NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Vai trò của Kiểm toán nhà nước đối với
công tác giám sát của Quốc hội
TS. Bùi Đặng Dũng*
C
ơng cuộc đổi mới và tiến trình dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội ở nước ta trong thời
gian qua đã đem lại những thành tựu rất đáng khích lệ. Hoạt động giám sát của các cơ quan
dân cử trước hết là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội ngày càng được triển khai mạnh
mẽ nhằm đảm bảo mọi hoạt động của Nhà nước và cơng dân theo Hiến pháp và pháp luật,
trong đó chú trọng tính cơng khai minh bạch của nền tài chính cơng và tài sản cơng. Một trong những yếu
tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội thời gian qua chính là Kiểm tốn nhà
nước (KTNN) - cơng cụ kiểm tra tài chính nhà nước hữu hiệu phục vụ Quốc hội giám sát hoạt động kinh
tế, tài chính quốc gia.
Từ khóa: Kiểm tốn nhà nước, giám sát Quốc hội.
The role of the State Audit for the supervision of the National Assembly
The renovation and democratic process of socio-political life in our country in recent years have brought
about encouraging achievements. Supervision activities of elected bodies are primarily the supreme
supervision of the National Assembly which is increasingly deployed strongly to ensure all activities of the
state and citizens to comply with the Constitution and laws, in which focus on public transparency of public
finance and public assets. One of the important factors contributing to improving the supervisory efficiency
of the National Assembly is the State Audit of Vietnam (SAV) - an effective state financial inspection tool for
the National Assembly to monitor economic activity, national finance.
Keywords: State Audit, National Assembly’s supervision.
1. Thẩm qùn giám sát của Quốc hội
1.1. Nội dung, cơ sở pháp lý
Theo Hiến pháp 2013, giám sát là một trong
ba chức năng quan trọng, cơ bản của Quốc hội “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước” (Điều 69 Hiến pháp năm
2013). Đồng thời, Quốc hội “thực hiện quyền giám
sát tối cao việc tn theo Hiến pháp, Luật và Nghị
quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ
tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm tốn
nhà nước...” (Khoản 2, Điều 70 Hiến pháp 2013).
*Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội
6
Số 142 - tháng 8/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
Trong lĩnh vực kinh tế - tài chính, thẩm quyền
ngân sách là thẩm quyền đặc trưng và quan trọng
nhất của Quốc hội, với tư cách là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất. Thơng qua nghị quyết về
ngân sách thể hiện các ưu tiên của Quốc hội cho
các chương trình phát triển, các chính sách xã hội
hoặc các mục tiêu cụ thể từng năm. Nghị quyết về
ngân sách có thể coi là thơng điệp hành động của
Quốc hội mà qua đó các cơ quan của Chính phủ
có trách nhiệm triển khai thực hiện và các cơ quan
của Quốc hội căn cứ để tiến hành giám sát.
Theo Khoản 4, Điều 70 của Hiến pháp 2013 thì
Q́c hợi có nhiệm vụ và qùn hạn qút định
chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ q́c gia; quy
định, sửa đởi hoặc bãi bỏ các thứ th́; quyết định
phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân
sách trung ương (NSTƯ) và ngân sách địa phương
(NSĐP); quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc
gia, nợ công, nợ Chính phủ; quyết định dự toán
NSNN và phân bổ NSTƯ, phê chuẩn quyết toán
NSNN.
1.2. Chủ thể thực hiện giám sát
Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân năm 2015, có thể thấy rằng,
trong lĩnh vực kinh tế - tài chính, chủ thể thực hiện
giám sát tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc
hội về các nhiệm vụ kinh tế, tài chính là Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và
các Ủy ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
2. Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong hoạt
động giám sát của Quốc hội
2.1. Vai trò, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước
trong hoạt động giám sát của Quốc hội
Có thể thấy rằng, vai trò quan trọng của KTNN
đối với công tác giám sát của Quốc hội; đặc biệt đối
với hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và
tài sản nhà nước thể hiện ở một số giác độ sau đây:
- Để Quốc hội quyết định dự toán NSNN, quyết
định dự án, công trình quan trọng quốc gia, KTNN
thực hiện kiểm toán dự toán NSNN và dự án, công
trình quan trọng quốc gia để đưa ra ý kiến giúp
Quốc hội quyết định phù hợp với tình hình thực
tế của đất nước, bảo đảm tính kinh tế, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước. Kiểm toán dự toán, dự án
chính là hình thức kiểm toán trước (tiền kiểm) của
KTNN, bảo đảm các nguồn lực được động viên và
phân bổ vào những mục tiêu mà quốc gia theo đuổi
cũng như tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của các
khoản chi NSNN; tránh được những sai sót và gian
lận ngay từ khi lập và phân bổ dự toán, dự án.
- Để giúp Quốc hội phê chuẩn báo cáo quyết
toán NSNN hàng năm, KTNN có nhiệm vụ kiểm
toán báo cáo quyết toán NSNN để đưa ra ý kiến
đánh giá, xác nhận về tính đúng đắn, trung thực
của tổng số thu, chi NSNN; đồng thời, KTNN đưa
ra ý kiến đánh giá, xác nhận việc tuân thủ pháp luật
và tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý,
điều hành và sử dụng ngân sách của Chính phủ,
các bộ, ngành, các tổ chức kinh tế của Nhà nước và
chính quyền địa phương... phục vụ cho hoạt động
giám sát về tài chính ngân sách của Quốc hội.
- Với việc công khai kết quả kiểm toán, KTNN
cung cấp cho công chúng những thông tin quan
trọng, giúp cho Quốc hội và cử tri cả nước biết rõ
tình hình thu chi, quản lý, sử dụng NSNN, tài sản
và công quỹ quốc gia.
- KTNN là công cụ quan trọng để giúp Quốc hội
giám sát, phát hiện những hiện tượng, những dấu
hiệu tham ô, lãng phí, không tuân thủ pháp luật
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
Số 142 - tháng 8/2019
7
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
trong quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng kém hiệu
quả các nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản cơng.
Quốc hội theo quy định của pháp luật” (Khoản 4,
Điều 19, Luật KTNN).
- Trên cơ sở tính độc lập trong hoạt động kiểm
tốn, KTNN có thể chủ động xây dựng kế hoạch
kiểm tốn hướng vào những lĩnh vực có khả năng
phát sinh tham nhũng lớn, những vấn đề bức xúc
được Quốc hội và cử tri quan tâm nhằm giúp ngăn
chặn hành vi tham nhũng. Mặt khác, từ tổng kết
thực tiễn hoạt động kiểm tốn, đặc biệt là lĩnh vực
tài chính nhà nước, KTNN có thể đề xuất với Quốc
hội sửa đổi, ban hành chính sách, pháp luật phù
hợp để góp phần phòng ngừa và ngăn chặn lãng
phí, tham nhũng.
Hai là, hình thức cung cấp thơng tin: Hình thức
cung cấp thơng tin kiểm tốn của KTNN cho Quốc
hội chủ yếu thể hiện dưới hình thức văn bản thơng
qua việc gửi báo cáo kiểm tốn. Ngồi ra, các cơ
quan của Quốc hội, các đại biểu dân cử cũng có
thể tiếp cận thơng tin kiểm tốn thơng qua các
ấn phẩm của KTNN, các cuộc họp báo, các thơng
tin kiểm tốn được đăng tải trên các phương tiện
thơng tin truyền thơng. Thơng tin kiểm tốn cũng
được cung cấp thơng qua các ý kiến phát biểu của
các vị đại biểu đại diện chính thức của KTNN tại
các diễn đàn, cuộc họp với các cơ quan của Quốc
hội, Chính phủ...
- Thơng qua kết quả kiểm tốn, KTNN kiến
nghị với Quốc hội, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền sửa đổi, bổ sung hồn thiện các luật và cơ
chế, chính sách về quản lý kinh tế, tài chính cho
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của đất
nước trong từng thời kỳ.
2.2. Cơ chế cung cấp thơng tin kiểm tốn của
KTNN cho Quốc hội để phục vụ cơng tác quản lý
NSNN
Thơng tin kiểm tốn được hiểu là sự phản ánh
sự vật, sự việc, hiện tượng liên quan đến chủ thể,
khách thể, đối tượng kiểm tốn. Thơng tin kiểm
tốn được cung cấp thường được thể hiện dưới
hình thức báo cáo kiểm tốn. Đây là hình thức có
tính chính thống, đảm bảo giá trị pháp lý của thơng
tin kiểm tốn.
Việc KTNN cung cấp thơng tin kiểm tốn cho
Quốc hội cần qn triệt một số ngun tắc cơ bản
là: chính xác, trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp
thời và dễ tiếp cận.
Một là, quy định pháp lý cho việc cung cấp thơng
tin: Cung cấp thơng tin kiểm tốn cho Quốc hội là
trách nhiệm của KTNN, điều này được quy định
tại Luật KTNN. Theo đó, KTNN “Trình ý kiến của
Kiểm tốn nhà nước để Quốc hội xem xét, quyết
định dự tốn NSNN, quyết định phân bổ ngân sách
trung ương, quyết định chủ trương đầu tư chương
trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc
gia, phê chuẩn quyết tốn NSNN” (Khoản 4, Điều
10, Luật KTNN). Ngồi ra, KTNN “Giải trình về
kết quả kiểm tốn với Quốc hội và các cơ quan của
8
Số 142 - tháng 8/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
Ba là, thời gian cung cấp: Thơng tin kiểm tốn
được cung cấp cho các cơ quan chức năng sử dụng
trong q trình thực thi nhiệm vụ của mình. Do
đó, thời điểm cung cấp thơng tin phải được thực
hiện trước khi cơ quan chức năng đưa ra quyết
định về một vấn đề cụ thể.
Bốn là, nội dung thơng tin: Nội dung thơng tin
cung cấp phụ thuộc vào nội dung kiểm tốn. Đến
lượt nội dung kiểm tốn lại phụ thuộc chủ yếu vào
nguồn lực hiện thời của cơ quan KTNN. Tuy vậy,
cũng rất cần có sự phản hồi của các cơ quan chức
năng trong việc xác định nội dung, chủ đề kiểm
tốn để thơng tin kiểm tốn ngày càng phù hợp với
nhu cầu của các đối tượng sử dụng thơng tin.
2.3. Phương thức sử dụng kết quả kiểm tốn
của KTNN trong hoạt động giám sát của Quốc hội
Việc KTNN cung cấp thơng tin cho Quốc hội
cũng như các chủ thể khác được quy định cụ thể
tại Luật KTNN, Luật NSNN và các văn bản pháp
luật khác có liên quan. Thơng tin kiểm tốn của
KTNN có vai trò quan trọng đối với Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, là yếu tố khơng thể thiếu
trong bối cảnh nền kinh tế như hiện nay nhằm hỗ
trợ cho hoạt động giám sát ngân sách. Bên cạnh
đó, thơng tin kiểm tốn của KTNN cũng là căn cứ
quan trọng để Quốc hội thảo luận, phê chuẩn quyết
tốn NSNN. Về cơ bản Quốc hội sử dụng thơng tin
kiểm tốn thơng qua các nguồn sau:
- Thông tin kiểm toán từ các báo cáo kiểm toán
của từng cuộc kiểm toán.
Kết thúc mỗi cuộc kiểm toán, KTNN lập một
văn bản để đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến
nghị về những nội dung đã kiểm toán. Văn bản này
(báo cáo kiểm toán) được gửi đến cho đơn vị được
kiểm toán và cơ quan có liên quan theo quy định
của pháp luật. Thông tin từ các cuộc kiểm toán cụ
thể giúp các chủ thể sử dụng thông tin kiểm toán
(trong đó có Quốc hội) nắm bắt tình hình thực
tế hoạt động thu, chi của đơn vị quản lý, sử dụng
nguồn lực công.
- Thông tin qua báo cáo tổng hợp kết quả kiểm
toán năm và báo cáo kiểm toán quyết toán NSNN.
Hàng năm, KTNN thực hiện kiểm toán báo cáo
quyết toán NSNN. Kết thúc cuộc kiểm toán này,
KTNN lập báo cáo kiểm toán quyết toán NSNN
tương tự như đối với các cuộc kiểm toán thông
thường. Thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán
NSNN là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đối với
KTNN. Báo cáo quyết toán NSNN và báo cáo tổng
hợp kết quả kiểm toán năm là cơ sở quan trọng để
Quốc hội xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN.
Theo quy định của Luật KTNN, KTNN có trách
nhiệm gửi báo cáo kiểm toán quyết toán NSNN,
báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm đến Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân
tộc và các Ủy ban của Quốc hội chậm nhất là 16
tháng sau khi năm ngân sách kết thúc, đồng thời
gửi Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ. Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm sau
khi trình Quốc hội được KTNN công bố công khai
theo quy định của pháp luật.
- Các thông tin kiểm toán khác.
Ngoài việc cung cấp thông tin bằng cách gửi
báo cáo kiểm toán, KTNN còn báo cáo, giải trình,
cung cấp tài liệu, nghiên cứu và trả lời các kiến nghị
theo yêu cầu của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội; trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội
trước Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội
về NSNN và quyết toán NSNN. Những thông tin
này hỗ trợ đắc lực cho các cơ quan của Quốc hội
giám sát, thẩm tra quyết toán NSNN.
3. Giải pháp cụ thể về nâng cao vai trò của
KTNN trong hoạt động giám sát của Quốc hội
3.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý
Hoàn thiện hành lang pháp lý để thực hiện
nhiệm vụ của KTNN trong lập và quyết toán NSNN
theo Nghị quyết số 343/2017/NQ-UBTVQH14
ngày 19/01/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định lập, thẩm tra, quyết định kế hoạch
tài chính 05 năm quốc gia, kế hoạch đầu tư công
trung hạn 05 năm quốc gia, kế hoạch tài chính
- ngân sách nhà nước 03 năm quốc gia, dự toán
NSNN, phương án phân bổ NSTW và phê chuẩn
quyết toán NSNN hàng năm; sớm nghiên cứu, bổ
sung sửa đổi một số điều của Luật Kiểm toán nhà
nước 2015 trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp
thứ 7 (tháng 5/2019) và thông qua vào Kỳ họp thứ
8. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi quy trình
kiểm toán quyết toán NSNN cho phù hợp với quy
định của Luật Kiểm toán nhà nước và Luật Ngân
sách nhà nước.
3.2. Nâng cao chất lượng kết quả kiểm toán
NSNN của KTNN
Thứ nhất, thay đổi cách thức tiếp cận kiểm toán
NSNN theo hướng đạt được mục tiêu kiểm toán xác
nhận báo cáo quyết toán
Kinh nghiệm của thế giới cho thấy mục tiêu
kiểm toán NSNN phải được xác định toàn diện,
phù hợp với chức năng của KTNN, gồm mục tiêu
kiểm toán tuân thủ, kiểm toán tài chính và kiểm
toán hoạt động. Các mục tiêu này về cơ bản có vai
trò như nhau. Tuy nhiên, tùy từng điều kiện hoàn
cảnh cụ thể mà cơ quan kiểm toán tối cao các nước
xác định mục tiêu ưu tiên của mình trên cơ sở từng
đối tượng kiểm toán. Hiện nay, cả 3 mục tiêu trên
đều được thể hiện trong kiểm toán NSNN, nhưng
kết quả thực tế cho thấy các cuộc kiểm toán NSNN
được KTNN thực hiện cơ bản mới đạt được mục
tiêu kiểm toán tuân thủ. Việc đạt được mục tiêu
kiểm toán tuân thủ và kéo dài trong nhiều năm
khiến nhiều KTVNN lầm tưởng đây là mục tiêu
chính của kiểm toán NSNN, từ đó sao nhãng,
không coi trọng các mục tiêu khác. Trong kế hoạch
trung hạn, KTNN cần quyết tâm đạt mục tiêu kiểm
toán tài chính (xác nhận báo cáo quyết toán ngân
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
Số 142 - tháng 8/2019
9
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
sách), trên cơ sở hồn thành mục tiêu kiểm tốn
tn thủ và quan tâm đến kiểm tốn hoạt động.
Thứ ba, tăng cường năng lực phân tích NSNN
của đội ngũ KTVNN
Thứ hai, tiếp tục mở rộng quy mơ kiểm tốn
NSNN để thực hiện kiểm tốn được nhiều hơn
nguồn tài chính cơng, tài sản cơng
Kiến thức chun mơn, kỹ năng làm việc và đạo
đức nghề nghiệp của các KTVNN là nhân tố quyết
định giá trị của KTNN và nâng cao chất lượng
kiểm tốn. Với xu hướng tăng cường kiểm tốn
hoạt động trong lĩnh vực NSNN, nhiệm vụ của
KTVNN khơng dừng lại ở việc xác nhận tính đúng
đắn, chính xác của số liệu, mà còn cần đánh giá
tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực của việc sử dụng
nguồn lực tài chính, tài sản cơng để từ đó chỉ ra
các lý do dẫn đến tình trạng của đơn vị được kiểm
tốn và đưa ra các khuyến nghị nâng cao hiệu quả
hoạt động. u cầu đó đặt ra cho KTVNN ngồi có
kiến thức về kế tốn, kiểm tốn, cần nắm vững kiến
thức kinh tế - tài chính tổng hợp, vĩ mơ, và có khả
năng phân tích, tổng hợp, đánh giá và dự báo.
Ngồi các đơn vị tham mưu, sự nghiệp, KTNN
hiện có 8 KTNN chun ngành và 13 KTNN khu
vực. Nếu so với các bộ, ngành hay cơ quan trung
ương khác, quy mơ bộ máy như vậy là khá khiêm
tốn, nhưng lại rất đáng kể khi so với bản thân
KTNN, bởi trong những năm đầu mới thành lập
bộ máy tổ chức của KTNN chỉ có 05 đơn vị là Văn
phòng KTNN và 04 KTNN chun ngành. Cùng
với sự hồn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức, đội ngũ
KTV cũng có sự gia tăng nhanh chóng. Hiện cơ
quan KTNN đã có hơn 1.700 Kiểm tốn viên nhà
nước (KTVNN). Tần suất kiểm tốn đơn vị sử
dụng ngân sách nhờ đó được tăng lên. Đến nay,
hầu hết các bộ, Cơ quan Trung ương, địa phương,
các tổ chức kinh tế lớn có vốn của Nhà nước được
kiểm tốn ít nhất 2 năm một lần (riêng Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh được kiểm tốn hằng
năm). Tuy có sự phát triển như vậy, nhưng quy mơ
kiểm tốn vẫn còn nhỏ so với nhu cầu cơng việc.
Hiện cả nước có khoảng 300.000 đơn vị sử dụng
NSNN, gần 11.200 xã, 710 huyện và 63 tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, đây là đối tượng của
kiểm tốn NSNN. Hằng năm, KTNN chưa thực
hiện kiểm tốn ngân sách được tồn bộ các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, và tại mỗi địa
phương chỉ kiểm tốn được một phần nhỏ ngân
sách cấp huyện; tỷ lệ số xã được kiểm tốn còn ít
hơn. Quy mơ kiểm tốn như vậy ảnh hưởng đến
chất lượng thơng tin kiểm tốn NSNN cung cấp
cho Quốc hội do chưa phản ánh được tồn bộ tình
hình quản lý, sử dụng NSNN. Chính vì vậy, cùng
với nỗ lực đạt mục tiêu xác nhận báo cáo quyết
tốn NSNN của các đơn vị được kiểm tốn thì
KTNN cần xây dựng chiến lược và thực thi các giải
pháp tích cực phát triển đội ngũ KTVNN đủ về số
lượng và cao về trình độ chun mơn để mở rộng
quy mơ kiểm tốn NSNN hàng năm. Từ đó, nâng
cao chất lượng thơng tin kiểm tốn NSNN do phản
ánh được đầy đủ và chính xác hơn tình hình quản
lý, sử dụng NSNN.
10
Số 142 - tháng 8/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
Bên cạnh đó, KTNN cũng nên quy hoạch (về
chun mơn) xây dựng đội ngũ chun gia về lĩnh
vực NSNN. Các chun gia là mũi nhọn giao lưu,
trao đổi chun mơn với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc
hội, các cơ quan Tài chính, Thuế, Kho bạc, Hải
quan... Qua đó, vừa khẳng định tầm cao chun
mơn của KTNN, vừa cung cấp thêm thơng tin cho
các cơ quan chức năng trong việc giám sát, thẩm
định quyết tốn NSNN của đội ngũ KTVNN. Cùng
với đó, cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế về
kiểm tốn NSNN, tăng cường giao lưu KTV, chia sẻ
kinh nghiệm và phương pháp kiểm tốn NSNN tiên
tiến, hiệu quả của thế giới.
Thứ tư, tăng cường ứng dụng cơng nghệ thơng tin
vào hoạt động kiểm tốn NSNN
Bên cạnh áp dụng các phương pháp kiểm
tốn mới, tiên tiến của thế giới, KTNN cần tăng
cường ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong kiểm
tốn lĩnh vực NSNN để phù hợp với sự thay đổi
của mơi trường cơng việc tại các đơn vị được kiểm
tốn. Nên sớm hồn thiện hệ thống thơng tin điện
tử lưu trữ các thơng tin cơ bản về đơn vị sử dụng
NSNN, tình hình thực hiện kiểm tốn các năm
trước, các vướng mắc, kiến nghị, đề xuất và kết quả
thực hiện kiến nghị đề xuất của KTNN. Việc thiết
kế mẫu biểu kiểm tốn trực tuyến và phần mềm
thực hành cài đặt trực tiếp trên máy tính làm việc
của KTVNN cũng nên được tính đến và thí điểm
áp dụng nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp cho
đội ngũ KTVNN và tăng cường khả năng kiểm tra,
giám sát của các đơn vị chức năng.
3.3. KTNN tiếp tục đa dạng hóa phương thức
và hình thức cung cấp thông tin kiểm toán cho
Quốc hội
Ngoài đáp ứng yêu cầu chính xác, trung thực,
khách quan, thông tin kiểm toán cần được cung
cấp một cách kịp thời, đầy đủ và có tính hệ thống
cho Quốc hội. Tính dễ tiếp cận để khai thác, sử
dụng cũng phải được đề cao. Bên cạnh báo cáo
kiểm toán toàn văn, KTNN nên có báo cáo kiểm
toán tóm tắt và bản trình bày về những điểm quan
trọng mà KTNN phát hiện trong quá trình kiểm
toán cùng với các kết luận, kiến nghị kiểm toán.
Hình thức cung cấp thông tin kiểm toán cũng
cần được đa dạng và phù hợp với điều kiện thực
tiễn. Trong bối cảnh hiện nay nên tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin để truyền tải các kết quả
kiểm toán. Cùng với các hình thức cung cấp thông
tin kiểm toán đang áp dụng, KTNN có thể nghiên
cứu để vận dụng hình thức gửi thông tin kiểm toán
cho các đại biểu Quốc hội qua hòm thư điện tử để
các cơ quan giúp việc cho Quốc hội, các đại biểu
Quốc hội thuận tiện trong việc khai thác, sử dụng.
Hình thức gửi thông tin kiểm toán thông qua hòm
thư điện tử cũng đã được áp dụng tại khá nhiều
nước (ví dụ Kiểm toán nhà nước Hoa Kỳ - GAO)
và thực tiễn cho thấy đã phát huy hiệu quả tích cực.
Tuy vậy, khi vận dụng hình thức này cần có các
biện pháp kỹ thuật để đảm bảo tính bảo mật của
thông tin kiểm toán.
3.4. Tăng cường hoạt động cung cấp thông tin
của KTNN cho Quốc hội
Thứ nhất, đẩy mạnh hoạt động cung cấp thông
tin của KTNN cho Quốc hội
Để việc cung cấp thông tin của KTNN cho Quốc
hội sát thực hơn với tình hình hoạt động của NSNN,
KTNN cần phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Tài chính,
Ngân sách và các Ủy ban khác của Quốc hội trong
hoạt động thẩm tra, giám sát NSNN và các vấn đề
có liên quan đến tài chính - ngân sách. Ngoài việc
gửi báo cáo kiểm toán ngân sách các địa phương,
các bộ, Cơ quan Trung ương cho Ủy ban Tài chính,
Ngân sách khi phát hành; gửi cho Hội đồng Dân tộc
và các Uỷ ban của Quốc hội theo yêu cầu; hay với
các cuộc kiểm toán theo yêu cầu, ngoài việc gửi báo
cáo cho cơ quan yêu cầu có thể gửi báo cáo cho Ủy
ban Tài chính, Ngân sách để Ủy ban có thể hiểu rõ
hơn tình hình hoạt động của KTNN, thì KTNN cần
được mời tham gia các phiên họp toàn thể của Ủy
ban Tài chính, Ngân sách, tham gia các phiên họp
toàn thể của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban khác
đối với các vấn đề có liên quan đến tài chính - ngân
sách. KTNN sẽ có ý kiến về mặt chuyên môn với tư
cách là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất về
các vấn đề được thảo luận trước Ủy ban.
Với các cuộc giám sát của Ủy ban Tài chính,
Ngân sách, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban khác
của Quốc hội, KTNN có thể cử cán bộ, KTV tham
gia các đoàn giám sát theo yêu cầu của Quốc hội;
thực hiện cơ chế thảo luận về kết quả kiểm toán đối
với các bộ, ngành, địa phương trong Hội đồng Dân
tộc, Ủy ban Tài chính, Ngân sách và các Ủy ban
khác của Quốc hội với sự tham gia của đại diện Bộ
Tài chính, KTNN và lãnh đạo đơn vị được kiểm
toán trước khi thẩm tra quyết toán NSNN.
KTNN và Ủy ban Tài chính, Ngân sách tiếp tục
nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung quy chế phối hợp
giữa hai cơ quan phù hợp với Luật KTNN và các văn
bản pháp luật có liên quan. Một số nội dung bổ sung
hoàn thiện như:
- Bổ sung phạm vi phối hợp phù hợp quy định
tại Khoản 9, Điều 10, Luật KTNN “Giải trình về
kết quả kiểm toán với Quốc hội và các cơ quan của
Quốc hội theo quy định của pháp luật”.
- Thúc đẩy sớm thời gian Ủy ban Tài chính,
Ngân sách cung cấp cho KTNN dự kiến chương
trình, kế hoạch giám sát của Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Tài chính, Ngân sách
về lĩnh vực tài chính - ngân sách có liên quan đến
lập kế hoạch kiểm toán năm, những vấn đề cần chú
trọng trong Kế hoạch kiểm toán năm.
- Chuẩn hóa các nội dung phối hợp phù hợp với
nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN theo quy định của
Luật KTNN.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
Số 142 - tháng 8/2019
11
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Thứ hai, tiếp tục đổi mới nội dung thơng tin kiểm
tốn cung cấp cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội
cũng cần cung cấp thơng tin để giúp KTNN xây
dựng kế hoạch kiểm tốn và bố trí nguồn lực thực
hiện kiểm tốn, cụ thể:
Cơ chế cung cấp thơng tin của KTNN cho Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có những điểm,
những nội dung và u cầu khác với cơ chế thơng
tin của KTNN cho Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban
của Quốc hội. Trong các phiên họp tồn thể của
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chương
trình nghị sự thường kín lịch với một khối lượng
cơng việc lớn nên các thơng tin KTNN cung cấp
nhằm phục vụ cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thường phải chọn lọc với những thơng
tin thật cần thiết, liên quan đến những vấn đề lớn
về kinh tế, tài chính của Quốc gia, chẳng hạn như
thơng tin liên quan đến kinh tế vĩ mơ, chính sách
tài khố, chính sách tiền tệ... Ngồi báo cáo tóm
tắt kết quả kiểm tốn năm, báo cáo kết quả kiểm
tốn năm, báo cáo kết quả kiểm tốn quyết tốn
NSNN, KTNN còn cần cung cấp các thơng tin về
kết quả kiểm tốn chun đề cho Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, thậm chí có những báo cáo
giải trình cụ thể về một vấn đề, lĩnh vực cụ thể để
Quốc hội có góc nhìn đa dạng, nhiều chiều trước
khi đưa ra quyết định.
- Các thơng tin về kết quả giám sát hoạt động
kinh tế, tài chính của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, của các cơ quan của Quốc hội.
3.5. Quốc hội tăng cường cung cấp thơng tin cho
KTNN để xây dựng kế hoạch kiểm tốn năm phù
hợp với mục tiêu giám sát NSNN của từng thời kỳ
Theo quy định của Luật KTNN, Tổng KTNN
quyết định kế hoạch kiểm tốn hằng năm của
KTNN và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện.
Trong q trình triển khai kế hoạch kiểm tốn,
KTNN tiếp tục thực hiện nhiệm vụ kiểm tốn theo
u cầu của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
KTNN cũng “Xem xét, quyết định việc kiểm tốn
khi có đề nghị của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội, Đồn đại biểu Quốc hội, Thường
trực HĐND, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và cơ quan, tổ chức khơng có
trong kế hoạch kiểm tốn năm của KTNN”.
Để nâng cao tính hữu ích của thơng tin kiểm
tốn phục vụ cho hoạt động giám sát của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội
12
Số 142 - tháng 8/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
- Các u cầu, định hướng giám sát hay các
định hướng phát triển kinh tế - xã hội, các thơng
tin về quản lý tài chính - ngân sách mà Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội có được trong hoạt động
của mình.
- Các vấn đề quan trọng, nổi cộm về NSNN mà
Quốc hội, cơng chúng đang quan tâm.
Các thơng tin trên cần được cung cấp cho
KTNN để KTNN đề ra định hướng, mục tiêu, nội
dung kiểm tốn nhằm đáp ứng tốt nhất các u cầu
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Đảm bảo
việc kiểm tốn đi vào trọng tâm, trọng điểm, cung
cấp thơng tin một cách thiết thực hiệu quả, tránh
việc nguồn thơng tin cung cấp cho Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội rất nhiều nhưng sử dụng khơng
được bao nhiêu bởi khơng tập trung vào những
vấn đề Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cần.
Tóm lại, qua 25 năm hoạt động của mình, KTNN
đã góp phần quan trọng giúp cho các cơ quan nhà
nước trong việc quyết định, kiểm tra, giám sát quản
lý, sử dụng ngân sách và tài sản cơng, góp phần thực
hành tiết kiệm chống lãng phí, chống tham nhũng,
ngày càng có vai trò to lớn trong hoạt động giám sát
tối cao của Quốc hội, đáp ứng u cầu nguyện vọng
của cử tri cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013;
2. Luật Ngân sách nhà nước 2015;
3. Luật Kiểm tốn nhà nước 2015;
4. Luật Tổ chức Quốc hội 2014;
5. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và
Hội đồng Nhân dân năm 2015.
Ngày nhận bài: 15/07/2019
Ngày duyệt đăng: 30/07/2019