KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI
Thực hiện các mục tiêu phát triển
bền vững và vai trò của Cơ quan
kiểm toán tối cao
V
PHẠM THỊ THỦY*
iệc Liên hợp quốc (LHQ) ban hành các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) vào năm 2015
đã đánh dấu một dấu mốc quan trọng trong lịch sử thế giới hiện đại. Gần như tất cả các
quốc gia thành viên LHQ đều chấp thuận (và phần lớn cũng đã phê chuẩn) các SDG vào
trong khung khổ chính sách quốc gia. Phát triển bền vững là một q trình chuyển đổi
trong đó thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà khơng làm giảm đi cơ hội phát triển của thế hệ tương lai.
Vào năm 2017, Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm tốn tối cao (INTOSAI) nhận ra sự cần thiết của việc các
Cơ quan kiểm tốn tối cao (SAI) phải giải quyết một cách tồn diện các SDG trong q trình kiểm tốn
tất cả các bên liên quan. Bài viết giới thiệu về kinh nghiệm của một số SAI trong việc triển khai kiểm tốn
các SDG trong bối cảnh từng quốc gia.
Từ khóa: Mục tiêu phát triển bền vững, cơ quan kiểm tốn tối cao
Implementation of Sustainable Development Goals and the role of Supreme Audit Institutions
The 2015 United Nations (UN) enactment of sustainable development goals (SDG) marked an important
milestone in modern world history. Nearly all UN member states approve (and most have also ratified) SDGs
into the national policy framework. Sustainable development, a transformation process that satisfies the
needs of the current generation without diminishing the development opportunities of future generations.
In 2017, the International Organization of the Supreme Audit Institution (INTOSAI) recognized the need
for the Supreme Audit Institution (SAI) to comprehensively address SDGs in auditingall the parties involved.
The paper briefly introduces the experience of SAIs in implementing SDG audits in each country context.
Keywords: Sustainable Development Goals, Supreme Audit Institution
Mục tiêu phát triển bền vững và cam kết của
INTOSAI
trình cho tiến trình thực hiện SDG và các giá trị gia
tăng và lợi ích đối với đời sống người dân.
“Thay đổi thế giới: Chương trình nghị sự đến
Trong khi các SDG được triển khai ở cấp độ
2030 về phát triển bền vững” là một chương trình
Chính phủ, thì các SAI với thẩm quyền và chức
hành động của LHQ trong đó xác định mơ hình
năng, tập trung vào việc giám sát cách mà các cơ
phát triển bền vững ở cấp độ tồn cầu. Chương
trình nghị sự 2030 xác định trách nhiệm của mỗi
quan nhà nước thực hiện nghĩa vụ quốc gia đối
với SDG.
quốc gia ở cấp độ quốc gia, khu vực và tồn cầu
Nghị quyết A/69/228 của LHQ kêu gọi sự thúc
(có tính đến điều kiện thực tế, năng lực, trình độ
đẩy và khuyến khích tính hiệu quả, trách nhiệm
phát triển và ưu tiên riêng của từng nước). Chương
giải trình, hiệu lực và minh bạch của hành chính
trình nghị sự 2030 cũng bao gồm các biện pháp
cơng thơng qua củng cố năng lực cho các SAI và
theo dõi và đánh giá để theo dõi trách nhiệm giải
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ cho
* Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tốn, Kiểm tốn nhà nước
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
Số 136 - tháng 2/2019
69
KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI
việc triển khai SDG. Các SAI có thể và nên đóng
chỉ tiêu cụ thể. ISSAI 5110 “Hướng dẫn thực hiện
một vai trò quan trọng trong các cuộc kiểm tốn
kiểm tốn hoạt động mơi trường”. ISSAI 5110 gợi ý
liên quan đến SDG, đặc biệt là gia tăng giá trị cho
rằng các SAI tiến hành kiểm tốn hoạt động về các
người làm chính sách và cơng dân. Các SAI cũng
chương trình mơi trường và chú ý đến khía cạnh
được khuyến khích đóng góp vào việc theo dõi tiến
mơi trường trong các chương trình của Chính phủ.
độ, giám sát triển khai và xác định khả năng phát
Nội dung thực hiện kiểm tốn mục tiêu phát
triển khi nó trở thành nỗ lực phát triển bền vững
của quốc gia.
Ủy ban Kiểm tốn Indonesia
Cam kết của INTOSAI về việc hỗ trợ triển khai
SDG càng được thể hiện rõ trong các ưu tiên chiến
lược giai đoạn 2017 – 2022, tìm kiếm sự đóng góp
cho các SDG tiếp theo và xem xét trong bối cảnh
nỗ lực phát triển bền vững riêng biệt của từng quốc
gia và thẩm quyền của từng SAI.
Hiện đã có một số hệ thống đo lường sự bền
vững, trong đó có cơng cụ đánh giá chiến lược mơi
trường (SEA) – một cơng cụ phản ánh các vấn đề
bền vững trong chính sách. Bắt nguồn từ cơng cụ
đánh giá tác động mơi trường (EIA), SEA tập trung
vào việc lập và sử dụng các báo cáo về tác động mơi
Các chuẩn mực kiểm tốn INTOSAI (ISSAI)
trường vào trong các kế hoạch, chương trình trong
cũng hướng dẫn kiểm tốn liên quan đến các mục
khi kết hợp sự tham gia của tất cả các thành viên
tiêu phát triển bền vững. ISSAI 5130 “Phát triển
bền vững: Vai trò của các cơ quan kiểm tốn tối
70
triển bền vững của một số quốc gia
trong xã hội.
Vận dụng SEA để thực hiện kiểm tốn liên
cao” chỉ ra rằng các SAI đóng vai trò quan trọng
quan đến SDG có thể được củng cố bởi ISSAI 5110
trong việc thúc đẩy phát triển bền vững từ bền
“Hướng dẫn thực hiện kiểm tốn hoạt động trên
ngồi (đối với các Chính phủ) và từ bên trong
khía cạnh mơi trường”. ISSAI 5110 gợi ý rằng các
(phạm vi kiểm tốn). ISSAI 5130 đề xuất việc các
SAI tiến hành kiểm tốn hoạt động về các chương
SAI tập trung kiểm tốn ở cấp độ chiến lược và các
trình mơi trường và chú ý đến khía cạnh mơi trường
Số 136 - tháng 2/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
trong các chương trình của Chính phủ. Phân biệt
các tác động môi trường và xã hội với hiệu quả và
hiệu lực kinh tế là một lợi thế trong việc sử dụng
công cụ SEA với các quy định pháp luật liên quan.
Trong lịch sử, SAO tiến hành kiểm toán hoạt
động về môi trường sử dụng nguyên tắc 3Es – tính
kinh tế, hiệu quả và hiệu lực. SAO được giao nhiệm
vụ giám sát việc tuân thủ của Chính phủ về luật
Nói chung, các bước triển khai SEA cần bao
gồm:
pháp, các quy tắc, quy định và nghị quyết của Hội
• Đánh giá tính khả dụng của SEA trong kiểm
toán hoạt động;
Hành trình nâng cao chất lượng kiểm toán hoạt
động về môi trường bắt đầu từ năm 2005, khi mà
• Đánh giá hiệu quả và hiệu lực của SEA bằng
các công cụ liên quan;
cho SAO phát triển kiểm toán môi trường thông
• Thực hiện cuộc kiểm toán đặc biệt sử dụng
SEA;
• Phát triển tiêu chí sử dụng SEA (từ khía cạnh
môi trường) trong kiểm toán báo cáo tài chính của
Chính phủ.
Ở Indonesia, việc áp dụng SEA được chính
thức hỗ trợ bởi Luật số 32/209 về bảo vệ và quản
lý môi trường, yêu cầu các tổ chức phải xem xét
đến SEA khi trình bày các kế hoạch, chính sách và
chương trình. SEA cũng có thể được sử dụng để
thay đổi hay điều chỉnh các phiên bản trước đó.
Theo nguyên tắc của tổng thống, Kế hoạch phát
triển trung hạn Indonesia giai đoạn 2015 – 2019
được sửa đổi để phù hợp với các SDG và phát triển
một kế hoạch hành động quốc gia về SDG. Quy
tắc này cũng được áp dụng cho các chính quyền
cấp khu vực. Các điều kiện cơ bản này tạo ra một
lợi thế khác biệt trong triển khai SEA ở Indonesia.
Ủy ban Kiểm toán Indonesia đã đưa SEA vào trong
phạm vi kiểm toán hoạt động và tài chính và đồng
thời ban hành chuẩn mực kiểm toán tài chính dựa
trên yếu tố môi trường.
Kiểm toán nhà nước Thái Lan
Từ năm 2005, Cơ quan Kiểm toán nhà nước
Thái Lan (SAO), đã chịu trách nhiệm thực hiện
các cuộc kiểm toán môi trường đầu tiên và SAO
cũng đã đưa các vấn đề môi trường, bao gồm phát
triển bền vững vào các vấn đề ưu tiên. Thái Lan tiến
hành ba bước tiếp cận trong việc thực hiện kiểm
toán hoạt động về môi trường và hỗ trợ phát triển
bền vững quốc gia và toàn cầu của SAO.
Giai đoạn 1: Tiến hành nghiên cứu
đồng Bộ trưởng về môi trường.
Quỹ Kiểm toán toàn diện Canada (CCAF) hỗ trợ
qua các học bổng và các khóa thực tập. TS Sirin
Phankasem, Phó Tổng Kiểm toán Thái Lan được
lựa chọn tham gia chương trình này và trong quá
trình học ông đã xây dựng một bản chiến lược về
“Hướng tới phát triển bền vững: tập trung vào
kiểm toán môi trường”. Chiến lược này vạch ra các
chiến lược để tích hợp các vấn đề môi trường vào
công tác kiểm toán của SAO một cách đầy đủ hơn,
nhấn mạnh vấn đề phối hợp nhân lực ở tất cả các
cấp và sự hỗ trợ liên tục về mặt chính sách để đạt
được sự phát triển dài hạn về môi trường và phát
triển bền vững.
Chiến lược này lần đầu tiên được triển khai
trong phạm vi kiểm toán hoạt động về môi trường
của SAO về ô nhiễm tiếng ồn gây ra bởi sân bay
Suvarnabhumi vốn từ năm 2006 đã gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới các cộng đồng dân cư gần đó. Tổ
chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) cho
biết giải quyết vấn đề tiếng ồn sân bay đòi hỏi phải
xác định được vấn đề một cách rõ ràng và có biện
pháp giảm thiểu tiếng ồn với chi phí hợp lý.
Biện pháp được đưa ra bao gồm: (1) Sử dụng
máy bay phát ra tiếng ồn ít hơn; (2) có kế hoạch
sử dụng và quản lý đất đai, (3) hạn chế tiếng ồn và
(4) xem lại các thủ tục hoạt động cũng như vùng
cấm. ICAO đưa ra các chính sách liên quan đến
từng biện pháp và thiết lập một hệ thống để thu phí
từ các hoạt động gây ồn để đền bù cho những vùng
dân cư bị ảnh hưởng.
SAO bắt đầu bằng việc đánh giá các nỗ lực để
giải quyết các vấn đề liên quan đến tiếng ồn. Mục
tiêu kiểm toán bao gồm đánh giá các biện pháp để
giảm thiểu các vấn đề mà người dân sống gần sân
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
Số 136 - tháng 2/2019
71
KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI
bay gặp phải do mức tiếng ồn tăng cao; xác định các
vấn đề và rào cản trong việc giải quyết tác động của
để nâng cao hơn nữa và củng cố thêm kiểm tốn
hoạt động về mơi trường.
tiếng ồn; và đưa ra các kiến nghị giải quyết. SAO có
Giai đoạn 3: Thành lập Vụ kiểm tốn mơi trường
3 phát hiện kiểm tốn: Trong khi người dân bị ảnh
hưởng bởi tiếng ồn sân bay phải được bồi thường
thì khoản tiền này đã bị trì hỗn rất lâu; ngân sách
để hỗ trợ người dân thốt khỏi mức ơ nhiễm tiếng
ồn ngày càng tăng cũng đã tăng cao bất thường và
các biện pháp để giải quyết ơ nhiễm tiếng ồn sân
bay đã khơng được triển khai.
Giai đoạn 2: Củng cố kiểm tốn hoạt động về mơi
trường
Năm 2010, Ngân hàng Thế giới đã có một khoản
tài trợ cho SAO, và SAO lựa chọn kiểm tốn hoạt
động mơi trường là lĩnh vực cần cải thiện và u
cầu hỗ trợ kỹ thuật từ Cơ quan kiểm tốn Estonia.
Sau đó, SAO tổ chức một hội thảo quốc tế về kiểm
tốn mơi trường, ở đó, các kiểm tốn viên của SAI
Estonia đã chia sẻ kinh nghiệm trong việc nhận
diện và hiểu rõ về khái niệm phát triển bền vững
và thực hiện kiểm tốn hoạt động về mơi trường.
Với sự hỗ trợ vốn từ quỹ GIZ của Cộng hòa Liên
bang Đức và hỗ trợ chun mơn của INTOSAI
và ASOSAI, SAO đã tổ chức một cuộc kiểm tốn
chung trong khu vực về vấn đề nguồn nước, tập
trung vào lưu vực sơng Mê kơng. Hoạt động này
vào năm 2012 là bước đầu hướng tới việc phát triển
và triển khai kiểm tốn chung của các SAI (Cơ
quan Kiểm tốn Vương quốc Campuchia, Kiểm
tốn nhà nước Lào, Kiểm tốn nhà nước Thái Lan
và Kiểm tốn nhà nước Việt Nam). Ủy ban Kiểm
tốn Indonesia và Cơ quan kiểm tốn Malaysia hỗ
trợ chun mơn cho cuộc kiểm tốn chung này.
Mục đích của cuộc kiểm tốn là đảm bảo rằng
nước và các nguồn tài ngun thiên nhiên liên
quan đến nước của lưu vực sơng Mê kơng được
quản lý tốt và sử dụng đảm bảo phát triển bền vững
và cơng bằng – mục đích khó khăn nhưng đã đạt
được. Chính phủ các nước dọc lưu vực sơng Mê
kơng đã thiết lập nên một khn khổ chung về việc
quản lý nguồn nước xun biên giới.
Kinh nghiệm kiểm tốn của SAO đã được chia
sẻ cho các SAI và các ý kiến phản hồi được sử dụng
72
Số 136 - tháng 2/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
SAO thành lập Vụ Kiểm tốn mơi trường (EAO)
vào năm 2017, tập trung vào nhiệm vụ kiểm tốn
hoạt động và kiểm tốn các tác động mơi trường.
EAO sẽ xem xét lại các hợp đồng, các dự án của
khu vực cơng, nghiên cứu và đưa ra kiến nghị về
các chương trình của Chính phủ có nguy cơ gây
ra tác hại mơi trường. EAO cũng sẽ tiến hành các
cuộc kiểm tốn tn thủ để xem xét mức độ tn
thủ của các đơn vị được kiểm tốn đối với các kiến
nghị của EAO và các cam kết mơi trường mang
tính quốc tế. Phát triển kiểm tốn hoạt động mơi
trường trong nỗ lực chuẩn bị cho các mục tiêu phát
triển bền vững là nhiệm vụ chủ yếu và trước hết
trong sứ mệnh của SAO.
Theo UNEP (Ủy ban phụ trách các vấn đề mơi
trường của LHQ) thì hơn một nửa các SDG tập
trung vào các vấn đề mơi trường hoặc giải quyết
vấn đề phát triển bền vững các nguồn lực. Với hơn
86 mục tiêu liên quan đến phát triển bền vững
mơi trường và trong từng mục tiêu của 17 SDG
liên quan đến ít nhất 1 trong số các mục tiêu này,
KTNN Thái Lan tiếp tục nghiên cứu việc kiểm tốn
triển khai SDG với nỗ lực phát triển tương lai các
cuộc kiểm tốn hoạt động về mơi trường liên quan
đến SDG.
Kiểm tốn nhà nước Ba Lan
Hiến pháp của Cộng hòa Ba Lan xem phát triển
bền vững là một trong các ngun tắc và nhiệm vụ
quan trọng nhất của đất nước. Điều 5 Hiến pháp
Ba Lan kêu gọi sự bảo vệ độc lập chủ quyền, thống
nhất và đảm bảo sự tự do, quyền và an tồn của
mọi cơng dân. Nó cũng đòi hỏi các di sản của quốc
gia phải được bảo tồn và bảo vệ mơi trường quốc
gia trên cơ sở các ngun tắc phát triển bền vững.
Cùng lúc đó, Điều 74 u cầu các cơ quan nhà
nước phải đảm bảo các chính sách có mục đích
đảm bảo an tồn sinh thái cho các thế hệ hiện tại
và tương lai.
Ba Lan đã cam kết sẽ triển khai chương trình
nghị sự 2030 của LHQ và các mục tiêu phát triển
bền vững, một nhiệm vụ đòi hỏi sự phối hợp từ
tất cả các bên liên quan. Một mô hình phát triển
mới của Ba Lan, vạch ra chiến lược phát triển của
đất nước, đáp ứng kỳ vọng của Chương trình nghị
sự 2030 và phù hợp với tầm nhìn LHQ vì một thế
giới không đói nghèo, nơi mà mọi người dân đều
có cơ hội được hưởng lợi từ sự phát triển. Bộ Phát
triển kinh tế Ba Lan cùng với Bộ Doanh nghiệp và
Công nghệ thực hiện vai trò chung trong việc triển
khai SDG. Trong khi các SDG được triển khai ở
cấp độ Chính phủ, thì các SAI với thẩm quyền và
chức năng, tập trung vào việc giám sát cách mà các
cơ quan nhà nước thực hiện nghĩa vụ quốc gia đối
với SDG. SAI Ba Lan (NIK) kiểm tra quá trình này
tuân theo ISSAI 5130 “Phát triển bền vững: vai trò
của các Cơ quan kiểm toán tối cao” và ISSAI 12
“Giá trị và lợi ích của cơ quan kiểm toán tối cao –
tạo ra sự khác biệt cho đời sống của công dân”
NIK tiến hành kiểm toán “Chuẩn bị triển khai
Mục tiêu phát triển bền vững theo chương trình
nghị sự 2030” ở Ba Lan vào đầu năm 2018. Sử dụng
chuẩn mực kiểm toán quốc tế, dựa trên chuẩn mực
ISSAI và một cách thức riêng biệt do INTOSAI ban
hành, NIK kiểm toán việc liệu mô hình phát triển
của Ba Lan được vạch ra trong Chiến lược phát
triển quốc gia có đáp ứng với kỳ vọng của Chương
trình nghị sự 2030 và sự chuẩn bị quản trị quốc gia
trong việc triển khai SDG.
Theo như phát hiện kiểm toán của NIK, các hoạt
động hiệu quả ở cấp quốc gia bước đầu đã (1) đưa
các SDG vào chính sách phát triển quốc gia, (2) xây
dựng nên cấu trúc thể chế phù hợp, (3) chuẩn bị
cho việc giám sát quá trình triển khai SDG.
Chiến lược quốc gia của Ba Lan bao gồm các
mục tiêu phù hợp với SDG. Chính phủ đã xây dựng
mối liên kết với các bên liên quan chính để cùng
quản lý quá trình phát triển và tạo ra phương thức
triển khai chung. Hơn nữa, các chỉ số đo lường
các nỗ lực này cũng đã được lựa chọn. Chiến lược
quốc gia cũng được tích hợp với khung tài chính
quốc gia. Các biện pháp được thực hiện phù hợp
với cách tiếp cận chung của Chính phủ và nguyên
tắc của chương trình nghị sự là không để ai bị bỏ
lại phía sau. Trong suốt cuộc kiểm toán, các nghiên
cứu xác định mẫu thực hành tốt được áp dụng ở
các nước – các mẫu thực hành mang lại kết quả tích
cực – ví dụ như mở rộng cách thức tiếp cận cấp độ
địa phương thông qua các hoạt động tình nguyện
được tiến hành bởi Chính phủ trung ương và các
biện pháp được thực hiện nhằm tăng cường nhận
thức của công chúng về SDG.
Trong báo cáo kiểm toán, NIK trình bày một số
nhận xét về các đơn vị được kiểm toán, trong đó
đưa ra kiến nghị cho đối tượng kiểm toán về việc
tiếp tục và tăng cường các hoạt động bảo đảm cho
việc đạt được các SDG một cách hiệu quả và nhất
quán ở tầm nhìn xa hơn. Ví dụ như:
• Tăng cường quan hệ đối tác xã hội để triển
khai SDG nhằm thu hút được sự tham gia rộng
khắp;
• Thúc đẩy Chương trình nghị sự 2030 và các
SDG tới các môi trường và nhóm xã hội khác nhau
(cả trên website các bộ ngành);
• Tăng cường việc điều chỉnh các chỉ tiêu quốc
gia vào danh sách các chỉ tiêu được UN thông qua
nhằm tạo thuận lợi cho việc đo lường tiến độ;
• Tiến hành đánh giá quá trình trên cơ sở
thường xuyên, liên tục (ở cấp độ quốc gia và địa
phương) nhằm gia tăng gia trị bằng việc duy trì lợi
ích xã hội trong phát triển bền vững và tạo cơ sở
cho các khuyến nghị về các hành động cần thiết ở
các cấp độ khác nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Strategic environmental assessments to
address sustainability, Blucer W.Rajagukguk
và Rezza Rinova Tohir, Ủy ban Kiểm toán
Indonesia;
2. Sirin Phankasem, Phó Tổng Kiểm toán nhà
nước Thái Lan và Sutthi Suntharanurak,
Kiểm toán viên cao cấp, Vụ Hợp tác quốc
tế, KTNN Thái Lan;
3. Beata Blasiak Nowak, Chuyên gia kinh tế và
Marzena Rajczewska, Chuyên gia Kỹ thuật,
Cơ quan kiểm toán tối cao Ba Lan.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
Số 136 - tháng 2/2019
73