Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Điển cố trong Lộc Minh đình thi thảo của Ưng Bình Thúc Giạ Thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.99 KB, 9 trang )

TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 5 - Tháng 01/2011

ĐIỂN CỐ TRONG LỘC MINH ĐÌNH THI THẢO CỦA
ƯNG BÌNH THÚC GIẠ THỊ
NGUYỄN HUY KHUYẾN (*)

TĨM TẮT
Lộc Minh đình thi thảo là một tập với 197 bài của Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một trong
những tập thơ chữ Hán cuối cùng của văn học Hán Nơm. Tập thơ có giá trị nhiều mặt về
ngơn ngữ, nghệ thuật… Trong đó, khai thác giá trị nghệ thuật ở việc sử dụng điển cố, điển
tích phần nào giúp độc giả dễ dàng tiếp cận với các bài thơ trong văn bản Lộc Minh đình
thi thảo.
Khảo cứu, đánh giá cách sử dụng điển cố của Ưng Bình Thúc Giạ Thị trong Lộc Minh
đình thi thảo nhằm giúp cho người đọc hiểu rõ hơn những thủ pháp nghệ thuật trong thơ
ca Hán Nơm, (gọi chung là văn học Hán Nơm) của các tác giả thời phong kiến. Đặc biệt,
là biện pháp sử dụng điển tích điển cố để làm cho câu văn, câu thơ trở nên súc tích. Làm
cho người đọc càng đọc càng muốn đi sâu tìm hiểu cho tường căn ngun.
ABSTRACT
Loc Minh dinh thi thao is a collection of 197 poems by Ung Binh Thuc Gia Thi. This is
one of the last Han Chinese collection of poems of Han Chinese- Chinese transcribed
Vietnamese Literature. The volume is valuable in language, art,…in which the exploitation
of ancient and classic references partly helps readers easily approach the poems in Loc
Minh dinh thi thao.
The research and evaluation of the use of ancient references by Ung Binh Thuc Gia
Thi in Loc Minh dinh thi thao helps readers further their understanding of the art in Han
Chinese poetry of the writers in feudalism. In addition, the use of ancient and classic
references makes sentences more concise so that readers can understand the originals
thoroughly.
1. KHÁI NIỆM VỀ ĐIỂN TÍCH


ĐIỂN CỐ (*)
Từ trước đến nay, hầu như chưa có
sự phân biệt điển tích và điển cố mà
thường gộp chung nó trong khái niệm
“典/ điển”. Điển khơng phải là thuộc tính
của ngơn ngữ mà nó là một đặc điểm,
một thủ pháp nghệ thuật trong sử dụng
ngơn ngữ vào mục đích sáng tác, tạo tác
văn bản để chuyển tải một thơng tin, một
thơng điệp nào đó. Trong thơ văn cổ Việt
Nam, cả trong lĩnh vực văn học chữ Hán,
(*)

ThS, Trường Đại học Đà Lạt

văn học chữ Nơm (gọi chung là văn học Hán
Nơm), điển được sử dụng hầu hết trong các
thể loại như thơ, từ khúc, đến phú, biền văn,
tản văn, nó đã góp phần tạo nên những giá trị
biểu cảm hết sức độc đáo.
Việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật
này như sách Thượng Thư, thiên Nghiêu
Điển có nói là “Kê cổ”, tức là kê cứu việc
xưa, mà cụ thể là việc dẫn sự việc của người
xưa để chứng cho ý kiến của mình. Đó là
khởi đầu của việc dùng điển cố vậy (1).
Theo các tài liệu của Trung Quốc như
“Từ Hải”, “Từ Ngun”, “Hán ngữ đại từ
điển” (2)… điển được hiểu là: 1. Cái thường
120



xuyên (thường dã 常 也 / Nhĩ nhã); 2.
Sách vở thời Ngũ đế (Ngũ đế chi thư dã
五 帝 之 書 也 / Thuyết văn); 3. Việc chủ
yếu (chủ kì sự dã 主 其 事 也 / Chu lễ);
4. Cái xuyên suốt (經 也 kinh dã), cái
phép tắc (法 也 pháp dã); 5. chuyện cũ
gọi là điển (故 事 曰 典 cố sự viết điển);
việc chủ yếu gọi là điển (主 其 事 曰 典
chủ kì sự viết điển).
Các từ điển định nghĩa như sau: 1. Là
việc cũ được trình bày ra (謂 典 例 故 實
也 vị điển lệ cố thực dã); việc đã qua gọi
là điển cố (事 過 典 故 sự quá điển cố)
[Từ Nguyên]; 2. Trình bày, nói rõ ra việc
cũ (謂 故 事 也 vị cố sự dã) [Từ Hải]; 3.
Những chuyện xưa thời cổ hay từ cũ có
nguồn gốc xa xưa được dẫn dụng trong
các tác phẩm văn học [Hán ngữ đại từ
điển].
Ở nước ta đã có khá nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm tìm hiểu và định
nghĩa về điển tích, điển cố. Dương Quảng
Hàm, trong “Việt Nam văn học sử yếu”
định nghĩa: “Điển (nghĩa đen là việc cũ)
là một chữ hoặc một câu có ám chỉ đến
một việc cũ, một tích xưa khiến cho người
đọc sách phải nhớ đến việc ấy, sự tích ấy
mới hiểu ý nghĩa và cái lí thú của câu

văn. Dùng điển chữ Nho [chữ Hán] gọi là
“dụng điển” hoặc sử sự (nghĩa đen là
khiến việc), ý nói sai khiến việc đời xưa
cho nó có thể ứng dụng vào bài văn của
mình” (3). Từ điển tiếng Việt định nghĩa:
Điển tích là “câu truyện trong sách đời
trước, được dẫn lại một cách cô đúc
trong tác phẩm”; điển cố là “sự việc hay

câu chữ trong sách đời trước được dẫn trong
thơ văn” (4).
Đặng Đức Siêu cho rằng: “Dùng điển cố
là rút gọn “chuyện cũ người xưa” thành “đôi
ba chữ” để đưa vào thơ văn, bắt những chữ
cũ người xưa ấy phục vụ cho ý đồ sáng tác
của mình” (5). Trần Đình Sử cho rằng:
“Điển cố là sự các sự việc, câu chữ của các
tác phẩm văn học đời trước mà người đọc
cũng biết, được sử dụng lại trong các tác
phẩm mới nhằm tăng cường sức biểu hiện,
mở rộng, đổi mới ý thơ” (6).
Những cách hiểu về điển tích điển cổ
trên đây, về cơ bản là tương đối giống nhau.
Như vậy nói một cách ngắn gọn, theo
Nguyễn Ngọc San thì “điển cố là rút gọn
chuyện cũ người xưa và lời cũ người xưa
thành đôi ba chữ để đưa vào văn thơ, làm
cho câu văn hàm súc, ngắn gọn, lời ít ý
nhiều” (7).
Theo Đinh Gia Khánh, “việc sử dụng

điển cố thường góp phần vào việc nâng cao
khả năng biểu hiện và tính chất hàm súc của
ngôn ngữ và văn chương cũng như của hình
tượng văn học” (8).
Phan Kế Bính trong Việt Hán văn khảo
khi bàn luận về phép làm văn đã viết ý nghĩa
của phép dùng điển: “Dụng điển là tìm
những điển tích cũ, có điều gì việc gì liên
quan đến đầu bài thì dùng mà đặt câu tức là
viện chứng mà tỏ ra sự thật. Và làm văn
chương, tất phải dùng điển tích thì đặt câu
mới gọn gàng tròn trặn mà cai được nhiều
nghĩa”.
Đoàn Ánh Loan trong “Điển cố và nghệ
thuật sử dụng điển cố”, khi bàn về: “Cách
khai thác điển cố trong văn học Việt Nam”
đã dẫn ra 11 cách sử dụng điển cố mà các
nhà văn nhà thơ thường khai thác: 1. Mượn
tên người; 2. Mượn tên đất; 3. Mượn tên
triều đại; 4. Mượn tên cung điện, đền đài; 5.
Mượn tên chức quan; 6. Mượn tên đồ vật; 7.
121


Mượn tên khúc hát; 8. Mượn tên sách; 9.
Mượn tục lệ, thói quen; 10. Mượn thuật
ngữ; 11. Mượn từ ngữ (9).
Tóm lại, về cách dụng điển cần phải
nói thêm rằng không phải cứ khi nào lấy
một nhân vật cốt lõi, một địa danh hay

một chữ, một ý trong chuyện cũ, sách
xưa... như các định nghĩa trên đây đã nêu
thì có thể gọi là điển, mà các chuyện cũ,
người xưa đó phải gắn với một sự kiện,
một tâm trạng, một vấn đề... và ở đó nó
mang một “đời sống” riêng, để diễn đạt
một nội dung riêng mà nhiều người biết
và được dùng nhiều trong thư tịch mới
được xem là một điển. Việc sử dụng điển
cố thường góp phần vào việc nâng cao
khả năng biểu hiện và tính hàm súc của
ngôn ngữ cũng như trong văn học. Bên
cạnh đó, điển cố còn có những giá trị
biểu đạt riêng, giúp cho văn thơ thêm
phần ý nhị, súc tích, chỉ bằng đôi ba chữ
điển cố có thể gợi mở cho người đọc cả
một câu chuyện, một tấm gương, một bài
học, một quan niệm nhân sinh. Mặc dù
vậy, nó cũng có những hạn chế nhất định,
bởi vì sẽ có không ít người không thể biết
được nguồn gốc của điển cũng như ý
nghĩa biểu đạt của nó, khiến cho việc
hiểu nó là tương đối khó khăn.
2. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
2.1. Tác giả
Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877-1961),
là một nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn xứ
“Thần kinh” nửa đầu thế kỉ XX. Ông
được các văn nhân thi sĩ đương thời suy
tôn là chủ súy “Vĩ Hương thi xã” (19331945) và “Hương Bình thi xã”(19541961). Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã để lại

trong kho tàng văn học nước nhà một sự
nghiệp sáng tác lớn. Thơ văn của ông bao
quát nhiều đề tài về thiên nhiên, đất nước,
con người…Trong quá trình giao lưu

giữa hai nền văn hóa Đông – Tây, vốn là một
nhà thơ quý tộc, cháu của Tuy Lý Vương,
nên ông uyên thâm Nho học và thông thạo
Tây học. Mặc dầu vậy, ông vẫn sống một
cuộc đời giản dị, chan hòa với bà con lối
xóm, với những người nghèo. Vì thế, tác
phẩm thơ văn của ông vừa mang đậm tính
chất bác học, ngôn ngữ cao đẹp vừa mang
đậm sắc thái bình dân của văn hóa dân gian.
Nhiều bài thơ, câu ca, điệu hò, hát nói… của
ông đã đi vào lòng xứ Huế một cách nhẹ
nhàng êm ái. Thơ văn của ông viết về quê
hương, về bạn bè, về thiên nhiên cảnh đẹp
của đất nước. Đọc “ Lộc Minh đình thi thảo”
ta sẽ bắt gặp rất nhiều cảnh đẹp về sông núi,
một Ngự Bình thơ mộng, một sông Hương
hiền hòa, hay một cửa biển hùng vĩ, một Hải
Vân sừng sững…Tất cả đã làm rung động
lòng người qua nhiều thế hệ.
2.2. Tác phẩm Lộc Minh đình thi thảo
Tác phẩm được viết trong hai thời kì,
thời niên thiếu, quyển 1, và thời hưu trí,
quyển 2.
Lộc Minh đình thi thảo là một trong
những tập thơ chữ Hán còn lại của tác giả và

đang còn dạng viết tay. Trong tác phẩm này,
tác giả viết nhiều về thiên nhiên, đất nước
tươi đẹp, về tình bằng hữu, về cảnh thanh
nhàn khi tuổi già về hưu. Ông thích đến
viếng cảnh chùa, đến những nơi thanh u
nhàn nhã, ngao du cảnh núi sông. Trong thơ
ông, ta bắt gặp rất nhiều địa danh và di tích
nổi tiếng như: Hải Vân quan, Thuận An,
Đầm Cầu Hai, hay các ngôi chùa như Tra
Am, Ba La Mật, Tây Thiên…
Thơ viết về thiên nhiên trong Lộc Minh
đình thi thảo rất đa dạng. Tác giả miêu tả
cảnh non nước ở động Huyền Không thế tựa
sừng sững dựa mây xanh, hay là một đầm
phá nào đó trong chuyến du lãm của ông.
Những địa danh gắn với thiên nhiên như Hải
Vân quan, Bạch Mã sơn, Ngự Bình, Hương
122


Giang, Hà Trung Hải Nhi, Ô Long, Cồn
Hến, bãi Cua… đã làm cho thơ ông gắn
liền với quê hương đất nước. Đó là một
mối tình keo sơn của bậc khách tao nhã
phong lưu.
Con người trong Lộc Minh đình thi
thảo cũng là một đối tượng hướng đến
của thi nhân. Nói đến con người trong thơ
ông là nói đến mối quan hệ ứng xử với
thi hữu quan chức đương thời. Đó là

những bài thơ đề tặng các quan như Án
sát sứ Hà Thiếu Trai, hay như phụng họa
thơ hai bà lúc ngự triều chúc thọ tức mẹ
và vợ vua Khải Định, ông Nguyễn Hy
làm ở Bộ lại, một Bộ trưởng Kinh tế mà
có tấm lòng phật tử là Nguyễn Khoa
Kỳ…. Nhất là tập thứ nhất khi ông còn
đương chức. Khi về hưu vui với vườn
hoa cây cảnh, với bà con xóm giềng, với
tiếng chuông chùa Ba La Mật ông vẫn
không quên hỏi thăm bạn cũ các nơi.
Tình cảm có lẽ sâu đậm nhất mà ta bắt
gặp trong Lộc Minh đình thi thảo là tình
cảm của những người bạn thân, một nhà
thơ Phan Kính Chỉ, một bác sĩ mà tác giả
gọi thân thiết chú Đốc Hy.
Nhưng không chỉ có tình bạn tâm
giao chốn quan trường mà cả những
người bạn mới, hay cả những cô đào hát,
cả những sư ông như Hòa Thượng Thích
Trí Thủ, tác giả đều có mối giao tình thân
thiết.
3. ĐIỂN CỐ TRONG LỘC MINH ĐÌNH
THI THẢO
Ưng Bình Thúc Giạ thị hoạt động
nghệ thuật và sáng tác thơ văn trong thời
hiện đại, khi mà văn học Việt Nam đã
chuyển từ phạm trù thi pháp trung đại
sang hiện đại, song do chịu ảnh hưởng
sâu sắc của tư tưởng triết học phương

Đông mà chủ yếu là từ Trung Quốc, nên
trong sáng tác của mình, ông đã sử dụng

rất phong phú và đa dạng nhiều điển cố.
Với số lượng 197 bài thơ, trung bình mỗi
bài thơ là một lần tác giả sử dụng một địa
danh, một nhân vật, một câu chuyện, một
triều đại, một thành ngữ… trong lịch sử và
văn học cổ, điều đó cho chúng ta thấy số
lượng điển tích, điển cố mà tác giả sử dụng
là rất phong phú và linh hoạt. Nhờ vậy đã tạo
nên một giá trị nghệ thuật độc đáo làm toát
lên những nội dung trong Lộc Minh đình thi
thảo, đó là: một tấm lòng yêu nước; tình cảm
bạn bè thân thiết; mối giao cảm với thiên
nhiên; tình cảm gia đình đầm ấm; tình yêu
của người thi sĩ với ca nữ điệu hò.
Về tên Lộc Minh, ứng với tác phẩm Lộc
Minh đình thi thảo,nếu theo nguyên chú của
tác giả trong bài Phụng họa Châu Khuê tiên
sinh Tân tị xuân thủ thí bút nguyên vận tác
giả đã viết 苹 園 居 有 鹿 鳴 亭 以 宴 客
(Bình viên cư hữu Lộc Minh đình dĩ án
khách), Vườn nhà Ưng Bình có đình Lộc
Minh dùng để tiếp khách. Hai chữ Lộc Minh
lấy ở trong Kinh Thi, cụ thể là ở phần Tiểu
Nhã có bài Lộc Minh (10). 鹿鳴 (Lộc Minh)
呦呦鹿鳴、食野之苹。
U u lộc minh, thực dã chi bình
我有嘉賓、鼓瑟吹笙。

Ngã hữu gia tân, cổ sắt xuy sanh
吹笙鼓簧、承筐是將。
Xuy sanh cổ hoàng, thừa khuông thị tương
人之好我、示我行周。
Nhân chi háo ngã, thị ngã hành chu…
Dịch nghĩa:
Con hươu kêu hòa dịu, để gọi nhau ăn
cỏ bình ở đồng nội.
Ta có nhiều tân khách tốt, thì đánh đàn
thổi sáo lên.
Thổi sáo thổi kèn lên, hãy bưng cái rổ
đựng hàng lụa để trao tặng tân khách.
123


Những người mến thích ta, hãy chỉ
cho ta nẻo đường để noi theo.
(Bản dịch của Tạ Quang Phát)
3.1. Mượn điển cố Trung Quốc
Trong Lộc Minh đình thi thảo, tác giả
đã sử dụng rất nhiều điển tích điển cố của
Trung Quốc như mượn tên người, mượn
tên địa danh, mượn tên chữ, mượn tên sự
việc… Qua đó, những Vương Duy, Đỗ
Phủ, Tô Đông Pha, Tô Thức, Bá Di Thúc
Tề, Đường Ngu,… đã đi vào trong thơ
ông một cách bình dị.
Những điển tích, điển cố mà tác giả
dùng ở đây gồm nhiều phương diện như
văn học, lịch sử, tôn giáo, y học… đều

được tác giả sử dụng linh hoạt. Qua đó có
thể nhận thấy khả năng dụng điển, dẫn
điển của tác giả và vốn kiến thức tinh
thông của tác giả về văn hóa cổ điển
phương Đông.
3.1.1. Mượn tên người
Trong thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị,
ông đã mượn rất nhiều tên người để xây
dựng những hình tượng mà ông muốn so
sánh và ca ngợi. Thủ pháp nghệ thuật này
rất phong phú trong tác phẩm của nhà
thơ. Có bài thơ ông đã dùng ba, bốn tên
người cùng một lúc để biểu đạt ý tưởng
của mình. Như bài thơ thứ 116 tập 2: “Ký
phóng Y quan Lê Tiên sinh tự Đình
Thám”. Bài thơ không chỉ ca ngợi bác sĩ
Lê Đình Thám người thầy thuốc nổi tiếng
ở Huế nửa đầu thế kỉ XX, mà tác giả còn
nhắc đến vị danh y Biển Thước và danh
hiệu đức Phật Quan Thế Âm. Với tất cả
lòng mến mộ, Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã
so sánh bác sĩ Lê Đình Thám với Biển
Thước là một đại danh y của Trung Quốc
sống vào thời Chiến Quốc được nhân dân
tôn vinh là Thánh y và văn học cổ thường
dẫn đến để nhắc đến người thầy thuốc
kiệt xuất.

Hay ở bài số 91 tập 2: “Quý Dậu cửu
nhật ước Hộ bộ Thượng thư Hữu Nguyên

Hồ Đắc Khải tiên sinh đăng cao thích nhân
phong vũ bất quả”, tác giả đã mượn tên
nhân vật 魏 候 Ngụy hầu, tức Ngụy Văn
hầu, chuyện kể rằng: Ngụy hầu đã cùng với
quan quản lí sơn lâm giao hẹn một ngày nào
đó sẽ cùng đi săn với nhau, không ngờ ngày
đó có yến tiệc, trời lại đột nhiên đổ mưa thế
mà Ngụy Văn hầu vẫn chuẩn bị ra đi, quan tả
hữu can ngăn nói: “Hôm nay có yến tiệc rất
vui, trời lại mưa đại nhân còn đi đâu nữa”,
Ngụy Văn hầu nói: “Ta đã giao hẹn với quan
quản lí sơn lâm, hôm nay đến đó đi săn, tuy
hôm nay ở nhà có yến tiệc đông vui nhưng
không thể vì vậy mà thất tín, tùy tiện không
đi để lỡ hẹn”. Nói xong dắt đoàn tùy tùng đi.
Các nước chư hầu nghe được chuyện này
càng tăng tín nhiệm với Ngụy Văn hầu, nước
Ngụy bắt đầu hưng thịnh từ đây. Mượn điển
này, tác giả đã khẳng định dù khó khăn vất
vả đến đâu vẫn giữ chữ tín, không hề sai hẹn.
Hay như câu三窟何勞狡兔營 (tam quật hà
lao giảo thố doanh – đây là điển trong Chiến
Quốc sách. Phùng Huyên nói với Mạnh
Thường Quân: thỏ khôn phải có ba hang, nay
ngài mới có một chưa thể nằm yên mà không
lo nghĩ gì, tôi xin vì ngài mà đào thêm hai
hang nữa), ở đây tác giả đã khéo nhắc nhở
Hồng Lô bộ lại Nguyễn Hỷ nên khéo léo xử
lí công việc và nên biết lo xa như con thỏ
khôn kia. Lại như mượn điển tích Nguyễn

Tịch không sợ khó khăn mệt nhọc mà quên
chuyện đọc sách, ông không thích bị trói
buộc, thích phóng túng uống rượu, hoặc
đóng cửa viết sách, nhiều tháng không ra
khỏi nhà. Hoặc là lên núi du chơi thú sơn
thủy trọn ngày không về, bất chợt khóc lóc
mà quay về, thích đọc Lão Trang, làm quan
đến chức Hiệu úy bộ binh, người ta thường
gọi là ông Nguyễn Bộ Binh.
124


3.1.2. Mượn tên đất – tên triều đại
Trong Lộc Minh đình thi thảo, không
ít lần tác giả mượn tên đất, tên triều đại
như Đường, Ngu, Xuân Thu, Chiến
Quốc, sông Thương, Xích Bích,…
Trong bài Kính độc đồng tôn tương
tế phổ, phổ trưởng Lạc Viên* tiên sinh
“thận độc ngôn chí” thi họa dĩ đáp (ất
sửu niên ngũ nguyệt), tác giả đã mượn
hai dòng sông Kinh và sông Vị để phân
biệt dòng đục dòng trong như khí tiết của
Bá Di và Thúc Tề. Hay như trong bài
Bính dần niên xuân Đinh tế ngẫu thành,
tác giả đã mượn tên triều đại nhà Đường
Ngu ở Trung Quốc để nói tới ngày tế lễ
của Khổng tử, bên cạnh đó tác giả mượn
địa danh Khuyết Lý, một địa điểm mà
Khổng tử đã từng dạy học ở Sơn Đông.

3.1.3. Mượn địa danh gắn với điển
tích danh nhân
Có nhiều địa danh ở Trung Quốc
cũng gắn liền với nhiều danh nhân nổi
tiếng như Tô Thức đi chơi thuyền đến
bến Xích Bích, để nhắc lại việc tác giả đi
thăm bạn ở bệnh viện Lâm Viên tỉnh
Quảng Trị nơi ông Phan Kính Chỉ làm
việc ở đây. Hay ông nhắc đến Ngũ Hồ
một địa danh nổi tiếng mà Phạm Lãi đã
đến du ngoạn. Hay Lầu Hoàng Hạc, nơi
Thôi Hiệu đã đến và đề bài thơ Hoàng
Hạc lâu vang danh một thời. Trong bài
Ngày 11 tháng 11 mùa đông năm Giáp
Tuất (1934), đáp lại thư mời rượu của
tiên sinh Song Cử, tác giả đã mượn nhân
vật Bàng Sinh: tức Bàng Đức Công,
người Tương Dương, là ẩn sĩ thời Đông
Hán, làm quan thứ sử ở Kinh Châu không
chịu khuất phục đem vợ con lên núi Lộc
Môn hái thuốc không về, qua đó để chỉ
cái cốt cách của người quân tử.
3.1.4. Mượn các thành ngữ, câu
chuyện

Nhiều bài thơ tác giả đã mượn những
câu thành ngữ để dẫn dụng ý nghĩa của bài
thơ, như việc mừng thọ bạn thì ông mượn
thành ngữ hải ốc thiêm trù, hoặc hải hạc
thiêm trù. Chỉ cuộc đời như giấc mộng thì

tác giả dẫn dụng câu chuyện kê vàng hay
hoàng lương, chỉ tình anh em thì tác giả
dùng câu: 風 剪 一 枝 荊 phong tiễn nhất chi
kinh: gió chặt một cành kinh. Xưa anh em
Điền Chân lúc còn ở với nhau thì cây Kinh
trước nhà xanh tốt, lúc chia nhau ra ở riêng
thì cây héo úa, đời sau dùng cây Kinh để chỉ
tình anh em hoà thuận. Thể hiện rõ nhất tình
cảm của tác giả chính là bài Xả đệ Thượng
thư Thúc Thuyên lụy bi. Trong bài Vâng họa
thơ của chú ruột là Quýnh Hiên Hồng Trứ
bước vào tuồi 70 tác giả đã dùng thành ngữ
海 屋 籌 添 hải ốc thiêm trù: “有三 人 相 遇
問 年 其 一 曰: 海 水 變 桑 田, 吾 輒 下 一
籌, 今 滿 十 籌 矣, (按 今 祝 人 壽 考) 曰:
“海 屋 籌 添”.
Có ba người gặp nhau hỏi về tuổi tác,
người thứ nhất nói: Nước biển biến thành
ruộng dâu, ta liền bỏ một cái thẻ bây giờ đã
đầy mười cái rồi nghĩa là tròn 100 tuổi. Ngày
nay dựa vào đó để chúc thọ nên viết là hải ốc
thiêm trù. Cũng trong bài này tác giả mượn
câu 趾 有 麟chỉ hữu lân: lấy ý trong Kinh
Thi bài 麟之趾 Lân chi chỉ: 麟之趾,
振振公子,于嗟麟兮. Lân chi chỉ, Chân chân
công tử, Hu ta lân hề. (Chân của con lân,
Con của Văn Vương nhân hậu, Ôi như con
lân vậy thay. Văn Vương và Hậu Phi lấy đức
hạnh tu thân, mà con cháu tông tộc đều hóa
ra hiền lành. Cho nên nhà thơ mới lấy chân

con lân mà khởi hứng tích trên ứng với con
cháu nhà Nguyễn.
Hay trong bài họa với cụ Huỳnh Thúc
125


Kháng tác giả đã mượn ý trong kinh thi
“Hạc minh ư cữu cao – Hạc kêu ở đầm
sâu, tiếng vọng tới trời cao”, loài hạc là
giống thanh cao, dùng để nói sánh với
hiền nhân quân tử và kẻ sĩ ẩn dật, hạc
cũng là sự tượng trưng cho sự trường thọ
vững bền. Chính vì quan tâm lo lắng
trước cảnh đất nước có nhiều biến động,
nên Ưng Bình đã dùng hình ảnh con hạc
để thể hiện tình cảm của mình với cụ
Huỳnh.
3.2. Mượn điển cố Việt Nam
Ngoài việc tác giả mượn những điển
cố, điển tích của Trung Quốc, trong Lộc
Minh đình thi thảo ta còn thấy xuất hiện
nhiều địa danh, nhiều nhân vật, nhiều di
tích, nhiều thi liệu trong văn học cổ Việt
Nam. Chẳng hạn nhắc đến địa danh: Huế,
Quảng Trị, Hải Vân, Thuận An, Cầu Hai,
Phan Rang, Phan Thiết,… Nhắc đến nhân
vật: Nguyễn Khoa Chiêm, Phan Kính
Chỉ, Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng, …
Nhắc đến di tích: Thiên Mụ, Chùa Tra
Am,… Hay việc ông đã ca ngợi Nguyễn

Khoa Kỳ nguyên Bộ trưởng Bộ Kinh tế,
nhưng lại có tấm lòng yêu đạo Phật, ông
thường hay qua lại chùa An Lạc để cầu
kinh niệm phật. Nên trong bài thơ: 留 題
安 樂 寺 (寺 主 經 濟 部 尚 書 阮 科 淇)
Lưu đề An Lạc tự tự chủ Kinh tế bộ
Thượng thư Nguyễn Khoa Kì, ông đã
viết: 身是冢 臣 心 是佛, 日談經 濟夜 談
經 (Thân là quan lớn tâm là phật, Ngày
bàn kinh tế tối bàn Kinh Phật), ngôi chùa
An Lạc cũng được tác giả nhắc đến 安 樂
寺, 坐 落 近 阮 科 墓 地 之 西 北 向 而
此墓地一大頃屬於安舊社四西
邑, 相 傳 內 贊 侯 阮 科 登 大 人 前 日

蒙 封 之 茅 土 也. 顯 尊 孝 明 皇 帝 辰, 阮
科 登 官 正 營 內 贊, 兼 按 察 使 延 祥 侯,
仍 辰 人 及 後 人 常 稱 呼 為 內 赞 侯, 又
常 歌 颂 功 德 有 句 云: 傷 英 岄 拱 悶 無,
峣 鐘 茄 胡 峣 破 三 江, 又 云: 破 三 江 挦
哰 乑 喼, 鐘 茄 胡 內 贊 禁 嚴.
Chùa An Lạc nằm gần phía tây bắc
hướng nghĩa địa của họ Nguyễn Khoa.
Nghĩa địa này một phần lớn thuộc thôn Tứ
Tây xã An Cựu. Tương truyền đây là phần
đất tấn phong cho quan lớn Nguyễn Khoa
Đăng, thời Hoàng Đế Hiển Tôn Hiếu Minh.
Nguyễn Khoa Đăng làm chức quan Chánh
dinh nội tán kiêm Án sát sứ Diên Tường hầu,
người đương thời và người đời sau thường

xưng hô là Nội tán hầu, lại có câu thơ ca
tụng công đức: “Thương anh em cũng muốn
vô, sợ chuông nhà Hồ sợ phá Tam Giang”,
lại nói rằng: “Phá Tam Giang ngày nay đã
cạn, Chuông nhà Hồ Nội Tán cấm nghiêm”.
Người đọc cũng dễ nhận ra tinh thần nhà
Phật mà tác giả nhắc đến trong các bài thơ.
Gần nhà Ưng Bình có chùa Ba La nên ông
cũng hay qua chùa ngắm cảnh kết giao với
hòa thượng Thích Trí Thủ, đàm đạo về kinh
phật, về lẽ uyên nguyên của Phật pháp. Trong
bài Đầu mùa hạ năm Quí dậu (1933), cùng
Nại Viên Ưng Nghệ, Lan Đình Ưng Bộ, Thúc
Đồng Ưng Loại, Thanh Chi Ưng Thông, theo
quan Án sát Bình Định là Chiêm Thiết, quan
Lệnh doãn Phù Cát là Sái Văn Chánh lên
thăm chùa cổ Linh Phong, có câu石 室 長 留
大 士 名 (thạch thất trường lưu đại sĩ danh Trong động đá đời đời lưu danh Quan Thế
Âm bồ tát), khi Ưng Bình đến chùa Linh
Phong, tác giả đã sử dụng hai từ “đại sĩ” để
nói đến Quan Thế Âm, và ông mong ước đời
này tu được đắc đạo như Phật bà.
126


Còn rất nhiều bài thơ khác mà tác giả
đã sử dụng ý thơ hay một câu chuyện cũ
để nói lên cảm xúc của mình, đó là những
tâm sự đã gửi vào vần thơ ông một cách
dung dị.

4. THAY LỜI KỀT
Việc tìm hiểu điển tích điển cố trong
văn học cổ điển, đặc biệt là những sáng
tác bằng chữ Hán, chữ Nôm sẽ giúp cho
quá trình minh giải văn bản được rõ ý và
nó là chất xúc tác để tăng giá trị nghệ
thuật của tác phẩm. Vì thế, nghiên cứu
điển cố văn học và việc sử dụng điển cố
là một việc làm cần thiết.
Lộc Minh đình thi thảo đã chứa đựng
nhiều kiến thức về văn học, triết học, y
học, phật giáo, mĩ học mà chủ nhân của
nó đã vận dụng linh hoạt từ những điển
tích, điển cố đế bồi đắp nên một tác phẩm
xứng đáng là sáng tác cuối cùng của nền

văn học trung đại. Có thể nói, tác phẩm đã
mang lại nhiều giá trị biểu cảm, trong đó nổi
bật nhất là nghệ thuật sử dụng điển cố.
Ưng Bình có một nền kiến thức sâu rộng
về Hán học, về thơ cổ Trung Quốc, biết tiếp
thu và vận dụng thơ Đường vào trong sáng
tác thơ của mình. Ông đã chịu ảnh hưởng rất
lớn từ thơ Đường, kế thừa thơ Đường, nhưng
lại tạo cho mình những nét riêng, bởi thơ hay
là ở sự thành thực của người cầm bút, lời thơ
không gượng ép, trau chuốt mà giản dị. Từ
ngữ trong thơ cũng không quá phóng
khoáng. Có lẽ vì thế mà tập thơ tuy làm bằng
chữ Hán, theo thể Đường luật, sử dụng nhiều

điển tích, điển cố nhưng do xuất phát từ chân
tình của tác giả nên khi đọc lên chúng ta vẫn
thấy những nét riêng của sông núi miền
Trung nước Việt.

Chú thích:
1.

Nguyễn Huy Khuyến, (2006), Phiên âm dịch nghĩa quyển nhị tác phẩm Lộc Minh
đình thi thảo, (Khóa luận tốt nghiệp đại học), Huế.

2.

Ở trong các tài liệu trích dẫn này, chúng tôi chỉ xin trích dịch và tạm dịch.

3.

Dương Quảng Hàm, (1986), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ giáo dục – Trung tâm
học liệu, tr 183.

4.

Trung tâm từ điển học và NXB Giáo dục, tr 308, Hà Nội 1994.

5.

Cơ sở Ngữ văn Hán Nôm, (1995), NXB Giáo dục.

6.


Những thế giới nghệ thuật thơ, (1995), NXB Giáo dục.

7.

Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, (1993), NXB Giáo dục.

8.

Nguyễn Xuân Tùng, (2005), Những nét đặc sắc của tác phẩm Ưng Bình Thúc Giạ
Thị.

9.

Nguyễn Xuân Tùng, sđd.

10. Đây là bài thơ thuộc về yến ẩm với tân khách. Bởi vì giữa vua và tôi thì lấy nghiêm
làm chủ yếu. Còn nghi lễ ở triều đình thì lấy kính làm chủ yếu. Nhưng nếu nhất
nhất chỉ lấy nghiêm và kính, thì tâm tình hoặc có chỗ không thông cảm nhau mà sẽ
không có lợi ích về việc tấu cáo hết dạ trung thành. Cho nên những bậc vua đời
127


trước nhân những buổi hội họp ăn uống chung với nhau mà chế ra nghi lễ của yến
hội cho tâm tình giữa vua và tôi được thông cảm nhau. Mà phần nhạc ca lấy lại việc
con hươu kêu khởi hứng để nói cái ý của nghi lễ đã nồng hậu như thế, ngõ hầu mọi
người đều mến mà chỉ cho vua nẻo đường to tát. [Khổng Tử, (Tạ Quang Phát dịch),
(1992) Kinh thi, NXB Văn học]. Mượn điển cố này Ưng Bình đã thể hiện nỗi tâm
tư của ông như lời chú thích ở cuối bài thơ Phụng họa Châu Khuê tiên sinh Tân
Tị xuân thủ thí bút nguyên vận. Đình Lộc Minh ở vườn nhà Ưng Bình cũng dùng
để tiếp khách và đãi khách. Còn về cái tên Lộc Minh của tập thơ, theo chúng tôi

nghĩ đây cũng mượn thể hứng để tạo ra niềm hứng khởi trong tập thơ của mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Dương Văn An (2001), Ô châu cận lục, NXB Thuận Hóa - Huế.

2.

Thiều Chửu (2002), Từ điển Hán Việt, NXB Văn hóa Thông tin.

3.

Phạm Văn Hảo (2004), Sổ tay từ ngữ lịch sử quan chế, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.

4.

Bửu Kế (1999), Từ điển Hán Việt từ nguyên, NXB Thuận Hóa - Huế.

5.

Tôn Nữ Hỷ Khương (2002), Hồi ức cha tôi, Ưng Bình Thúc Dạ Thị, NXB Văn
Nghệ TP.HCM.

6.

Hà Xuân Liêm (2005), Khảo luận về Ưng Bình Thúc Dạ Thị, NXB Thuận Hóa
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông tây.


7.

Hà Minh Phương - Trần Kiết Hùng (1996), Đường tống bát đại gia, NXB Đồng
Nai.

8.

Trần Trọng Sâm (2000), Cổ văn trung quốc chọn lọc, NXB Văn hóa Thông tin Hà
Nội.

9.

Hoành Đường Thoái Sĩ – Ngô Văn Phú (2000), Đường thi tam bách thủ, NXB Hội
Nhà Văn.

10. Dương Quảng Hàm, (1986) Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục – Trung tâm
Học liệu.
11. Đặng Đức Siêu, (1995), Cơ sở Ngữ văn Hán Nôm, NXB Giáo dục.
12. Nguyễn Ngọc San, (1993), Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, NXB Giáo dục.

128



×