Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kế toán đầu tư chứng khoán kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.75 KB, 6 trang )

tháng 9/2019

chứng khoán nợ và chứng khoán vốn
Đề nghị các ngân hàng thương mại nhất quán
ghi nhận lãi phát sinh từ chứng khoán nợ khi thu
được tiền (nguyên tắc thực thu) và ghi nhận cổ tức
từ chứng khoán vốn khi thu tiền hoặc khi quyền
pháp lý đối với cổ tức được xác nhận (nguyên tắc
cơ sở dồn tích) theo đúng quy định hiện hành của
cả Việt Nam và quốc tế. Lý do của việc ghi nhận
trên là vì đối với chứng khoán nợ, ghi nhận thu
nhập bằng cách dự thu đối với lãi phát sinh mà
chưa thu được là không cần thiết vì đây là chứng
khoán kinh doanh, mua vào với mục đích bán ra
trong ngắn hạn nên rất có thể chứng khoán sẽ được
bán trước khi đến kỳ thu lãi, do vậy có thể không
thu được lãi đã dự thu. Còn đối với chứng khoán
vốn, khi quyền pháp lý về nhận cổ tức đã được xác
lập thì dù chủ sở hữu có bán cổ phiếu đi thì vẫn
có quyền nhận cổ tức. Do vậy, ghi nhận khoản thu
nhập tương ứng với phải thu khi quyền nhận cổ tức
được xác lập là hoàn toàn hợp lý.
Tuy nhiên, nếu chỉ ghi nhận lãi của chứng
khoán nợ theo thực thu mà vẫn giữ nguyên các quy
định khác như ghi nhận các khoản chứng khoán
kinh doanh theo giá gốc kèm theo trích lập dự
phòng khi giá thị trường thấp hơn giá trị ghi sổ
thì việc ghi nhận thu nhập lãi phát sinh từ chứng
khoán nợ thuộc nhóm chứng khoán kinh doanh
theo thực thu như hiện nay lại trở nên không hợp
lý. Bởi thoạt nhìn thì việc ghi nhận này khá tương


đồng với IFRS vì IFRS cũng áp dụng nguyên tắc
thực thu để ghi nhận thu nhập lãi từ chứng khoán
nợ thuộc nhóm chứng khoán kinh doanh. Tuy
nhiên, nếu phân tích kỹ hơn sẽ nhận thấy sự khác
biệt giữa Việt Nam và IFRS dù cùng áp dụng thực
thu. IFRS chỉ ghi nhận thu nhập lãi khi đã thu được
bằng tiền chứ không ghi nhận thu nhập lãi dự thu
khi đến kỳ là bởi: Chứng khoán kinh doanh là loại
nắm giữ để bán trong ngắn hạn nên có thể chứng
khoán này sẽ được bán trước khi kỳ thu lãi, vậy

Từ các tồn tại như trên, tác giả xin đưa ra một

68

Đối với việc ghi nhận lãi và cổ tức phát sinh từ

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN

nên việc ghi nhận một khoản dự thu là không cần
thiết. Và việc không ghi nhận lãi dự thu như vậy sẽ


không làm phản ánh thiếu một khoản thu nhập từ

thiếu đi một định nghĩa thế nào là suy giảm giá trị.

chứng khoán kinh doanh vì đến cuối kỳ khi lập báo

Các văn bản pháp quy về trích lập dự phòng hiện


cáo tài chính, chứng khoán kinh doanh được đánh

tại là thông tư 228 và 89 hầu như chỉ đề cập đến

giá theo giá trị hợp lý, số lãi phát sinh nhưng chưa

căn cứ để trích lập dự phòng theo giá thị trường.

thu được sẽ tác động tới giá trị hợp lý của chứng

Như vậy, đây thực chất là dự phòng giảm giá chứ

khoán và được ghi nhận vào thu nhập khi đánh giá

chưa đúng nghĩa là giảm giá trị. Bởi giá thị trường,

chứng khoán theo giá trị hợp lý. Việt Nam không

theo quy định của thông tư 228, được xác định chủ

dự thu trong khi không điều chỉnh theo giá trị hợp

yếu thông qua giá niêm yết trên thị trường chứng

lý trong trường hợp chứng khoán tăng giá thì tại

khoán hay sàn UpCom hoặc được cung cấp bởi 3

thời điểm lập báo cáo tài chính không phản ánh hết


công ty chứng khoán và trong nhiều trường hợp

lợi ích (thu nhập) của người nắm giữ chứng khoán

giá này không phản ánh một cách đầy đủ và hợp lý

cũng như giá trị của chứng khoán.

giá trị của chứng khoán. Điều này một phần cũng

Vì thế, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước
nên tiến tới áp dụng nguyên tắc hạch toán theo giá
trị hợp lý thay vì giá gốc đối với chứng khoán kinh
doanh, đặc biệt là đối với các chứng khoán đã niêm
yết. Lý do là vì việc chỉ thực hiện ghi nhận khi giảm
giá trị đối với chứng khoán kinh doanh mà không
điều chỉnh khi chứng khoán tăng giá là quá thận
trọng, chưa phản ánh đúng giá trị thực của công
cụ này. Nhất là trong lộ trình bắt buộc các ngân
hàng thương mại áp dụng Chuẩn mực quốc tế để
lập và trình bày báo cáo tài chính trong 5-7 năm tới
đây thì việc áp dụng sớm quy định điều chỉnh các
chứng khoán nắm giữ để bán theo giá trị hợp lý là
việc nên làm. Khi đó, những thay đổi về giá trị hợp
lý được ghi nhận là lãi hay lỗ trên báo cáo kết quả
kinh doanh:
Nợ/Có: Tài khoản Chứng khoán kinh doanh

bởi Việt Nam chưa ban hành chuẩn mực kế toán về

giá trị hợp lý. Chính những bất cập và thiếu đồng
bộ trong quy định hiện hành đã dẫn tới việc mỗi
ngân hàng lại có một cách làm khác nhau theo cách
hiểu của riêng mình. Vì vậy, Việt Nam cần sớm bán
hành các chuẩn mực về suy giảm giá trị hay tổn
thất tài sản, chuẩn mực giá trị hợp lý và các chuẩn
mực về công cụ tài chính. Từ đó, việc hạch toán
các chứng khoán nắm giữ để bán hay chứng khoán
kinh doanh sẽ được thực hiện theo xu thế chung
của quốc tế là theo giá trị hợp lý. IFRS không đưa ra
khái niệm giảm giá trị riêng cho chứng khoán kinh
doanh. Bất kỳ sự suy giảm giá trị nào đều được thể
hiện vào giá trị hợp lý của chứng khoán, và do đó
đã được phản ánh vào các báo cáo tài chính thông
qua việc phản ánh các chứng khoán theo giá trị
hợp lý.

Nợ/Có: Tài khoản Thu/Chi về kinh doanh
chứng khoán
Đối với việc giảm giá trị và lập dự phòng chứng
khoán kinh doanh
Việc áp dụng một cách thiếu nhất quán các quy
định về xác định giảm giá trị và lập dự phòng đối với
chứng khoán kinh doanh tại các ngân hàng thương
mại Việt Nam hiện nay như đã chỉ ra ở phần 2 một
phần xuất phát từ việc thiếu các hướng dẫn đồng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thông tư 200/2014/TT-BTC về chế độ kế
toán doanh nghiệp;

2. Thông tư 228/2009/TT-BTC và Thông tư
89/2013/TT-BTC về trích lập dự phòng;
3. Công văn 7459/NHNN-KTTC về hướng
dẫn hạch toán nghiệp vụ kinh doanh, đầu
tư chứng khoán;

Một trong số đó là Việt Nam hiện tại vẫn chưa ban

4. IAS 39: Công cụ tài chính - Ghi nhận và Đo
lường;

hành chuẩn mực kế toán về suy giảm giá trị dẫn tới

5. IFRS9: Công cụ tài chính.

bộ và logic của các quy định pháp lý hiện hành.

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN

Số 143 - tháng 9/2019

69



×