Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Nguyễn Công Trứ, nhà Nho tài tử – hào kiệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.44 KB, 4 trang )

NGUYỄN CÔNG TRỨ, NHÀ NHO TÀI TỬ – HÀO KIỆT
NGUYỄN VIẾT NGOẠN (*)

TÓM TẮT
Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX, cơ sở kinh tế – xã hội Việt Nam có những
thay đổi, chính vậy mà đã xuất hiện lớp nhà Nho tài tử (trước đây chỉ có nhà Nho hành đạo và
nhà Nho ẩn dật). Trong các nhà Nho tài tử này, Nguyễn Công Trứ nổi bật với tính chất hào kiệt
hào mại. Bài viết nhằm lý giải sơ bộ các tác nhân tạo nên đặc điểm ưu trội nói trên của nhà Nho
tài tử Nguyễn Công Trứ, và cũng như là “góp lời thiên cổ sự” nhân kỷ niệm 151 năm ngày mất
của ông (18/12/1858 – 18/12/2009).
ASBTRACT
From the period of half of the 18th century and half of the 19th century, the socio-economic
system of Vietnam went through some great changes, which resulted in the appearance of the
amateurish Confucian scholar (formerly there were only the secluded Confucian scholar and the
one who took part in social activities). Among these scholars, Nguyen Cong Tru was considered
the best with his heroic quality. This writing aims at presenting some preliminary explanations of
the factors that helped create Nguyen Cong Tru’s outstanding characteristics with his heroic
quality and serves as a small contribution to his 151st death anniversary (18/12/1858 –
18/12/2009).
1. Thời đại mà Nguyễn Công Trứ sống vắt qua hai thế kỉ, khiến ông trở thành chứng nhân của
một giai đoạn lịch sử đặc biệt. Tuổi ấu thơ của ông trôi qua trong lúc tình hình thật rối ren. Chế
độ phong kiến Việt Nam lúc này đã đi vào con đường khủng hoảng bế tắc. Rồi phong trào Tây
Sơn như ánh hào quang loé sáng rất tiếc lại sớm tắt. Sự tồn tại ngắn ngủi của nhà Tây Sơn cũng
là một bi kịch lịch sử, vì việc đập tan một vương triều này để thay thế bằng một vương triều khác
thì vẫn chưa thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của phạm trù phong kiến.
Tiếp theo đó là chiến thắng của Gia Long và nhà Nguyễn ra đời. Dưới triều Nguyễn, Việt Nam
quả là một quốc gia lớn của phương Đông, của khu vực Đông Nam Á. Hẳn không phải vô lý khi
mà các sử gia phương Tây gọi triều Nguyễn là đế quốc An Nam (Empire d’Annam) và các vua
Nguyễn là hoàng đế (Empereur). Nói một cách công bằng, quy mô và tư thế này được giữ cho
đến khi phải đối diện với sự uy hiếp và xâm lược của phương Tây vào giữa thế kỷ. Và cũng chỉ
trước hàng hoá và chiến thuyền của các nước tư bản thì cái xã hội phương Đông chuyên chế, lạc


hậu này mới chịu thất bại và tan rã.
Cần phải khẳng định rằng Nho giáo là hệ tư tưởng thống trị không riêng gì cho triều Nguyễn, mà
cho tất cả mọi triều đại phong kiến Việt Nam, nhất là từ thế kỉ XV. Trải qua một lịch sử phát
triển lâu dài, khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo trở nên hoàn thiện và đã vượt qua giai đoạn
Kinh viện hóa. Tất nhiên, trong các tọa độ lịch sử khác nhau, Nho giáo có những biến động nội
dung, có những đặc trưng riêng cho từng giai đoạn, nên vai trò của nó cũng gia giảm theo. Từ
đó, đối với các lĩnh vực xã hội cũng như đời sống tinh thần của các cá nhân riêng rẽ sẽ có những
kết quả khác nhau. Xét đến cùng, dẫu học thuyết này có chịu những thăng trầm, do biến thiên
lịch sử, thì nó vẫn đóng vai trò trụ cột. Hơn nữa, nhờ việc chuyển hoá các giáo niệm khô cứng

(* )

TS, CVCC, Trường Đại học Sài Gòn


của học thuyết thành lẽ phải thông thường, thành nguyên tắc ứng dụng, xử thế, nên Nho giáo đã
được sự đồng tình, hoặc ít ra là chia sẻ, thông cảm của khá nhiều người do họ chưa có nhận thức
triệt để. Nhờ những tín niệm đã trở nên quen thuộc che đậy nên tính chất phản tiến hoá và hủ bại
của nó khó bị phát hiện. Mặt khác, chính ngay tại nội hàm của Nho giáo, chưa hẳn có sự hoàn
toàn trùng khớp trong việc phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị lẫn lợi ích của cá nhân cầm
quyền. Cũng chính vậy mà Nho giáo không bị sụp đổ như các vương triều mà nó từng gắn bó.
Thành thử, các triều đại phong kiến Việt Nam, nếu muốn việc cai trị của mình được đảm bảo
tính thực thi, đều tự nguyện tìm đến Nho giáo như là tìm một công cụ thống trị tinh thần đắc lực
không thể thiếu. Việc nhà Nguyễn tìm cách phục hồi Nho giáo cũng có thể xem là sự tất yếu, do
họ đã thấy được những điểm khả thủ của hệ tư tưởng này, nhất là tạo ra sự ổn định xã hội trong
giai đoạn đầu. Vì thế, Nho giáo trở thành quốc giáo, chữ Hán trở lại giữ địa vị độc tôn, con
đường tiến thân chỉ là khoa cử nơi cửa Khổng sân Trình. Việc đề cao Nho giáo, theo chúng tôi,
cũng chưa hẳn là hoàn toàn do đầu óc nô dịch của triều Nguyễn. Lịch sử khi đó ở khu vực, trong
đó có Việt Nam, đều chỉ ở trong tình trạng Hán hóa hoặc trở về Đông Nam Á để bị Ấn Độ hóa.
Và trên thực tế, có thể cho phép vứt bỏ ảnh hưởng Hán để quay về ảnh hưởng Đông Nam Á,

nhưng tại sao nhà Nguyễn lại chọn và đề cao Nho giáo? Có lẽ, họ cần có một chính quyền vững
chắc của một đất nước quân chủ nông nghiệp cha truyền con nối, với cương vực rõ ràng , nên
không còn cách lựa chọn nào khác. Vì theo Nho giáo thì có nước là có sử, có phong tục, có chính
quyền bản địa để quản lý đất nước “Như nước Đại Việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến đã
lâu. Núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn
Trãi). Cũng nên đặt mình vào không khí xã hội lịch sử lúc đó. Sau cả một thời gian dài của chiến
tranh giặc giã , người ta luôn khao khát thái bình , thì dù sao đi chăng nữa , nhà Nguyễn được
thành lập cũng đã làm cho bộ mặt xã hội ổn định hơn. Cho dù , ở một số người (trong đó có
Nguyễn Công Trứ) dẫu có ảo tưởng trước tình thế này , thì cũng là điều dễ hiểu. Hào quang của
nhà Nguyễn , mở đầu là ông tổ Nguyễn Hoàng và sau đó là các chúa Nguyễn khác , với các công
lao và dấu tích về khai phá và bành trướng bờ cõi về phương Nam , không ít thì nhiều đã hằn sâu
trong kí ức người dân. Trong dân gian đã có câu ca dao nói lên niềm trông đợi vai trò nhà
Nguyễn :
Lạy trời cho cả gió nồm
Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm mà ra.
Hơn nữa, trước chế độ tư bản, trên thế giới, không có cách đào tạo công chức, quan lại nào sánh
kịp với Nho giáo. Nói như Nguyễn Khắc Viện : “ …không có học thuyết chủ nghĩa nào đặt vấn
đề xử thế rõ ràng và đầy đủ như vậy. Đặc biệt về cách ứng xử của nhà Nho đối với vua chúa”
(Bàn về đạo Nho, 36). Có điều, Nho giáo lúc này, ngay ở Trung Quốc đã phơi bày trần trụi tính
chất chuyên chế, bảo thủ, lỗi thời, thế mà nhà Nguyễn vẫn phục hồi Nho giáo truyền thống đã
đành, lại gần như bê nguyên xi thứ Tống Nho cực đoan, phản động để ứng dụng cho dân tộc
mình. Bộ luật Gia Long (Hoàng triều luật lệ), lẫn lệ Tứ bất của triều Nguyễn là những chứng cứ
khó biện minh. Mở đầu là Gia Long, sau đó nhất là Minh Mạng, càng ngày càng khai thác triệt
để những mặt có lợi từ phía Nho giáo , đặc biệt là Tống Nho, để củng cố và độc tôn cho vương
triều chuyên chế. Xem ra, nhà Nguyễn đã triệt tiêu hoàn toàn các đối thủ chính trị. Các vụ án cha
con Hữu quân Nguyễn Văn Thành, Tả quân Lê Văn Duyệt và ngay cả những lần Nguyễn Công
Trứ vô cớ bị giáng chức, cách chức đều là kết cục của bàn tay sắt đó.
Tuy nhiên, cũng chính do nhà Nguyễn với cách lựa chọn đường lối cơ bản không phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn, nên trí tuệ của dân chúng không được tập hợp, tiềm lực dân tộc không
được bồi dưỡng. Chính sách trọng nông chỉ là hình thức, vì mọi quyền lợi chỉ nhằm tập trung

nhiều hơn cho giai cấp địa chủ. Công nghiệp thủ công bị đình đốn, nền kinh tế hàng hóa manh
nha từ sớm với sự ra đời của các chợ – đô thị kiểu phương Đông, nhưng do nhà Nguyễn bế môn
tỏa cảng, khiến nó tuy có phát triển nhưng với tốc độ hết sức chậm chạp. Một người Mỹ là John


White đến nước ta vào thời đó đã viết trong cuốn A voyage to Cochinchina (Một chuyến hành
trình đến xứ Cochinchina): “Tính cách tham tàn, thất tín, chuyên chế và ức hiếp buôn bán của
nhà cầm quyền đã biến xứ Cochinchina thành một nơi không được người ta ưa thích nữa…
Những ai vị tha, và cả thế giới văn minh nói chung, chỉ có thể nhận thấy ở đất nước có thiên
nhiên tươi đẹp này không khác gì hơn là một nỗi ân hận và thương hại sâu sắc”[1].
2. Trên một cơ sở kinh tế như thế, các nhà Nho, phần lớn là những người qua học hành, thi cử
hoặc làm quan, đã phân hóa thành phần một cách tương đối. Đã có nhà Nho hành đạo, nhà Nho
ẩn dật, thì bây giờ có thêm nhà Nho tài tử. Mỗi một loại nhà nho như thế hình như đều có điều
kiện sống riêng. Nếu nhà nho ẩn dật vốn sống theo phương thức kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp,
nhà nho hành đạo, phần lớn là đội ngũ quan lại đang hành chức, sống bằng dạng lương bổng và
lộc (từ việc chia sẻ, chiếm dụng phần tô thuế thu được qua phân phối của triều đình), thì đặc biệt
nhà nho tài tử đã có thể được hỗ trợ một phần từ nền sản xuất hàng hóa nhỏ, tuy còn manh mún
và cá thể , nhưng cũng không còn là thuần túy nông nghiệp cổ truyền nữa. Tất nhiên, trong một
xã hội trì trệ, kém phân hóa như thế, không thể đòi hỏi một sự độc lập thuần túy. Hình như giữa
họ thường có sự “chu chuyển” và đổi chỗ. Cũng không nên tìm kiếm sự đối lập giữa nhà nho tài
tử với hai loại nhà nho hành đạo và ẩn dật. Đành rằng, sự xuất hiện của nhà nho tài tử như là đi
ngược lại tiêu chí giá trị đã được xác định ở nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật, vì người tài tử
coi tài và tình, chứ không phải là đạo đức mới thực sự làm nên giá trị của con người. Tuy nhiên,
trên thực tế, chất tài tử có thể có ở cả người hành đạo lẫn ẩn dật. Như vậy, nhà Nho tài tử chỉ đối
lập với nhà Nho chính thống (nhà Nho quân tử – cai trị) mà thôi. Có điều, các nhà nho tài tử vẫn
khác với nhà nho hành đạo và ẩn dật ở chỗ họ đã phá vỡ quan niệm sống, quan niệm hành xử
vốn quá rành mạch và phân cực lâu nay, bằng cách trộn lẫn chúng lại. Không nhất thiết là phải
làm quan hay ẩn dật, nhưng để đáp ứng những nhu cầu của mình, nhà Nho tài tử không thể
không tạo ra những ứng xử phi truyền thống, và tất nhiên sẽ trở nên khá kỳ dị với các bậc chân
Nho. Họ đã như giải quyết được cái mâu thuẫn, cái thao thức Nho gia vốn tồn tại dai dẳng ở các

thế hệ trước đó (nhập thế mà vẫn xấu hổ vì tham luyến công danh, xuất thế mà vẫn băn khoăn vì
không làm tròn trách nhiệm). Cũng có thể xem đây là sự dị biệt độc đáo của nhà nho tài tử . Họ
tìm thấy ở Lão – Trang những sự tương đồng về phương diện triết lý nhân sinh. Khi mà đô thị
thương mại và tư tưởng thị dân tác động, nhà Nho tài tử đồng loạt xuất hiện như là một tầng lớp,
thì các yếu tố Lão – Trang phù hợp lại được tiếp thu có vẻ ồ ạt hơn. Nhưng, nói như Trần Đình
Hượu, vẫn là cách tiếp thu biến tướng theo kiểu Trang Tử đa dục : “Họ không phải Nho thuần
túy, mà cũng không phải Trang thuần túy. Thường thường, họ là loại văn nhân gần với Đường
Tống bát đại gia hơn là một nhà Nho tư tưởng, một học giả kiểu Đổng Trọng Thư, Chu Hy hay
Trang Chu”[2]. Quả là, trong nhiều trường hợp, họ là tráng sĩ, là sứ giả, là thiên sứ, là các đấng
“trích tiên”, đại diện cho ý thức cá nhân và tư tưởng thị dân – động lực to lớn của sự phát triển
văn học. Chính vậy mà khi xét trên phương diện loại hình học tác giả văn học, do có ranh giới
khá rõ rệt, nên sẽ rất dễ khu biệt ba mẫu hình nhà nho. Nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật như
là cặp bài trùng, thay thế nhau xuất hiện trong những tình thế khác nhau của xã hội quân chủ cố
hữu. Trong khi đó, gắn với sự phát triển eo hẹp của đô thị thì người tài tử lại ra đời chậm hơn.
Cái mà nhà nho tài tử luôn tìm cách đối lập lại là giữa Tài với Đức, Tình với Tính. Họ như đã
ngầm tuyên bố về giá trị con người (sở thích cá nhân, tự do phóng khoáng và thụ hưởng lạc thú).
Từ đó, họ sẽ là chủ nhân (chủ soái) của nền văn học chứa đựng mầm mống chống Nho giáo,
hướng về nhân đạo chủ nghĩa. Có lẽ, đây là mảng văn học chịu sự tác động của văn hóa đô thị và
ý thức thị dân, là lần đầu tiên của sự thức tỉnh ý thức cá nhân nhằm thoát ra khỏi ràng buộc cộng
đồng. Tư tưởng thị dân xuất hiện và trở thành xu thế chính nhằm đòi hỏi hưởng lạc, hạnh phúc,
chống lại thói an bần lạc đạo. Các tài tử ra đời để thay thế cho các quân tử độc chiếm văn đàn
trước đây. Tuy vẫn học đạo thánh hiền, nhưng các tài tử lại tư duy theo lối thị dân. Họ đã tạo ra
được sự đột biến của thời kì văn học này, bằng cách làm ra đời các thể loại mới: ngâm khúc,
truyện Nôm và Hát nói,v.v. Dù muốn, dù không, nhu cầu tự sự, nội cảm hóa và bộc lộ cá tính của
tư tưởng thị dân, của nền văn hóa đô thị (dẫu là đô thị phương Đông đi chăng nữa), phải đợi đến


các thể loại văn học phù hợp này mới chuyển tải được. Các tài tử đều có một ý thức văn nghệ
mới, tức là đã đề cao tính hiện thực, đề cao con người cá nhân và cá tính trong sáng tác của
mình. Họ còn đề cao nghệ thuật tài tử, tách văn nghệ ra khỏi học thuật và rất có ý thức phát triển

thứ văn học quốc âm (chữ Nôm). Những cố gắng của họ, quả như N.I.Niculin từng nhận xét
“mang tinh thần phục hưng và khai sáng”. Tuy nhiên, đó vẫn chưa thể là định hướng phủ định
mang tính cách mạng đối với cơ chế xã hội truyền thống. Bản thân cuộc đời lẫn tác phẩm của các
nhà nho tài tử mới chỉ là sự thể hiện giới hạn cuối cùng sự phát triển xã hội, đời sống tinh thần
lẫn ý thức cá nhân thời phong kiến, cho dù họ đã cố gắng làm tất cả những điều gì có thể làm,
cũng như thử nghiệm ngay tại hành trạng bản thân.
3. Trong thế hệ các nhà nho tài tử, Nguyễn Công Trứ, trên tư cách của một ý thức cá nhân, mang
dấu ấn khá đậm nét và đặc biệt. Đó là tính chất hào kiệt, nói đúng hơn là tài tử – hào kiệt (chữ
dùng của Đoàn Lê Giang). Ông kiên cường trong cái thản nhiên, sốt ruột trong cái bình tĩnh. Ông
biết làm chủ trong mọi tình thế, tức là con người “hào mại” (chữ dùng của Tản Đà, hiểu theo
nghĩa tài giỏi và luôn luôn cố gắng). Thành thử, việc thể hiện cá tính qua sáng tác , Nguyễn
Công Trứ có phần dữ dội , bạo gan hơn.
Đặc điểm hào kiệt, hào mại ở Nguyễn Công Trứ do nhiều nguyên nhân tạo ra. Trước hết, ông
trưởng thành, đi thi, làm quan, hoạt động… hoàn toàn vào thời kỳ tân triều nhà Nguyễn. Ông hầu
như không có mối liên hệ nào với triều đại Lê trước đó, nên không có mặc cảm như những ai lỡ
mang tiếng phải phò “nhị quân”, của cái tâm sự hàng thần nhớ chúa cũ. Ngay đến việc thân phụ
ông chống Tây Sơn để phù Lê thất bại, khi đó Nguyễn Công Trứ mới mười tuổi. Cùng lắm, ông
chỉ chịu cảnh nghèo khổ, loạn lạc. Và khi ông lớn lên thì cục diện chính trị trong nước đã dần
dần ngã ngũ. Tuổi thanh niên của ông cùng lúc nhà Nguyễn đang tích cực củng cố địa vị thống
trị. Bộ mặt xã hội dang có vẻ ổn định, thịnh trị. Như vậy, bối cảnh thực tế cho mọi hoạt động của
Nguyễn Công Trứ là lúc này đất nước đã được hòa bình, giang sơn thu về một mối, một cơ hội
đóng góp được sống lại. Xét về mặt sử dụng nhân lực cũng như xây dựng quan chế, Gia Long và
Minh Mạng rất chú ý phương châm “chiêu hiền đãi sĩ” nên lập Quốc tử giám (1803), mở ra các
khoa thi để kén chọn nhân tài, đào tạo quan lại, bổ dụng bộ máy quản lí… Nguyễn Công Trứ
hoàn toàn là một trí thức thành danh vào thời nhà Nguyễn, nên tân triều là thời vận thi thố tài
năng của ông.
Mặt khác, về cá tính (khí chất), Nguyễn Công Trứ là một con người cường kiện, đầy tinh thần
kiêu dũng, vốn ôm ấp những hoài bão lớn, thích vẫy vùng, thích hành động, sẵn sàng đảm đương
những trách nhiệm khó khăn, để làm những việc phi thường “đâu đấy tỏ”. Ông là con người của
chữ Chí, kể cả những khi “vỡ mộng và thất vọng” trước thực tế cay đắng trớ trêu. Ở Nguyễn

Công Trứ, chí khí đóng vai trò giúp ông giữ thế quân bình. Ông vừa là văn nhân vừa là tráng sĩ,
tay bút nghiên, tay cung kiếm. Người anh hùng thư kiếm này đã phản ánh một cách đặc trưng về
chính trị, kinh tế , về sự phát triển lịch sử tư tưởng và sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần nói
chung của xã hội Việt Nam thời kỳ đó. Là sản phẩm của thời kì Nho giáo đang được phục hồi
chứ không hẳn là kiểu con người cá nhân đô thị thuần tuý , nên ý thức cá nhân của Nguyễn Công
Trứ, một trang tài tử hào kiệt có cốt cách trượng phu, mới chỉ dừng lại ở chỗ biến đổi khá nhiều
những quan niệm của Nho gia về con người mà thôi.
CHÚ THÍCH
[1]. Nhiều tác giả (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Nxb Giáo dục, Hà
nội, Tr.11.
[2]. Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Hà Nội, tr. 30.



×