Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nghiên cứu thực trạng tuân thủ vệ sinh tay và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp đến hành vi vệ sinh tay của nhân viên y tế tại Bệnh viện Quân y 7A

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.5 KB, 9 trang )

TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TUÂN THỦ VỆ SINH TAY VÀ
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP ĐẾN
HÀNH VI VỆ SINH TAY CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI BỆNH
VIỆN QUÂN Y 7A
Nguyễn Thị Thanh Thủy1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả của các biện pháp can thiệp nhằm
nâng cao kiến thức, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của NVYT. Đối tượng và phương pháp: 200
nhân viên y tế, gồm 39 bác sĩ, 161 điều dưỡng tại các khoa lâm sàng từ tháng 2/20188/2018. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có so sánh trước và sau can thiệp, quan sát mô
tả trực tiếp việc thực hành rửa tay, điền vào mẫu phiếu điều tra có sẵn, phỏng vấn đối
tượng được quan sát. Kết quả: Trước can thiệp: Tỉ lệ tuân thủ vệ sinh bàn tay của Nhân
viên y tế: đối với Bác sĩ là 30,0%, điều dưỡng là 29,4%. Sau can thiệp:Tỉ lệ tuân thủ vệ
sinh bàn tay của Nhân viên y tế: đối với Bác sĩ là 30,0%, điều dưỡng là 29,4%. Kết luận:
Các biện pháp can thiệp đã giúp nâng cao kiến thức, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của nhân
viên y tế tại Bệnh viện Quân y 7A.
Từ khóa: tuân thủ, vệ sinh tay.
RESEARCH ON STATUS IN COMPLIANCE HAND HYGIENE AND
EFFICIENT ASSESSMENT OF INTERVENTIONS FOR HEALTHCARE
WORKERS HAND HYGIENE AT 7A MILITARY HOSPITAL
ABSTRACT
Objectives: To research the status and effectiveness of interventions to improve
knowledge and compliance rates in hand gygiene of healthcare worker. Subjects:
Bệnh viện Quân y 7A/QK7
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thị Thanh Thủy ()
Ngày nhận bài: 10/10/2018, ngày phản biện: 25/10/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/12/2018
1

88




HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A

200 healthcare workers, including 39 doctors, 161 nurses from clinical departments
from February 2018 to August 8, 2018. Methods: A cross-sectional descriptive study,
comparative before and after intervention, direct observation and description of
hand-washing practice, fill-in questionnaires, and interviews with observed subjects.
Results: The rate of hand hygiene compliance of the medical staff: the doctor is 30.0%,
nurses is 29.4%. After the intervention, the rate of hand hygiene; the doctor is 30.0%,
nursing is 29.4%. Conclusions: Interventions have helped improving the knowledge and
compliance rates in hand hygiene of healthcare workers at the 7A Military Hospital.
Keywords: compliance, hand hygiene.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO)
ước tính, ở bất cứ thời điểm nào cũng có
khoảng 1,4 triệu người trên thế giới mắc
NKBV. Năm 2007 tại Việt Nam, theo BYT
tỷ lệ NKBV giao động từ 5,8% - 8,1% [5].
Nghiên cứu tại bệnh viện Bạch Mai năm
2010 cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân bị nhiễm
khuẩn vết mổ là 6,7%, thời gian nằm viện
trung bình tăng thêm 11,4 ngày, chi phí điều
trị trung bình tăng 3,1 triệu đồng so với chi
phí của bệnh nhân không mắc nhiễm khuẩn
vết mổ [7].
Và đã có nhiều nghiên cứu cho thấy
bàn tay NVYT là nguyên nhân chủ yếu
nhất gây nên NKBV [10]. VST trước và
sau khi tiếp xúc với mỗi bệnh nhân luôn

được coi là biện pháp đơn giản và hiệu
quả nhất, có thể làm giảm 50% nguy cơ
NKBV ở người bệnh [7]. Tại Việt Nam,
quy chế chống NKBV lần đầu tiên được

BYT ban hành vào năm 1997 trong quyển
quy chế bệnh viện kèm theo quyết định số
1895/1997/BYT-QĐ. Nhiễm khuẩn bệnh
viện (NKBV) đang trở thành vấn đề toàn
cầu, là mối quan tâm hàng đầu của mọi hệ
thống y tế trên Thế giới. NKBV có tác động
rất lớn, làm gia tăng tần suất mắc bệnh, tăng
chi phí điều trị, kéo dài thời gian nằm viện,
tăng tỷ lệ tử vong tạo ra một số vi khuẩn
kháng thuốc và làm xuất hiện những tác
nhân gây bệnh mới [1]. NKBV gây hậu
quả nặng nề cho bệnh nhân, bệnh viện và
xã hội trên cả hai phương diện lâm sàng
và kinh tế. Ngoài ra, NKBV còn làm tăng
khả năng kháng thuốc, gây khó khăn cho
điều trị. [8]. Tại bệnh viện, trong quá trình
chăm sóc, điều trị bệnh nhân vi sinh vật
gây bệnh có ở da, vết thương, dịch tiết cơ
thể, quần áo, vật dụng sinh hoạt của người
bệnh và của bản thân NVYT, qua yếu tố
trung gian là bàn tay, có thể lan truyền đến
mọi nơi mà bàn tay đụng chạm tới (bệnh
89



TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018

nhân, NVYT, dụng cụ y tế, quần áo, vật
dụng sinh hoạt…).
Với sự cam kết của BYT thông qua
chương trình VST toàn cầu do WHO phát
động. Trong 4 năm qua chương trình tăng
cường VST đã được triển khai ở hầu hết
các bệnh viện, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn
chế, việc tuân thủ VST trong các cơ sở y
tế ở nước ta hiện nay chưa tốt. Bên cạnh lý
do về kinh tế, kỹ thuật thì rào cản lớn nhất
chính là nhận thức của nhà quản lý, của
NVYT. Các hoạt động về truyền thông –
giáo dục sức khỏe nhằm tuyên truyền tầm
quan trọng cũng như những nguy cơ khi
không tuân thủ VST còn rất hạn chế.
Bệnh viện quân y 7A là bệnh viện đa
khoa hạng 1 trực thuộc Cục Hậu cần quân
khu 7, trong những năm qua, được sự quan
tâm của cục quân y, cục hậu cần, bệnh viện
đã có những thành tựu nhất định trong công
tác khám chữa bệnh bảo vệ sức khỏe Quân
nhân, nhân dân. Công tác phòng chống
nhiễm khuẩn bệnh viện cũng được chú
trọng phát triển, nhằm mục đích đẩy mạnh
các hoạt động truyền thông về VST và xây
dựng mô hình truyền thông thích hợp tại
các khoa phòng trong bệnh viện hơn nữa,
để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh,

giảm chi phí điều trị và số ngày nằm viện
cho bệnh nhân, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng kiến thức và tỷ lệ
tuân thủ vệ sinh bàn tay của nhân viên y tế
tại bệnh viện quân y 7A.
90

2. Đánh giá hiệu quả một số biện
pháp can thiệp đến hành vi vệ sinh tay của
nhân viên y tế tại Bệnh viện Quân y 7A
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng:
Nhân viên y tế trực tiếp khám chữa
bệnh và chăm sóc người bệnh.
Tiêu chuẩn lựa chọn: bác sỹ và điều
dưỡng, kỹ thuật viên tham gia vào quá
trình chăm sóc người bệnh trong thời điểm
điều tra tại các khoa lâm sàng, cận lâm
sàng đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Nhân viên y tế
từ chối tham gia nghiên cứu; Nhân viên y
tế là những thành phần khác hoặc đang đi
học, nghỉ thai sản, ốm.
2.4. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô
tả cắt ngang có so sánh trước và sau.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng
2/2018 đến tháng 8/2018 tại bệnh viện
Quân y 7A

Phương pháp thu thập số liệu: quan
sát mô tả trực tiếp việc thực hành rửa tay,
điền vào mẫu phiếu điều tra chuẩn, phỏng
vấn đối tượng được quan sát về kiến thức
có liên quan. Đánh giá kiến thức và thái
độ về VSBT của NVYT trước và sau can
thiệp được thực hiện bằng phương pháp
phát phiếu điều tra.
Nghiên cứu được tiến hành theo 3


HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A

giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1: Đánh giá kiến thức,
thái độ và tỷ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT
tại Bệnh viện (tháng 2- 3/2018).
- Giai đoạn 2: Can thiệp (tháng 4 6/2015) với một số hoạt động chính như
sau:
+ Hưởng ứng tháng hành động ”Vì
sự sống hãy vệ sinh tay” do Bộ Y tế phát
động vào ngày 5 tháng 5 hàng năm. Lãnh
đạo các đơn vị ký cam kết.
+ Tổ chức tập huấn NVYT các kiến
thức cơ bản về VSBT, tầm quan trọng của
VSBT trong phòng ngừa NKBV: 4 buổi;
hàng ngày tập huấn, đôn đốc, nhắc nhở tại
chỗ NVYT không tuân thủ hoặc tuân thủ
không đúng về quy trình VSBT; phát tờ rơi
về quy trình rửa tay cho các NVYT, in và

dán poster khổ lớn khuyến khích NVYT
rửa tay tại các vị trí dễ nhìn. Những NVYT
tuân thủ không đúng chỉ định và quy trình
VSBT được giám sát viên hướng dẫn và
yêu cầu thực hiện đúng quy định đồng thời
thông báo kết quả.
+ Thống kê phương tiện vệ sinh tay
trên các buồng bệnh, giường bệnh, xe tiêm,
xe thủ thuật, buồng kỹ thuật,…báo cáo đầu
tư đầy đủ các trang thiết bị thiết yếu phục

vụ công tác vệ sinh tay (cồn sát khuẩn tay,
phương tiện VSBT, …).
- Giai đoạn 3: Đánh giá sau can
thiệp: Đánh giá kiến thức và tỷ lệ tuân thủ
VST của NVYT tại Bệnh viện ( tháng 6 7/ 2018).
+ Đánh giá tỷ lệ tuân thủ VST khi
chăm sóc bệnh nhân được thực hiện bằng
phương pháp quan sát điền vào bảng kiểm
do nhân viên của khoa kiểm soát nhiễm
khuẩn thực hiện. Thông tin liên quan tới
công tác vệ sinh tay khi chăm sóc bệnh
nhân được ghi lại theo mẫu phiếu thiết kế
sẵn.
+ Quan sát số cơ hội vệ sinh tay mà
NVYT cần thực hiện, cơ hội vệ sinh tay
được định nghĩa dựa trên 5 thời điểm phải
vệ sinh tay khi chăm sóc bệnh nhân của Bộ
Y tế năm 2007 [2].
+ Thời gian tiến hảnh giám sát vào

hai thời điểm: Sáng (từ 8h – 10h), chiều
(từ 14h – 16h).
Xử lý số liệu:
Các kết quả nghiên cứu được xử lý
bằng phần mềm thông kê y học SPSS 16.0.
Giá trị p < 0,05 được coi là có ý nghĩa
thống kê.

91


TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018

3. KẾT QUẢ
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu: bác sĩ, điều dưỡng
Bảng 3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu: bác sĩ, điều dưỡng (n= 200)
Thông tin chung

N

Tỷ lệ (%)

Bác sĩ

39

19,5

Điều dưỡng


161

80,5

Sau đại học

24

12,0

Đại học

30

15,0

Cao đẳng

22

11,0

Trung cấp

124

62,0

Nam


70

35,0

Nữ

130

65,0

Nghề nghiệp

Trình độ học vấn

Giới

Nhận xét: Phần lớn đối tượng nghiên cứu là điều dưỡng ( 80,5%), nữ giới (65%)
và trình độ trung cấp 62%).
3.2. Kiến thức của nhân viên y tế về vệ sinh bàn tay
Bảng 3.2. Kiến thức của NVYT về VSBT (n=200)
Kết quả khảo sát
Đạt
Không đạt
Thời điểm
n
%
n
%
19
48,7

20
51,3
Trước can BS (n= 39)
thiệp
ĐD (n=161)
64
39,8
97
60,2
(1)

Cộng (n=200)

83

41,5

117

58,5

Sau can
thiệp

BS (n= 39)

27

69,2


12

30,8

ĐD (n=161)

100

62,1

61

39,6

( 2)

Cộng (n=200)

127

63,5

73
P < 0,05

36,5

p

> 0,05


> 0,05

Nhận xét: Kết quả khảo sát cho thấy: kiến thức của NVYT về VSBT trước can
thiệp còn thấp:bác sĩ (48,7%), điều dưỡng (39,8%). Kiến thức của NVYT về VST tăng
92


HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A

lên rõ rệt sau can thiệp là: điều dưỡng (62,1%) so với trước can thiệp là (39,8%), bác sĩ
(69,2) so với trước can thiệp là (48,7%) khác biệt với p< 0,05.
3.3. Tỷ lệ NVYT trả lời đúng câu hỏi về trình tự các bước của quy trình rửa
tay thường quy
Bảng 3.3. Tỷ lệ NVYT trả lời đúng câu hỏi về trình tự các bước của quy trình rửa
tay thường quy
Kết quả khảo sát
Đúng
Sai
n
%
n
21
53,8
18
66
41,0
95
87
43,5

113
29
74,4
10
103
64,0
58
132
66,0
68
p < 0,05

Thời điểm
Trước can
thiệp
(1)
Sau can
thiệp
( 2)

BS (n= 39)
ĐD (n=161)
Cộng ( n=200)
BS (n= 39)
ĐD (n=161)
Cộng (n=200)

p
%
46,2

59,0
56,5
15,6
36,0
34,0

> 0,05

> 0,05

Nhận xét: Tỷ lệ NVYT làm đúng 6 bước quy trình rửa tay trước can thiệp còn thấp:
điều dưỡng (41,0%), sau can thiệp tăng lên rõ rệt (64,0%).Tỉ lệ này trước can thiệp của
bác sĩ là (53,8%) sau can thiệp tăng lên 74,4%. Khác biệt có ý nghĩa với P < 0,05.
3.4. Tỷ lệ tuân thủ VSBT của NVYT trước và sau can thiệp.
Bảng 3.4. Tỷ lệ tuân thủ VSBT của NVYT trước và sau can thiệp
Đối
tượng

Số cơ
hội
Quan
sát

Trước can thiệp
Số lần có
VST(%)

Tuân thủ
đúng quy
trình(%)


Số cơ
hội
Quan
sát

Sau can thiệp
Số lần có
VST(%)

Tuân thủ
đúng quy
trình(%)

P
P<
0,05

Bác sĩ

500

150(30,0)

53(35,3)

500

250(50,0)


138(55,2)

Đ. dưỡng

1700

500(29,4)

141(28,2)

1700

800(47,1)

380(47,5)

Cộng

2200

650(29,5)

194(29,8)

2200

1050(47,7)

518(49,3)


Nhận xét: Tỷ lệ tuân thủ VSBT của
nhân viên y tế các biện pháp can thiệp đã
cải thiện rõ rệt ý thức chấp hành VST của

P<
0,05
P<
0,05

NVYT sau can thiệp lần lượt là Bác sĩ:
(50,0% và điều dưỡng 47,1%). Trong đó
số tuân thủ đúng các bước của quy trình là
93


TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018

rất thấp lần lượt là: Bác sĩ 55,2% và điều
dưỡng 47,5%.Sự khác biệt có ý nghĩa với
p < 0,05.
4. BÀN LUẬN
Theo kết quả của nghiên cứu năm
2000 của Pitter khi giám sát 2834 cơ hội
rửa tay tại bệnh viện ở Thụy Sĩ, tỷ lệ tuân
thủ chung của nhân viên y tế là 48%. Với
các bệnh viện trong nước như Bệnh viện
Bạch mai năm 2007 là 14,1%; năm 2011
là 50,5% bệnh viện Chợ rẫy năm 2010 tỷ
lệ tuân thủ vệ sinh tay là 25,7%. Bệnh viện
Trung ương Huế năm 2010 là 46,6%. Như

vậy, kết quả điều tra của chúng ta còn chậm
nhưng cũng cho thấy sự tiến bộ rõ nét của
việc tuân thủ vệ sinh tay trong quá trình
thực hành chăm sóc, điều trị người bệnh.
Trong những năm gần đây, Bộ Y tế,
ngành quân y đã phát động phong trào
VST ở cả bệnh viện và cộng đồng. Tại
Bệnh viện quân y 7A, cũng đã có nhiều
biện pháp thúc đẩy VSBT như: tổ chức
các buổi tập huấn, xem video clip, nghe
các bài giảng về VSBT cho NVYT, tăng
cường số lượng các vị trí rửa tay, cung cấp
hóa chất sát khuẩn tay nhanh, giám sát sự
tuân thủ rửa tay và phản hồi lại với các
NVYT để họ biết và tuân thủ tốt. Tuy nhiên
Kết quả khảo sát của chúng tôi tại bảng 3.1
cho thấy thông tin chung đối tượng nghiên
cứu ở đây chủ yếu chúng tôi thực hiện lấy
phần lớn là Điều dưỡng là (80,5%), Bác sĩ
(19,5%), nữ giới (65%) và trình độ trung
cấp (62 %),tỉ lệ là Điều dưỡng chiếm cao
là nhóm đối tượng thực hiện các công tác
chăm sóc nhiều hơn, nhưng cũng có mặt
hạn chế vì còn trẻ nên kinh nghiệm thực tế
chưa có, chưa nhận thức được hết tầm quan
94

trọng của rửa tay vì vậy lãnh đạo khoa cần
phải thường xuyên nhắc nhở.Tại bảng 3.2
cho thấy kiến thức của NVYT về VSBT

trước can thiệp còn thấp: bác sĩ (48,7%),
điều dưỡng (39,8%). Kiến thức của NVYT
về VST tăng lên rõ rệt sau can thiệp là:
điều dưỡng (62,1%) so với trước can thiệp
là (39,8%), bác sĩ (69,2) so với trước can
thiệp là (48,7%). Trong đó hầu hết các
NVYT đều đồng ý rửa tay là lựa chọn tốt
nhất để giảm sự lây truyền của các nhân tố
gây nhiễm khuẩn có liên quan đến chăm
sóc y tế. Tại bảng 3.3 cho thấy tỷ lệ NVYT
trả lời đúng 6 bước quy trình rửa tay trước
can thiệp còn thấp: điều dưỡng (41,1%),
sau can thiệp tăng lên rõ rệt (64,0%). Bác
sĩ (53,8%),sau can thiệp(74,4%). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp
với nhiều nghiên cứu của các tác giả khác:
Theo Kiều Chí Thành (2013), nhận thức
về VST của điều dưỡng Viện Quân Y 103
chỉ đạt (57%), chưa nêu chính xác 5 thời
điểm rửa tay[7]. Theo Tạ Thị Phương
(2011), trước can thiệp có 59,5% NVYT
ở điều tra đạt yêu cầu về kiến thức VSBT,
tỷ lệ trả lời đúng về 6 bước của quy trình
thường quy chỉ đạt 18,4% và tỷ lệ tuân thủ
rửa tay là 53,2%[5].Tại bảng 3.4 cho thấy
tỷ lệ tuân thủ VST của NVYT trước can
thiệp đối với đối tượng là Bác sĩ là 30,0%,
tuân thủ đúng quy trình là 35,3% sau can
thiệp 50%,tuân thủ đúng quy trình 55,2%.
Đối tượng Điều dưỡng trước can thiệp là

29,4% và tuân thủ đúng quy trình là 28,5%
sau can thiệp 47,1%, tuân thủ đúng quy
trình 49,3%. Kết quả trên cũng cho chúng
ta thấy phù hợp với các nghiên cứu của
một số đơn vị như: Viện Bỏng Quốc Gia
trước can thiệp (28,9%) đạt thấp hơn so


HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A

với một vài nghiên cứu trong nước và càng
thấp hơn nữa so với tỷ lệ ở các nước có nền
y học tiên tiến.
Một nghiên cứu năm 2000 của Piter
tỷ lệ tuân thủ VST là 48%[8], Bệnh viện
Chợ Rẫy là 43,4 % [7]. Bệnh viên TW Huế
là 51,5%[4].Tỷ lệ VST thấp một phần do
phương tiện VST thiếu, đặc biệt là do nhân
viên Y tế chưa ý thức được vai trò của VST
trong Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện.
Kết quả này phù hợp với tình trạng
chung ở nước ta qua nghiên cứu của Bộ Y
tế ( 2006)[2], chỉ có khoảng 10% NVYT
tuân thủ quy trình VST, đó là một trong
những nguyên do của tình trạng nhiễm
khuẩn bệnh viện tới mức báo động ở Việt
nam.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy, Bác sĩ là đối tượng có kiến thức,
kỹ năng và tỷ lệ tuân thủ rửa tay tốt hơn

vì thường xuyên được bồi dưỡng kiến
thức về VST, tham dự các buổi tập huấn
... Trước thực trạng kiến thức và sự tuân
thủ VST của NVYT chưa cao, Nhân viên
khoa KSNK đã tiến hành các biện pháp
can thiệp bao gồm:Bổ sung đầy đủ các
trang thiết bị thiết yếu phục vụ công tác
VST (Giá treo, cồn sát khuẩn tay), tổ chức
tập huấn NVYT các kiến thức cơ bản về
VSBT, tầm quan trọng của VSBT trong
phòng ngừa NKBV, giám sát trực tiếp sự
tuân thủ VST của NVYT khi chăm sóc,
tiêm truyền cho bệnh nhân và giám sát
tuân thủ rửa tay khi thay băng,thực hiện
các kỹ thuật thăm khám Người bệnh từ đó
có sự nhắc nhở, hướng dẫn trực tiếp về quy
trình VST và tuân thủ 5 thời điểm VST cho
NVYT, đồng thời cũng báo cáo với chỉ huy

khoa nắm được để có thể nhắc nhở NVYT
tại khoa.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, kiến
thức và tỷ lệ tuân thủ quy trình rửa tay
thường quy của NVYT đã tăng rõ rệt sau
can thiệp. kiến thức của NVYT về VSBT
trước can thiệp còn thấp: bác sĩ (48,7%),
điều dưỡng (39,8%). Kiến thức của NVYT
về VST tăng lên rõ rệt sau can thiệp là:
điều dưỡng (62,1%) so với trước can thiệp
là (39,8%), bác sĩ (69,2%) so với trước can

thiệp là (48,7%) (p< 0,05). Tỷ lệ NVYT
trả lời đúng 6 bước quy trình rửa tay trước
can thiệp còn thấp: điều dưỡng (41,0) sau
can thiệp tăng lên rõ rệt (64,0%). Bác
sĩ (53,8%) sau can thiệp tăng lên rõ rệt
(74,4%). Khác biệt có ý nghĩa với P < 0,05,
về tỷ lệ tuân thủ VST của NVYT trước và
sau can thiệp lần lượt là 29,5% và 47,7%,
số tuân thủ đúng quy trình tăng từ 28,9%
lên 49,3% ( p < 0,05). Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi là hoàn toàn phù hợp với
nghiên cứu của các tác giả khác như Tạ
Thị Phương ( 2011)[5]. Điều này cho thấy
cần phải được tập huấn cho NVYT một
cách liên tục và có sự giám sát chặt chẽ về
sự tuân thủ VSBT của NVYT trong thăm
khám và thực hiện kỹ thuật,chăm sóc bệnh
nhân.
5. KẾT LUẬN
Kiến thức của NVYT về VSBT còn
thấp, kiến thức của NVYT về VSBT trước
can thiệp còn thấp: bác sĩ (48,7%), điều
dưỡng (39,8%). Kiến thức của NVYT về
VST tăng lên rõ rệt sau can thiệp là: điều
dưỡng (62,1%) so với trước can thiệp là
(39,8%), bác sĩ 69,2%) so với trước can
thiệp là (48,7%). Trong đó hầu hết các
95



TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018

NVYT đều đồng ý rửa tay là lựa chọn tốt
nhất để giảm sự lây truyền của các nhân
tố gây nhiễm khuẩn có liên quan đến
chăm sóc y tế, Tỷ lệ NVYT trả lời đúng 6
bước quy trình rửa tay thường quy trước
can thiệp còn thấp: điều dưỡng (41,0%),
sau can thiệp tăng lên rõ rệt (64,0%),bác
sĩ (53,8%), sau can thiệp tăng lên rõ rệt
(74,4%). Tỷ lệ tuân thủ VST của NVYT
trước can thiệp đối với đối tượng là Bác sĩ
là 30,0%, tuân thủ đúng quy trình là 35,3%
sau can thiệp 50%, tuân thủ đúng quy trình
55,2%. Đối tượng Điều dưỡng trước can
thiệp là 29,4% và tuân thủ đúng quy trình
là 28,5% sau can thiệp là 47,1%, tuân thủ
đúng quy trình 49,3%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Việt Hùng và cộng sự,
“Đánh giá phương tiện, nhận thức, tuân
thủ rửa tay ở nhân viên y tế tại 1 số cơ sở
y tế ở Việt Nam”, Tạp chí y học thực hành,
Bộ Y Tế, (518), tr.34-36.
2. Nguyễn Việt Hùng (2010), Vệ sinh
tay trong phòng ngừa nhiễm khuẩn Bệnh
Viện, Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội. tr.5865
3. Nguyễn Việt Hùng ( 2001),
“Chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn
tại Bệnh viện Bạch Mai”, Tài liệu đào tạo

kiểm soát nhiễm khuẩn, Bệnh viện Bạch
Mai, tr. 1- 2
4. Nguyễn Việt Hùng, Lê Thị Thanh
Thủy (2008), “Thực trạng phương tiện vệ
sinh bàn tay, nhận thức và thực hành vệ
sinh tay của nhân viên y tế tại một số bệnh
viện khu vực phía Bắc, 2005”, Tạp chí Y

96

học lâm sàng, ( Số chuyên đề 6/2008), tr.
136- 141.
5. Đặng Đăng Khoa, Nguyễn Việt
Hùng (2008), “Nghiên cứu biểu hiện không
mong muốn của hóa chất vệ sinh bàn tay
sử dụng tại Bệnh viện Bạch Mai”, Tạp chí
y học lâm sàng, số chuyên đề (6/2008),tr.
156- 161.
6. Phạm Đức Mục và cộng sự (2001),
“Giám sát NKBV tại 11 bệnh viện”, Tạp
chí Y học thực hành, 2005.
7. Lục Thị Thu Quỳnh, Nguyễn Thị
Hoài Thu, Lê Kiến Ngãi ( 2010), “ Hiệu
quả của 1 số chương trình thúc đẩy tuân
thủ VST tại bệnh viện Nhi Trung Ương
năm 2010”, Tạp chí Y học lâm sàng, số
chuyên đề (5/2010), tr. 101- 108.
8. Võ Thị Hồng Thoa, Lê Thị Anh
Thư (2011), “Tuân thủ thực hành KSNK tại
bệnh viện Chợ Rẫy-hiệu quả của chương

trình tăng cường đào tạo và giám sát”, Tạp
chí y học thực hành, BYT (904), tr. 07- 11.
9. Boyce JM et al (1990), “ A
common source outbreak of Staphylococus
epidermidis infections among patients
undergoing cardiac surgery”, Journal of
Infectious Diseases, (161), pp.493- 499.
10. Casewell M, Phillips I, (1977),
“ Hands as route of transmission for
Klebsiella species”, Br. Med. J. Vol.2, pp.
1315 – 1317.
11. Center for Disease control end
Privention (1990), “ Public health burden
of vaccine preventable disease among
adults: Standards for adult immunization
practice”, MMWR, Vol.42, pp.725 – 729.



×