền,
phát tán với tốc độ cực nhanh chỉ sau một cú nhấp chuột, không chỉ giới hạn ở Việt
Nam mà còn trên phạm vi thế giới. Việc ngăn chặn và truy tìm thủ phạm càng trở nên
khó khăn hơn. Từ những vụ việc mang tính chất điển hình như vụ ca sỹ Hồ Ngọc Hà

có đơn khiếu nại Báo Pháp luật và Cuộc sống về việc thông tin sai sự thật và xâm
phạm đời tư bất hợp pháp trong bài viết “Chuyện Hồ Ngọc Hà cưới chồng năm 2001
ở khách sạn Daewoo, Hà Nội” đăng ngày 12/5/2012 cho đến vụ việc bị báo chí xâm

hại đời tư liên quan tới scandal sex của MC Đan Lê, Đài Truyền hình KTS VTC. Ngày
21/3/2008, trên các trang web, blog đen xuất hiện một vài đoạn phim đồi trụy, được lén
lút phát tán, truyền tay nhau, MC Đan Lê bị gán ghép là nhân vật trong đoạn phim đó
và một tờ báo điện tử đã cố tình xuyên tạc, khai thác thông tin trên gây hiểu lầm cho
độc giả... Sau nhiều tháng theo đuổi vụ kiện, MC Đan Lê đã buộc được tờ báo nọ cải
chính, xin lỗi, bồi thường thiệt hại vật chất cũng như tinh thần. Hoặc vụ tranh cãi lùm
xùm xung quanh việc VTV chương trình “Chuyển động 24h“ tự ý thu thập và công bố
về thông tin đời tư của cầu thủ Công Phượng... Ngoài ra, những hành vi như bóc mở
thư tín trái phép, gây thất lạc thư tín của công dân, sử dụng thiết bị, phần mềm nghe
trộm, nghe lén điện thoại nhằm theo dõi để kiểm soát, khai thác bí mật đời tư người
khác, gây tâm lý bất an cho mọi người, hành vi phát tán trái phép những hình ảnh nhạy
cảm riêng tư của cá nhân, công bố chuyện riêng tư, những thông tin sai sự
1


thật gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, hành vi chụp và đăng ảnh của người
khác lên mạng khi chưa được phép, đăng hồ sơ cá nhân của người khác lên mạng,
những hành vi này đều tiềm ẩn rất nhiều hệ lụy...
Có thể nói chưa bao giờ nguy cơ xâm phạm về quyền bí mật đời tư lại cao như
hiện nay, bởi lẽ bất cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân bị xâm phạm đời sống riêng
tư và bí mật cá nhân, bí mật gia đình, hệ quả là gây ra những thiệt hại nặng nề, ảnh
hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống, công việc, danh dự, nhân phẩm của người trong
cuộc, một số vụ đã được khởi kiện ra tòa. Đã đến lúc chúng ta cần lấp các “lỗ hổng”,
hoàn thiện các quy định pháp luật để bảo vệ sự riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia
đình.
Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 đã có

những quy định về quyền bí mật đời tư, nhưng việc hiểu và áp dụng các quy định đó
trong thực tế còn nhiều bất cập, vướng mắc như: xác định thế nào là quyền bí mật đời
tư; biểu hiện cụ thể của các hành vi xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân; cơ chế giải
quyết tranh chấp; mức độ bồi thường khi bị xâm phạm đời tư được xác định như thế
nào; các hình thức áp dụng để hạn chế và bảo vệ quyền này ra sao;… Trong thời gian
vừa qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng có đề cập rất nhiều đến bí mật đời tư
cũng như quyền bí mật đời tư, sở dĩ vấn đề này được bàn luận sôi nổi bởi xuất hiện
một loạt tình huống trong thực tế dẫn tới tranh chấp, nhiều vụ việc được đưa ra Tòa án
để giải quyết nhưng ngay cả khi giải quyết tại Toà, các cán bộ Toà án cũng có những
lúng túng nhất định xung quanh việc xác định hành vi đó có bị coi là xâm phạm bí mật
đời tư hay không? Hiện nay, Bộ luật Dân sự 2005 vẫn bỏ ngỏ khái niệm này, dẫn tới
nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn trong quá trình xét xử cho cơ quan xét xử.
Trong Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ 01/011/2017) thuật ngữ “quyền
bí mật đời tư” được sửa đổi thành “quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật
gia đình” (Điều 38) cho phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, nội
dung các quy định về quyền bí mật đời tư hầu như được giữ nguyên, trong đó có các
cụm từ “trừ trường hợp luật có quy định khác”, “chỉ được thực hiện trong trường hợp
luật định”. Về các luật liên quan, ngoài một vài quy định của Bộ luật Hình sự và
BLTTHS thì khó có thể tìm thấy hoặc làm rõ luật nào “có quy định khác”, “trường hợp
luật định” là các trường hợp nào.
2


Về nguyên tắc, quyền bí mật đời tư được bảo vệ chủ yếu bởi các quy định của Bộ
luật Hình sự và Bộ luật Dân sự. Thực tế cho thấy chỉ khi có “thiệt hại” của cá nhân bị
xâm hại (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng), người vi phạm mới phải chịu các chế
tài vật chất. Ngoài việc thiếu vắng các chế tài hành chính có thể áp dụng với cả những
trường hợp không có thiệt hại xảy ra nhằm bảo vệ quyền hợp pháp của cá nhân cũng
như mang tính giáo dục chung, ngăn ngừa vi phạm, cho đến nay chưa có văn bản pháp
luật nào giải thích cụ thể hơn về bí mật đời tư của cá nhân.

Những người quan tâm đặt ra nhiều câu hỏi: Các dạng thông tin cụ thể nào được
coi là bí mật cá nhân? Phạm vi đời sống riêng tư của một cá nhân thế nào? Có sự khác
nhau giữa “dân thường” và quan chức, người nổi tiếng hay không? Đối với người bị
tạm giữ, khởi tố về hình sự và người đã bị kết án, quyền của họ ra sao? Việc thu thập,
lưu trữ, sử dụng, công bố thông tin riêng, nhận dạng cá nhân được thực hiện thế nào,
cơ quan có thẩm quyền tiến hành, xử lý với từng trường hợp vi phạm ra sao? Những
câu hỏi này đều là các vấn đề có thể gây tranh cãi khó đi đến hồi kết, nếu không được
luật hóa bằng các quy định cụ thể.
Như vậy, nếu không làm rõ được khái niệm bí mật đời tư hay “đời sống riêng tư”,
“bí mật cá nhân”, nếu không chỉ rõ được ranh giới giữa an toàn và vi phạm, thì “đời
sống riêng tư”, “bí mật cá nhân” khó được bảo đảm an toàn, dẫn tới cách hiểu khác
nhau và sự tùy tiện trong áp dụng, thực hiện pháp luật nhất là khi chính hoạt động của
cơ quan nhà nước (cơ quan điều tra, Tòa án) và của báo chí rất dễ trở thành “chủ thể”
của hành vi xâm phạm bí mật đời tư. Do đó, việc quy định các quyền này trong Bộ luật
Dân sự 2005 như hiện nay và kể cả như trong Bộ luật Dân sự 2015 chưa mang lại ý
nghĩa thiết thực.
Xuất phát từ yêu cầu có tính thời sự và cấp thiết đó, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Pháp luật về quyền bí mật đời tư ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề
tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của mình. Qua nghiên cứu, tác giả muốn làm rõ
những quy định của pháp luật về quyền bí mật đời tư, xác định vai trò quan trọng của
quyền nhân thân nói chung cũng như quyền bí mật đời tư nói riêng trong pháp luật dân
sự Việt Nam. Đồng thời, góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý cũng như nâng cao
hơn nữa hiệu quả thực thi pháp luật về quyền bí mật đời tư và bảo vệ quyền bí mật đời
tư của cá nhân ở nước ta hiện nay.
3


1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC CỦA
ĐỀ TÀI
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Quyền bí mật đời tư là quyền nhân thân bất khả xâm phạm được pháp luật các
quốc gia bảo vệ chặt chẽ. Ở các nước phát triển trên thế giới, vấn đề bảo vệ quyền con
người nói chung và quyền bí mật đời tư nói riêng được pháp điển hóa một cách cụ thể.
BLDS Pháp ghi nhận mọi người đều có quyền được tôn trọng đời tư của mình và
quyền riêng tư này được pháp luật bảo vệ bằng nhiều hình thức khác nhau. Tòa án tối
cao Pháp đã có phán quyết giải thích về phạm vi của quyền riêng tư, theo đó thì đời
sống riêng tư của một người bao gồm: Đời sống tình cảm, bạn bè, gia đình, sinh hoạt
hằng ngày, quan điểm chính trị, công việc làm ăn hay tư tưởng tôn giáo và tình trạng
sức khỏe. Có thể thấy rằng theo BLDS Pháp thì quyền riêng tư của mọi cá nhân là như
nhau. Đồng thời phạm vi bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân là rất rộng, bao gồm các
thông tin được đưa ra cả tại nơi công cộng lẫn nơi riêng tư của cá nhân.
Hiến pháp Nhật Bản ghi nhận rằng công dân có quyền sống, tự do và theo đuổi
hạnh phúc và được tôn trọng với tư cách là một công dân. Đây là quy định làm nền
tảng cho những quy định của pháp luật chuyên ngành về quyền bí mật đời tư như:
Công dân không được phép xây nhà có thể nhìn vào nhà của người khác, nghiêm cấm
nhìn ngó nơi cư ngụ của người khác hay đọc thư cá nhân của người khác. Năm 2003,
Nhật Bản ban hành Luật Bảo vệ những thông tin cá nhân. Đồng thời, tòa án Nhật Bản
đã giải thích quyền về bí mật đời tư của cá nhân, bao gồm: i) Quyền không bị công bố
thông tin cá nhân nếu không có lý do chính đáng; ii) Quyền quyết định đối với thông
tin cá nhân. Cũng theo Tòa án Nhật Bản, để xác định có sự vi phạm về quyền bí mật
đời tư hay không phải đảm bảo các yêu cầu sau: i). Có liên quan đến đời sống riêng tư
của cá nhân. ii). Cá nhân đó có mong muốn giữ bí mật. iii). Không phải là thông tin,
hiểu biết công cộng. iv). Gây ảnh hưởng nặng nề đối với cá nhân nếu bị xâm phạm.
Bên cạnh đó, Hội đồng Calcutt ở Vương quốc Anh cho rằng: “không nơi nào chúng ta
có thể tìm thấy một định nghĩa hoàn toàn thỏa đáng về quyền riêng tư”. Nhưng Hội
đồng này đã hài lòng với định nghĩa sau: Quyền riêng tư là các quyền của cá nhân
được bảo vệ để chống lại sự xâm nhập vào đời sống cá nhân hay công việc của mình
(hoặc những người trong gia đình) bằng các phương tiện vật lý trực tiếp hoặc bằng
cách công bố thông tin.
4



Như vậy, nhìn chung có thể thấy rằng pháp luật các quốc gia trên thế giới đều rất
quan tâm tới việc bảo vệ “quyền bí mật đời tư” của cá nhân.
Không những thế, quyền bí mật đời tư cũng là chủ đề được các nhà nghiên cứu
khoa học tập trung khai thác dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến như Luận
văn thạc sỹ “Antitrust Investigations and the Right to Privacy” của tác giả Mar’yana
Yarmolenko, Faculty of Law, University of Lund, 2003. Luận văn đã nghiên cứu các
vấn đề cơ bản về quyền riêng tư của cá nhân, đồng thời đưa ra các giải pháp thiết thực
để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền riêng tư nói riêng.
Hay bài viết “Privacy law' may need rewriting due to modern technology, says
senior judge” By David Barrett, Home Affairs Correspondent, bài viết đã đưa ra quan
điểm thay đổi hành lang pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư cho phù hợp với sự phát
triển của xã hội hiện đại, khi mà vấn đề xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân
diễn ra khá phổ biến.
Hay bài nghiên cứu “The Right to Privacy” của hai tác giả: Warren and
Brandeis, Harvard Law Review, 1890; bài viết cũng đã tập trung phân tích các vấn đề
lý luận và thực tiễn về quyền bí mật riêng tư.
Nói tóm lại, quyền bí mật đời tư là quyền con người cơ bản được pháp luật hầu
hết các quốc gia trên thế giới bảo vệ thông qua việc quy định khá chặt chẽ trong các
văn bản pháp lý quan trọng. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đặc biệt quan tâm
đến vấn đề này. Điều đó cho thấy việc nghiên cứu và bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá
nhân là hết sức quan trọng, đây là lĩnh vực được quan tâm rất lớn trong xã hội hiện
nay, khi mà quyền con người được chú trọng hơn bao giờ hết.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Trước khi có Bộ luật Dân sự 1995, gần như không có một công trình khoa học
nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về quyền bí mật đời tư. Sau khi Bộ luật
Dân sự 1995 ra đời, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về quyền nhân thân
dưới góc độ là một quyền của con người trong lĩnh vực dân sự như
 “Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị“ – Sách chuyên khảo của Trung


tâm Nghiên cứu quyền con người – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nội
dung cuốn sách có đề cập nhưng không chi tiết về các quyền nhân thân theo quy định
của Bộ luật Dân sự, trong đó có quyền đối với bí mật đời tư.

5


 “Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công

dân theo quy định của Bộ luật Dân sự“ – Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của
Tòa án Nhân dân Tối cao. Công trình này cũng chỉ dừng lại ở việc khẳng định vai trò
của Tòa án Nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân nói chung chứ chưa đưa ra
được phương hướng giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân ở
những trường hợp cụ thể - trong khi đó mỗi quyền nhân thân lại có đặc thù riêng.
Mãi tới sau khi Bộ luật Dân sự 2005 ra đời, thay thế Bộ luật Dân sự 1995 cũng đã
có thêm vài công trình khoa học tuy không nhiều được đăng ở một số báo, tạp chí
chuyên ngành nhưng thực chất mới chỉ dừng lại ở khía cạnh nêu, liệt kê một vài vụ
việc tranh chấp điển hình liên quan đến xâm phạm bí mật đời tư, kèm theo những ý
kiến đánh giá mang tính chủ quan, một chiều... Một số bài viết trên các tạp chí khoa
học pháp lý như: “Sự phát triển của pháp luật dân sự liên quan đến các quy định về
quyền nhân thân” (Lê Đình Nghị, Nghề Luật, số 3/2007) đã khái quát được quá trình
hình thành và phát triển các quy định về quyền nhân thân trong pháp luật dân sự; “Bàn
về khái niệm quyền bí mật đời tư” (Lê Đình Nghị, Nghề Luật, số 3/2007) đã phân tích
những quy định pháp lý liên quan đến khái niệm quyền bí mật đời tư, tuy nhiên mới
chỉ dừng ở đó chưa chỉ ra được đặc điểm hay các nội dung của quyền bí mật đời tư,
biểu hiện cụ thể của các hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư...; “Xung quanh một
vụ kiện về việc xâm phạm bí mật đời tư” (Lê Đình Nghị, Nghề Luật, số 6/2007) đã đưa
đến cho người đọc một vụ việc điển hình, gây nhức nhối trong dư luận và những tranh
cãi về hướng xử lý sau đó, đây là một trong vô số các trường hợp có biểu hiện xâm

phạm đến quyền bí mật đời tư của cá nhân; “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân”
(TS. Bùi Đăng Hiếu, Tạp chí Luật học, số 7/2012) đã phân tích khái niệm quyền nhân
thân và phân loại các quyền nhân thân thành các nhóm quyền khác nhau. Ngoài ra,
quyền bí mật đời tư còn được nghiên cứu trong Luận án TS Luật học của NCS Lê
Đình Nghị năm 2007: “Quyền bí mật đời tư theo qui định của pháp luật dân sự Việt
Nam”, tuy nhiên, cũng giống như một số công trình nghiên cứu trên đây, công trình
này vì đã khá lâu – 10 năm nên thiếu tính cập nhật, hơn nữa chủ yếu nghiên cứu trong
lĩnh vực dân sự chứ ít đặt trong mối tương quan tới các văn bản pháp luật chuyên
ngành.

6


Như vậy, có thể thấy những công trình trên hoặc là không nghiên cứu riêng; nếu
có thì vẫn còn lẻ tẻ, tản mạn chưa có tính hệ thống về quyền bí mật đời tư và bảo vệ bí
mật đời tư, hoặc thời gian nghiên cứu khá xa trong bối cảnh BLDS và các văn bản
pháp luật chuyên ngành có liên quan đều đã có nhiều thay đổi.
Trong giai đoạn gần đây, nhất là trong bối cảnh sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005 và
đến nay Bộ luật Dân sự 2015 đã được thông qua nhưng vẫn chưa có hiệu lực thì bí mật
đời tư, nội dung của bí mật đời tư và cơ chế bảo vệ quyền bí mật đời tư dường như vẫn
còn là vấn đề khá mới, hầu như chưa có thêm bất kỳ công trình nghiên cứu toàn diện
nào về vấn đề này.
Nhận thức được điều đó, đề tài “Pháp luật về quyền bí mật đời tư ở Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp ” lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ đề tài nghiên cứu
khoa học cấp cơ sở, trên cơ sở kế thừa một số đánh giá của các công trình nghiên cứu
trước, đồng thời hướng tới phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính
logíc, hệ thống về quyền bí mật đời tư, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé
vào công cuộc hoàn thiện và thực thi có hiệu quả pháp luật về quyền bí mật đời tư ở
Việt Nam hiện nay.
1.3. XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ VẤN ĐỀ TRONG ĐỀ TÀI

Đề tài tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau:
Một số vấn đề lý luận trong quy định của pháp luật về quyền bí mật đời tư
(khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật điều chỉnh về quyền bí mật đời tư...), việc
nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các quy định trong BLDS 2005, 2015 và các văn bản
pháp luật chuyên ngành
Rà soát quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về quyền bí mật đời tư,
nghiên cứu vấn đề bí mật đời tư theo quy định của của một số quốc gia khác và Công
ước quốc tế
Trên cơ sở lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng trong quy định của
pháp luật về quyền bí mật đời tư và thực tiễn bảo vệ quyền bí mật đời tư ở Việt Nam
hiện nay

7


Từ việc tìm ra những điểm bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật về
quyền bí mật đời tư và bảo vệ bí mật đời tư, đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền bí mật đời tư
1.4. CÁC MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Lựa chọn nghiên cứu đề tài trên, tác giả mong muốn phân tích làm sáng tỏ các
quy định của pháp luật về quyền bí mật đời tư và bảo vệ quyền bí mật đời tư, thực tiễn
thi hành các quy định này trên thực tế, trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật và giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo vệ quyền bí
mật đời tư, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, tác giả đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau:

Phân tích khái niệm, đặc điểm của quyền bí mật đời tư.
Phân tích quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành cũng như trong các văn bản
pháp luật chuyên ngành khác về quyền bí mật đời tư: Nội dung pháp luật điều chỉnh,


cơ chế bảo vệ, giải quyết tranh chấp…
Khái quát quá trình phát triển trong quy định của pháp luật Việt Nam về quyền
bí mật đời tư
Tìm hiểu pháp luật về việc ghi nhận và bảo hộ quyền bí mật đời tư của một số
quốc gia trên thế giới như Pháp, Nga, Nhật Bản…
Xem xét việc bảo vệ quyền bí mật đời tư theo quy định của Bộ luật Dân sự
hiện hành – đặt trong sự phân tích mối tương quan với một số ngành luật khác (hành
chính, hình sự).
Phân tích thực trạng pháp luật về quyền bí mật đời tư, tìm hiểu thực tiễn của
việc bảo vệ quyền bí mật đời tư, những thuận lợi, khó khăn…
Xây dựng quan điểm và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của
pháp luật về quyền bí mật đời tư và bảo vệ quyền bí mật đời tư, từ đó nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật trên thực tế.
1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
 Về nội dung, đề tài hướng tới việc nghiên cứu những vấn đề lý luận như khái

niệm, đặc điểm của quyền bí mật đời tư, ý nghĩa của cơ chế bảo vệ quyền bí mật đời
8


tư, nội dung pháp luật điều chỉnh về quyền bí mật đời tư… Đồng thời, đề tài cũng chỉ
ra và phân tích những biểu hiện cụ thể của hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của
cá nhân, những bất cập; hạn chế của pháp luật về quyền bí mật đời tư và bảo vệ quyền
bí mật đời tư gây khó khăn trong quá trình xử lý vi phạm trên thực tế; từ đó đưa ra cái
nhìn bao quát và đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực quyền bí mật đời tư của cá nhân.
 Về không gian, đề tài nghiên cứu dựa trên phạm vi các quy định của pháp luật

về quyền bí mật đời tư ở Việt Nam hiện hành chủ yếu trong Bộ luật Dân sự, một số
văn bản luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra đề tài còn có

sự đối chiếu với các quy định pháp luật về quyền bí mật đời tư của một số nước trên
thế giới.
 Về thời gian: Đề tài nghiên cứu các quy định hiện hành của Việt Nam liên

quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài, đặc biệt là từ năm 2005 cho đến nay.
1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài “Pháp luật về quyền bí mật
đời tư ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu quyền bí
mật đời tư trong mối quan hệ với điều kiện kinh tế - xã hội; trong sự tương quan với
các quyền nhân thân khác.
Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử để thấy rõ được
quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam trong việc quy định quyền bí mật đời tư,
phương pháp so sánh để thấy những điểm tiến bộ, những điểm hạn chế trong quy định
của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước khác trên thế giới, phương pháp
thống kê - phân tích nhằm cụ thể hóa và làm rõ những nội dung quan trọng của pháp
luật về quyền bí mật đời tư và thực tiễn bảo vệ quyền bí mật đời tư ở Việt Nam hiện
nay, các phương pháp tổng hợp, đánh giá thực trạng pháp luật liên quan đến vấn đề
nghiên cứu. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp khắc phục những bất cập trong pháp
luật về quyền bí mật đời tư, góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế.
Bên cạnh đó, phương pháp quy nạp, diễn giải… cũng được sử dụng rất nhiều
trong quá trình nghiên cứu đề tài.
9


1.7. KẾT CẤU BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Đề tài có kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài pháp luật về quyền bí mật đời tư ở
Việt Nam

Chương 2: Một số vấn đề lý luận về quyền bí mật đời tư
Chương 3: Thực trạng pháp luật về quyền bí mật đời tư và thực tiễn bảo vệ
quyền bí mật đời tư ở Việt Nam
Chương 4: Phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền bí mật đời tư

10


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ 

2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ
Quyền bí mật đời tư là một quyền nhân thân quan trọng của cá nhân và là cũng
là một quyền dân sự. Đưa ra khái niệm bí mật đời tư cùng những đặc điểm của bí mật
đời tư có ý nghĩa rất lớn trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền của cá nhân trong lĩnh
vực khá nhạy cảm này, đồng thời đây còn là cơ sở để Tòa án, cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền khác bảo vệ quyền của cá nhân đối với bí mật đời tư khi quyền đó bị xâm
phạm.
2.1.1. Khái niệm quyền bí mật đời tư
Cho đến nay, mặc dù “bí mật đời tư” được đề cập khá nhiều trong các văn bản
pháp luật cũng như các văn bản áp dụng, hướng dẫn thi hành pháp luật của Nhà nước
ta như Hiến pháp, BLDS, Luật báo chí, Luật Xuất bản, Luật Viễn thông, một số văn
bản của Bộ Y tế... Tuy nhiên trên thực tế vẫn chưa hề có một quy định rõ ràng như thế
nào là bí mật đời tư mà chỉ ghi nhận về quyền bí mật đời tư, coi đó là quyền mà các
chủ thể có liên quan, được xác định phải tôn trọng . Đây cũng chính là một trong
những khó khăn khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các tranh chấp liên quan đến bí mật đời tư. Bởi lẽ quyền bí mật đời tư được
xây dựng trên khái niệm bí mật đời tư, muốn xác định được phạm vi của quyền bí mật
đời tư đòi hỏi chúng ta phải xác định được khái niệm về bí mật đời tư. Vậy bí mật đời
tư là gì?

Có rất nhiều lập luận, căn cứ được các nhà nghiên cứu trong nước đưa ra khi đề
cập đến khái niệm bí mật đời tư, tác giả xin trích dẫn một số quan điểm xoay quanh
vấn đề này như sau:
Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt thì bí mật được giải thích là “giữ kín, không
để lộ ra, không công khai.” [26, tr. 155]
Một cách giải thích khác thì cho rằng: “Bí mật là thông tin cần che giấu, chỉ để
một số nhất định những người có liên quan được biết. Những thông tin được xác định
là bí mật chỉ mang ý nghĩa tương đối. Dưới góc độ này hay đối với một bên thì nó có
thể cần phải che đậy, giữ kín, nhưng dưới góc độ khác, đối với bên khác nó có thể
11


không cần che giấu. Tính bí mật có được do những gì chứa đựng trong thông tin đó có
liên quan đến một điều gì đó mà nếu để người không có nhiệm vụ biết thì có thể sẽ gây
ảnh hưởng xấu, gây thiệt hại cho bên cần che giấu. Bí mật thông thường được chia
làm ba cấp độ, từ thấp đến cao là: Mật; Tối mật; Tuyệt mật” [2]. Như vậy, theo sự giải
thích này thì bí mật được xác định bởi các yếu tố sau: 1. Bí mật là những “thông tin”;
2. Những “thông tin” này được che giấu bằng những biện pháp, cách thức khác nhau;
3. Những “thông tin” được coi là bí mật này nếu để người không có nhiệm vụ biết thì
có thể sẽ gây ảnh hưởng xấu, gây thiệt hại cho bên cần che giấu thông tin.
Tuy nhiên, quan điểm này cũng cho rằng những “thông tin” được coi là bí mật
cũng chỉ mang tính tương đối.
Một số người làm công tác pháp luật lại cho là:
“Bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là
quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi,
con cái, các mối quan hệ… gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho
người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những
người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra
ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư”có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân
nào đó. Ví dụ: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh

tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín,…”. [2]
Như vậy, quan điểm này cũng chỉ ra bí mật đời tư là những thông tin gắn liền với cá
nhân, chỉ có thể mình họ hoặc một số người hạn chế biết được. Tuy nhiên, nếu hiểu như
vậy thì cũng chưa bao quát được nội hàm của khái niệm bí mật đời tư, bởi lẽ nếu hiểu bí
mật đời tư là những thông tin chưa từng công bố cho bất kỳ ai thì cũng không đúng. Có
trường hợp thông tin này đã được công bố nhưng bản thân người tiếp nhận thông tin phải
có nghĩa vụ bảo mật thông tin thì thông tin đó vẫn được coi là bí mật đời tư.

Trong một Công trình Nghiên cứu khoa học cấp Bộ của TAND tối cao,
PGS.TS Nguyễn Văn Luật đã khẳng định:
“…bí mật đời tư của cá nhân được hiểu trên hai phương diện: 1. Bí mật về đời
sống tình cảm,tinh thần: Bí mật về đời sống tình cảm của cá nhân thể hiện tính chất
đặc biệt riêng tư của cá nhân đó. Điều luật cấm công khai cho mọi người biết các mối
quan hệ thực tại hoặc mang tính chất hình tượng mà cá nhân đó vốn có. 2. Bí mật về
12


đời sống nghề nghiệp, vật chất của cá nhân thể hiện là những bí mật về hoạt động
nghề nghiệp; tình trạng vật chất gắn liền với hoạt động đó.” [37, tr.167]
Theo cách diễn giải này thì khái niệm bí mật đời tư được bao quát trên các
phương diện: “tình cảm, tinh thần” và “nghề nghiệp, vật chất”. Như vậy khái niệm bí
mật đời tư có thể được khái quát theo hướng liệt kê mà không được khái quát theo
hướng bao quát, tuy nhiên sẽ có những trường hợp việc liệt kê sẽ không đầy đủ.
Có thể thấy rằng, mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng hầu hết các các
nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng bí mật đời tư là những thông tin liên quan và gắn liền
với chính chủ thể đó, đó là những nội dung mang tính chất thầm kín cá nhân và họ
không muốn công khai cho người khác biết. Đó có thể là các thông tin liên quan đến
các yếu tố như tinh thần, vật chất, các quan hệ xã hội.
Quan điểm của tác giả đồng ý với cách nhìn nhận khái niệm “bí mật đời tư” như
trên. Bởi lẽ, “Bí mật đời tư” là một cụm từ Hán – Việt, có nguồn gốc từ chữ Hán và

được Việt hóa, do vậy để xây dựng khái niệm “bí mật đời tư” phải xác định được hai
khái niệm cũng như sự liên kết của hai khái niệm, đó là khái niệm “bí mật” và khái
niệm “đời tư”.
“Bí mật” được hiểu là giữ kín, không để lộ ra, không công khai. Tính “bí mật”
này có thể được xác định theo các tiêu chí cụ thể như:
 Bản thân thông tin đó đã mang tính bí mật. Việc xác định thông tin mang tính

bí mật có thể dựa vào bản chất của thông tin, có thể xác định theo qui định của pháp
luật (thư tín, điện thoại, tình trạng bệnh tật… – những thông tin này đã có văn bản
pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành xác định rõ đó là bí mật mà
không được tiết lộ hoặc xâm phạm).
 Người nắm giữ thông tin có thể đã áp dụng mọi biện pháp để bảo mật như

khoá, cài đặt mã số bảo vệ, hoặc áp dụng mọi biện pháp bảo vệ khác.
 Giữa chủ sở hữu thông tin bí mật với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đã có sự

thoả thuận về nghĩa vụ giữ bí mật. Ví dụ: Anh A đến nhờ Văn phòng luật sư X tư vấn
pháp luật liên quan đến việc ly hôn của anh. Giữa A và Văn phòng luật sư X có ký hợp
đồng dịch vụ trong việc tư vấn, theo hợp đồng này thì Văn phòng có nghĩa vụ giữ bí
mật các thông tin của A khi A cung cấp cho Văn phòng luật sư X.
13


Tuy nhiên, chúng ta sẽ không coi là “bí mật” nếu những thông tin đó xâm phạm
lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác (Ví dụ: thông tin liên quan đến hành vi phạm tội, chuẩn bị phạm tội). Trong
trường hợp này việc tiết lộ thông tin sẽ không bị coi là xâm phạm bí mật đời tư.
Mặt khác, khái niệm “bí mật đời tư” chỉ có ý nghĩa tương đối. Bởi vì, cùng một
nội dung vụ việc có tính chất như nhau, đối với người này có thể là bí mật nhưng đối
với người khác chỉ là một thông tin bình thường, có thể công bố rộng rãi. Đối với mỗi

người thì việc xác định như thế nào là bí mật đời tư chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu
tố như: quan điểm, quan niệm, thói quen sống, làm việc, phong tục tập quán, các qui
định của pháp luật có liên quan...
“Đời” là đời sống, cuộc sống hàng ngày, “tư” có nghĩa là riêng, việc riêng, của
riêng, một cách giải thích khác của cuốn Đại từ điển tiếng Việt thì “Tư: Riêng, của cá
nhân; trái với công (chung), đời tư, riêng tư...”
Qua phân tích các yếu tố liên quan đến bí mật đời tư, chúng ta có thể đưa ra khái
niệm bí mật đời tư như sau:
“Bí mật đời tư là những thông tin về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội hoặc
những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại,
được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà
pháp luật thừa nhận.”
Quyền bí mật đời tư là quyền nhân thân bất khả xâm phạm của cá nhân. Về cơ
bản có thể hiểu rằng: “Quyền bí mật đời tư của cá nhân là quyền được bảo vệ về bí
mật đời tư, nói cách khác không ai được quyền xâm phạm đến bí mật đời tư của cá
nhân khi chưa được phép”.
2.1.2. Đặc điểm của quyền bí mật đời tư
Là một trong những quyền nhân thân được pháp luật quy định và bảo vệ, quyền
bí mật đời tư cũng mang đầy đủ các đặc điểm của quyền nhân thân. Bên cạnh đó quyền
bí mật đời tư còn có những đặc điểm riêng. Việc xem xét những đặc điểm này có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu và trong thực tiễn giải quyết các tranh
chấp tại Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác khi cần xác định như thế nào
là một hành vi xâm phạm bí mật đời tư.
14


Quyền bí mật đời tư có các đặc điểm sau đây:
 Thứ nhất, quyền bí mật đời tư được pháp luật dân sự thừa nhận và bảo vệ
luôn thuộc về cá nhân, không thể chuyển giao cho chủ thể khác
Dưới góc độ pháp luật dân sự thì cá nhân là chủ thể chủ yếu, thường xuyên, quan

trọng và phổ biến của quan hệ dân sự. Các quyền mà pháp luật quy định cho cá nhân là
vì con người và hướng tới con người, trong đó có các quyền nhân thân nói chung và
quyền bí mật đời tư nói riêng. Quyền bí mật đời tư chỉ thuộc về cá nhân trong khi đó
các quyền khác (quyền tài sản) có thể thuộc về chủ thể khác (pháp nhân, hộ gia đình).
Quyền bí mật đời tư là do Nhà nước quy định cho các chủ thể dựa trên điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định, do vậy, về mặt nguyên tắc, quyền bí mật đời tư không thể
dịch chuyển cho chủ thể khác, nói cách khác thì quyền bí mật đời tư không thể là đối
tượng trong các giao dịch dân sự giữa cá nhân. Bản thân chủ thể hưởng quyền bí mật
đời tư chứ họ không thể ủy quyền cho ai đó và thông thường, không ai có thể đại diện
cho họ để thực hiện những quyền này trừ trường hợp pháp luật quy định.
 Thứ hai, mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền bí mật đời tư, tuy nhiên

vẫn có trường hợp ngoại lệ
Mọi cá nhân đều có quyền nhân thân nói chung, quyền bí mật đời tư nói riêng kể
từ khi họ được sinh ra, không phân biệt giới tính, tôn giáo, địa vị xã hội, trình độ học
vấn, tuổi tác... Cá nhân có thể có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, mất năng lực hay bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,
tuy nhiên quyền bí mật đời tư của họ vẫn luôn được pháp luật bảo hộ như nhau.
Mặt khác, trong một số trường hợp nhất định sẽ có sự ngoại lệ đối với một số đối
tượng. Việc quy định những ngoại lệ này cũng không nằm ngoài mục đích công - vì lợi
ích của cả cộng đồng. Ví dụ, mọi cá nhân trong xã hội đều có quyền giữ bí mật về thu
nhập và tài sản của mình nếu nguồn gốc của tài sản, thu nhập là họp pháp. Tuy vậy,
trong một số trường hợp do pháp luật quy định thì cá nhân phải công khai thu nhập
cũng như tài sản của mình. Chẳng hạn, theo quy định của Luật Phòng, chống tham
nhũng 2005 sửa đổi bổ sung năm 2012 thì kê khai tài sản, mọi biến động về tài sản là
nghĩa vụ thuộc về một số cán bộ nhất định như cán bộ từ Phó trưởng phòng trở lên,
một số cán bộ, công chức tại xã, phường, thị trấn, người làm công tác quản lý ngân
sách, người ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân... Sở dĩ pháp luật quy
15



định như vậy nhằm phòng và chống các hành vi tham nhũng bởi công việc, chức vụ
mà những người này đảm trách thuộc lĩnh vực “nhạy cảm”, có thể vụ lợi.
Bên cạnh đó, mặc dù pháp luật của Việt Nam chưa có quy định cụ thể nhưng
trên thực tế, những người được coi là “người của công chúng” thì vấn đề bí mật đời tư
của họ cũng rất khó xác định. Chẳng hạn, bí mật đời tư của các vị lãnh đạo Đảng và
Nhà nước. Những thông tin liên quan đến họ luôn là một trong những tâm điểm chú ý
của mọi người trong xã hội. Họ bị coi là ít có quyền riêng tư hơn vì họ là công bộc của
dân, giữ những vị trí quan trọng mà hành động có thể tác động tới hầu hết nhân dân.
Là “người của công chúng” nên công chúng có quyền khai thác các thông tin, hình ảnh
của họ. Nếu đối với một cá nhân bình thưòng, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân đó
phải được sự đồng ý của bản thân họ, nhưng đổi với một người lãnh đạo Đảng, lãnh
đạo Nhà nước thì việc sử dụng hình ảnh của họ lại không bị coi là xâm phạm đến bí
mật đời tư, trừ khi việc sử dụng đó nhằm những mục đích trái pháp luật.
 Thứ ba, về không gian quyền bí mật đời tư được bảo hộ ở một không gian rộng

Quan hệ giữa cá nhân đối với mọi người trong xã hội là cơ sở để chúng ta ghi
nhận sự tồn tại của các quyền liên quan đến cá nhân đó, trong đó có quyền riêng tư,
quyền đảm bảo sự bí mật đời tư. Nếu xét dưới góc độ nội dung của quyền bí mật đời tư
thì bí mật đời tư của cá nhân có thể là những thông tin về tình cảm gia đình, quan hệ
cha mẹ - con, quan hệ vợ - chồng; những quan hệ với đồng nghiệp ở cơ quan công tác
hoặc những quan hệ xã hội khác. Ngoài ra bí mật đời tư cũng có thể là các vấn đề cụ
thể của cá nhân như tình trạng bệnh tật, sức khoẻ... thậm chí những thông tin liên quan
đến thu nhập (thu nhập hợp pháp), thông tin liên quan đến các nghĩa vụ mà cá nhân
thực hiện đối với Nhà nước hoặc chủ thể khác (tiền thuế mà cá nhân phải nộp, tiền
điện thoại mà cá nhân phải thanh toán...) cũng được coi là thông tin mang tính bí mật.
Xuất phát từ những yếu tố trên đây, với ý nghĩa là bảo hộ quyền bí mật đời tư
theo một không gian cụ thể, chúng ta có thể hiểu bí mật đời tư của cá nhân có thể được
đảm bảo không chỉ trong cuộc sống hàng ngày của cá nhân ở nơi cư trú mà còn có thể
được đảm bảo ở môi trường xung quanh, ví dụ ở cơ quan nơi cá nhân công tác, thậm

chí ở bất cứ nơi nào có thể bảo vệ được. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với
việc bí mật đời tư của cá nhân được bảo hộ ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam..

16


 Thứ tư, quyền bí mật đời tư được bảo hộ vô thời hạn

Quyền nhân thân nói chung, quyền bí mật đời tư nói riêng là một trong những nội
dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân (Khoản 1, Điều 17 BLDS 2015). Quyền bí
mật đời tư của cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ trong suốt cuộc đời của cá
nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, khi cá nhân không thể tự bảo vệ
quyền và lợi ích họp pháp của mình (người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi năng lực hành vi dân

sự) thì người đại diện theo pháp luật có thể thực hiện việc bảo vệ quyền bí mật đời tư
của cá nhân bằng cách áp dụng các biện pháp bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật
hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thấm quyền bảo vệ.
Nếu như chúng ta khẳng định “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi
người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. "(Khoản 3 Điều 16, BLDS 2015) thì
dường như đối với các quyền nhân thân của cá nhân lại là trường hợp ngoại lệ, điều đó có
nghĩa là ngay kể cả sau khi cá nhân chết thì các quyền nhân thân vẫn được pháp luật bảo
vệ. Khoản 2, Điều 25 BLDS 2015 quy định: “Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên
quan đến quyền nhân thân của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự
đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người đó; trường hợp không có những
người này thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích, người đã
chết, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”

Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, khi cá nhân còn sống nếu như việc
công bố bí mật đời tư mà không được sự đồng ý của họ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến

cuộc sống, sinh hoạt của bản thân cá nhân đó (chủ sở hữu thông tin liên quan đến bí
mật đời tư). Khi cá nhân chết hoặc bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết, những
thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân này vẫn được pháp luật bảo vệ bởi điều đó sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt của những người thân thích của họ. Do đó,
thu thập công bố thông tin tư liệu của cá nhân khi cá nhân đã chết hoặc bị Tòa án tuyên
bố là đã chết thì phải được cha, mẹ hoặc vợ, chồng hoặc con đã thành niên của người
đó đồng ý.
 Thứ năm, những thông tin liên quan đến đời tư được bảo hộ phải là những
thông tin mang tính bí mật, không được trái pháp luật và đạo đức xã hội

17


Những thông tin liên quan đến đời tư được bảo hộ phải là những thông tin
mang tính bí mật
Cuộc sống của mỗi một con người gắn liền với nhiều thông tin và theo thời gian,
các thông tin này ngày càng được bổ sung, phát triển. Trong những thông tin đó, có
những thông tin mà người ta không cần giấu giếm, hoặc thậm chí không thể giấu giếm
được: bị bắt và đi tù vì phạm tội, người thân trong gia đình chết, bị tai nạn lao động, tai
nạn giao thông... nhưng bên cạnh đó còn có những thông tin mà người ta hoàn toàn có
thể không công khai và nếu họ không công khai thì những người khác không thể biết
được. Để có thể được thừa nhận là những thông tin được bảo hộ trong phạm trù “bí
mật đời tư” thì những thông tin đó phải mang tính “bí mật”. Vậy tính bí mật của thông
tin được xác định theo những tiêu chí nào ?
Một là, tính “bí mật” của thông tin được xác định theo bản chất của thông tin đó
hoặc thông qua những hình thức chứa đựng thông tin, truyền thông tin cụ thể để chúng
ta xác định đó là bí mật.
Ví dụ: cảm xúc vui buồn của cá nhân có thể được người ta bày tỏ trước một số
chủ thể nhất định – trường hợp này sẽ không coi đó là bí mật. Tuy nhiên, nếu cảm xúc
đó được bản thân cá nhân thể hiện thông qua một hình thức khác như ghi nhật ký (kể

cả trong trường hợp nhật ký đã được viết dưới dạng ký hiệu, mật mã và không có bất
kỳ biện pháp nào để bảo vệ thông tin) thì những thông tin được thể hiện trong nhật ký
vẫn được coi là bí mật riêng tư, nếu ai đó tự ý công bố cuốn nhật ký này mà không
được phép của chủ sở hữu sẽ bị coi là xâm phạm bí mật đời tư.
Ngoài ra trong một số trường hợp, hình thức của việc truyền tải thông tin cũng
thể hiện được bí mật của thông tin đang truyền tải. Ví dụ những cuộc điện thoại, những
tin nhắn qua lại, gửi thư cho nhau (thư tay or thư điện tử) thì mặc nhiên chúng ta phải
hiểu nội dung trao đổi trong những cuộc trò chuyện đó là mang tính bí mật.
Hai là, tính bí mật của thông tin còn có thể được xác định theo quy định của pháp
luật. Tất nhiên, tính bí mật được xác định theo quy định của pháp luật đối với thông

tin ở đây là những thông tin liên quan đến bản thân cá nhân, không áp dụng đối với bí
mật Nhà nước. Pháp luật không thể dự liệu và liệt kê được toàn bộ những thông tin
liên quan đến cá nhân mà chỉ có thể có sự khái quát và cụ thể hoá trong một số trường
hợp cụ thể. Chẳng hạn, trong một số văn bản pháp luật của Nhà nước ta, chúng ta có
18


những quy định cụ thể như các xuất bản phẩm không được có nội dung tiết lộ bí mật
đời tư của cá nhân khi không được phép, hoặc nghiệp vụ báo chí không cho phép tiết
lộ bí mật đời tư của cá nhân, ngoài ra cấm đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu
khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân... Có
những trường hợp không được công bố thông tin liên quan đến cá nhân, nếu công bố
những thông tin nảy thì sẽ bị coi là xâm phạm bí mật đời tư, ví dụ: Tại Điều 8 của Luật
Phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS) 2006 nghiêm cấm hành vi: “Công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người
nhiễm HIV hoặc tiết lộ cho người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa được
sự đồng ý của người đó...” .
Ba là, sẽ coi là thông tin có tính bí mật khi chủ sở hữu thông tin áp dụng các biện
pháp bảo mật.

Bản thân chủ sở hữu thông tin có thể áp dụng các biện pháp bảo mật như khóa,
cài đặt mã số, niêm phong... Thông thường, những trường hợp cần xác định tính bảo
mật thông tin đối với chủ sở hữu là khi có tranh chấp xảy ra, bản thân chủ sở hữu
thông tin cho rằng người khác đã cung cấp thông tin, tiết lộ thông tin khi không được
sự đồng ý của họ - đây chính là hành vi xâm phạm bí mật đời tư của chủ sở hữu thông
tin. Tuy nhiên, bản thân họ phải đưa ra các chứng cứ để chứng minh cho quá trình bảo
mật thông tin của mình.
Bốn là, tính bí mật của thông tin còn có thể được xác định thông qua quan hệ
nghĩa vụ giữa chủ sở hữu thông tin với chủ thể khác.
Theo những quan hệ này, giữa chủ sở hữu thông tin và những người biết được
thông tin đó đã có sự thoả thuận, theo đó những người biết được thông tin do chủ sở
hữu cung cấp phải có nghĩa vụ “bảo mật” - tức là giữ bí mật các thông tin mà mình đã
biết. Ví dụ: trong quan hệ hợp đồng dịch vụ, giữa các bên tham gia giao kết thoả thuận
theo đó bên cung ứng dịch vụ phải giữ bí mật thông tin mà bên thuê dịch vụ cung cấp
thì bên cung ứng dịch vụ phải có nghĩa vụ này. Điều 517 của BLDS 2015 khi quy định
về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ có quy định, bên cung ứng dịch vụ phải “...5.
Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong thời gian thực hiện công việc, nếu
có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định;... ”

19


Những thông tin được coi là “bí mật đời tư” không được trái pháp luật và đạo
đức xã hội
Sự đan xen các mối quan hệ trong xã hội là một điều không thể tránh khỏi, sống
trong một cộng đồng, một tập thể, rộng hơn nữa là sống trong một xã hội nhất định thì
lợi ích chung - riêng luôn có sự kết hợp hài hoà. Cá nhân không thể vì lợi ích của bản
thân mình mà bỏ qua lợi ích của người khác. Những thông tin chỉ có thể được coi là bí
mật đời tư và được pháp luật bảo vệ với điều kiện là những thông tin đó không được
coi là trái pháp luật và trái với đạo đức xã hội

Nếu thông tin có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, thì việc công bố thông tin mặc dù không được phép của chủ sở
hữu thông tin cũng không bị coi là xâm phạm bí mật đời tư như việc công khai các
hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ: A và B chơi thân với nhau, A đến nhà người yêu
chơi, do cãi vã nên lỡ tay giết người yêu nhưng không bị phát hiện. Để bớt mặc cảm
tội lỗi A đã nói điều này với B và yêu cầu B giữ kín thông tin đó. Sau đó, chính B là
người đã công khai thông tin và hành vi giết người của A bị xử lý theo quy định của
pháp luật. Mặc dù B là người đã công khai “thông tin bí mật” mà A đã cung cấp cho
mình nhưng việc cung cấp thông tin đó không bị coi là xâm phạm bí mật đời tư. Thậm
chí, hành vi không bộc lộ thông tin, cố tình che giấu thông tin trong trường hợp này lại
bị coi là hành vi phạm tội.
Khi xác định những thông tin không trái pháp luật, chúng ta căn cứ vào các quy
định của pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc xác định thông tin như thế
nào là trái đạo đức xã hội thì còn khó khăn, bởi đạo đức xã hội là vấn đề thuộc về ý
thức xã hội - đó là sự đánh giá của mọi ngưòi trong xã hội về một hành vi và xử sự cụ
thể. Hơn nữa, vấn đề đạo đức xã hội lại có thể thay đổi theo thời gian, không gian và
phụ thuộc vào phong tục, tập quán...
 Thứ sáu, việc công bố những thông tin thuộc về bí mật đời tư sẽ tạo ra sự bất
lợi đối với chủ sở hữu thông tin

Đối với bí mật đời tư của cá nhân, vì nhiều lý do khác nhau mà bản thân cá nhân
không muốn công khai cho người khác biết bởi nếu công bố công khai thì có thể ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt, tình cảm, công việc của bản thân họ hoặc của
những người có liên quan. Chẳng hạn, khi một người bị nhiễm vi rút HIV, cuộc sống
20


của họ sẽ trở lên khó khăn hơn nếu như nhiều người trong cộng đồng biết được điều
đó, họ có thể bị xa lánh, bị từ chối tiếp xúc, bị buộc thôi việc... Trong nhiều trường
hợp, hậu quả bất lợi không chỉ do bản thân người này gánh chịu mà những người thân

thích của họ cũng có thể gặp phải tình trạng tương tự. Trong khi chúng ta tuyên truyền
vận động để xã hội có cái nhìn cảm thông hơn thì việc giữ bí mật các thông tin liên
quan đến người nhiễm HIV vẫn là biện pháp khả thi để người nhiễm HIV vẫn có thể
hoà nhập vào cộng đồng.
Sự bất lợi của chủ sở hữu bí mật đời tư khi bí mật đời tư của họ được công bố có
thể được hiểu trên nhiều phương diện:
Bất lợi về mặt kinh tế: Cá nhân có thể phải mất những chi phí để cải chính các
thông tin, hoặc phải gánh chịu những thiệt hại khác do không thu được những lợi ích
về mặt kinh tế nếu như bí mật đời tư bị tiết lộ.
Bất lợi trong sinh hoạt, cuộc sống hàng ngày: Bản thân người bị xâm phạm bí
mật đời tư phải gánh chịu những “búa rìu” của dư luận, gặp phải sự dè bỉu, bình luận,
chê cười của những người xung quanh.
Bất lợi trong công việc: Vì hành vi xâm phạm bí mật đời tư mà bản thân người
bị xâm phạm có thể bị mất việc làm hoặc gặp rất nhiều khó khăn trong công việc
Bất lợi trong quan hệ với đồng nghiệp, những người xung quanh khác...
2.1.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền bí mật đời tư
Quyền bí mật đời tư nói riêng, quyền nhân thân nói chung được pháp luật quy
định, bảo vệ và pháp luật luôn có các cơ chế pháp lý để đảm bảo cho các quyền này
được thực hiện trên thực tế. Các biện pháp bảo vệ quyền bí mật đời tư đa dạng với sự
phối kết hợp đồng bộ của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ là sự đảm bảo tích
cực cho quyền bí mật đời tư của cá nhân được phát huy tác dụng.
Bảo vệ quyền bí mật đời tư có ý nghĩa rất quan trọng, được thể hiện trên
những phương diện sau đây:
Bảo vệ quyền bí mật đời tư chính là sự đảm bảo cho quyền của cá nhân đối với
bí mật đời tư được Nhà nước ghi nhận cho cá nhân trở thành hiện thực
Tăng cường sự tôn trọng các quyền của con người, trong đó có quyền đối với
giá trị tinh thần được Nhà nước thừa nhận
21



×