VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RÁC THẢI
VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
T
PGS,TS. Nguyễn Đình Hòa*
rong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang đối mặt với nhiều
thách thức như: Ơ nhiễm mơi trường, suy giảm đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu, trong
đó nổi lên vấn đề chất thải. Cùng với sự gia tăng dân số và sự phát triển của các ngành nghề
sản xuất, một mặt thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, mặt khác đã làm gia tăng nhu cầu tiêu
dùng hàng hóa, ngun vật liệu, năng lượng và lẽ dĩ nhiên cùng với hệ lụy tất yếu của nó là đã và đang
làm gia tăng nhanh chóng lượng chất thải phát sinh. Chất thải tăng nhanh về số lượng, với thành phần
ngày càng phức tạp khơng những chỉ gây khó khăn cho cơng tác quản lý, xử lý gây ơ nhiễm mơi trường, mất
mỹ quan, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến mơi trường
và chất lượng sống của người dân. Trước thực trạng này, Kiểm tốn nhà nước đã và đang chủ động triển
khai nhiều giải pháp để tăng cường kiểm tốn mơi trường nhằm đáp ứng u cầu thực tiễn, phù hợp với xu
hướng và thơng lệ quốc tế góp phần cùng với Chính phủ và các tổ chức liên quan quản lý tốt mơi trường vì
sự phát triển bền vững của đất nước. Chất thải có nội hàm rất rộng do đó trong phạm vi một bài báo, bài
viết chỉ đề cập đến thực trạng quản lý và kiểm tốn chất thải rắn từ đó đề nghị các giải pháp nâng cao vai
trò của Kiểm tốn nhà nước trong quản lý chất thải vì sự phát triển bền vững của đất nước.
Từ khóa: Kiểm tốn nhà nước, quản lý rác thải, phát triển bền vững.
The role of state audit office of Vietnam for waste management activities for sustainable development
In the context of globalization and international economic integration, Vietnam is facing many challenges
such as: Environmental pollution, biodiversity decline and climate change, in which waste issues are arising.
Along with the increase in population and the development of manufacturing industries, on one hand, it
promotes socio-economic development. On the other hand, the demand for goods, raw materials, energy
has increased resultedinevitable consequences, it is the rapid increase in the amount of waste generated.
Waste has increased rapidly in quantity, with increasingly complex components, which not only made it
difficult for the management and waste treatment, urban ladscape maintainance, and threaten the country’s
sustainable development. It also seriously affects the environment and the quality of life of the people. In
this situation, the State Audit Office of Vietnam has been proactively implementing many solutions to
enhance the environmental audit to meet practical requirements, in line with international trends and
practices, contributing to good managementof the environment for the country’s sustainable development
by the Government and related organizations. Waste has a very wide content, therefore, within the scope
of an article, the author only mentions the status of solid waste management and audit, thereby proposing
solutions to enhance the role of the State Audit Office of Vietnam in waste management for the sustainable
development of the country.
Key words: State Audit Office of Vietnam, waste management, sustainable development.
1. Rác thải và phân loại rác thải
chất này tồn tại trong mơi trường dưới những
Rác thải, còn gọi là chất thải, theo cách hiểu
trạng thái nhất định và có thể gây ra rất nhiều tác
thơng thường là những chất mà con người bỏ đi,
động bất lợi cho mơi trường cũng như sức khỏe
khơng tiếp tục sử dụng nữa. Khi bị thải bỏ, những
con người.
*Q. Giám đốc, Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tốn, Kiểm tốn nhà nước
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN Số 143 - tháng 9/2019
31
QUẢN LÝ RÁC THẢI, NƯỚC THẢI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Dưới góc độ ngữ nghĩa, chất thải được hiểu là
những “chất” khơng còn sử dụng được nữa bị con
người “thải” ra trong các hoạt động khác nhau.
Chất thải được sản sinh trong các hoạt động khác
nhau của con người và được gọi với những thuật
ngữ khác nhau như: Chất thải rắn phát sinh trong
sinh hoạt thì gọi là rác thải; chất thải phát sinh sau
khi sử dụng ngun liệu trong q trình sản xuất
thì gọi là phế liệu; chất thải phát sinh sau q trình
sử dụng nước thì gọi là nước thải. Rác liên quan
trực tiếp tới sự phát triển của con người cả về cơng
nghệ và xã hội do đó cần phải được quản lý một
cách khoa học và chặt chẽ.
Quản lý rác thải là hành động thu gom, phân
loại và xử lý các loại rác thải của con người. Hoạt
động này nhằm làm giảm các ảnh hưởng xấu của
rác vào mơi trường và xã hội.
Có nhiều cách phân loại rác thải:
a) Theo nguồn gốc phát sinh, chất thải thường
được phân loại thành
- Chất thải từ các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đó
là các chất thải được thải ra từ các cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ... Chúng gồm đủ loại. Trong
đó phổ biến là:
32
Số 143 - tháng 9/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
+ Chất thải khí: Hơi nước, khói, bụi...
+ Chất thải rắn: Phế liệu (tro, xỉ...), vỏ bao bì,
sản phẩm hỏng...
+ Chất thải lỏng: Chủ yếu là nước thải...
- Chất thải từ hộ gia đình. Đây là các chất thải
phát sinh gắn với đời sống sinh hoạt gia đình.
Chúng phổ biến có:
+ Chất thải là lương thực, thực phẩm. Chúng
chủ yếu là các chất thải rắn, chứa các chất hữu cơ
dễ phân hủy hoặc phân hủy nhanh, đặc biệt khi
thời tiết nóng ẩm, được thải bỏ từ các q trình chế
biến, tiêu dùng lương thực, thực phẩm.
+ Chất thải khác. Là các chất thải gắn với sinh
hoạt của các gia đình. Như khói bụi, tro, xỉ... thải
ra từ việc đun nấu; các đồ gia dụng đã qua sử dụng
bị bỏ đi (chai, lọ, xong, nồi...); nước thải và các chất
thải khác.
- Chất thải từ các cơ sở cơng cộng, dịch vụ. Ở
đây chủ yếu là các chất thải rắn, như giấy và các sản
phẩm giấy đã qua sử dụng, đồ nhựa, chai lọ thủy
tinh, kim loại, gốm sứ, đất cát, sỏi, bụi đất… sinh
ra từ các cơ sở hoạt động của khu vực cơng cộng
(như bãi tắm, cơng viên, sân chơi, đường phố...),
các điểm dịch vụ, cơng sở, trường học, bệnh viện...
b) Theo các hoạt động làm phát sinh, chất thải
thường được phân thành
- Chất thải sinh hoạt: Là các loại rác thải gắn với
sinh hoạt của con người. Bao gồm sinh hoạt tại các
gia đình, cơ quan, công sở, nơi công cộng...
- Chất thải xây dựng: Là các loại phế liệu được
thải ra do phá dỡ, cải tạo các hạng mục/công trình
xây dựng cũ, hoặc từ quá trình xây dựng các hạng
mục/công trình mới (nhà, cầu cống, đường giao
thông...), như vôi vữa, gạch ngói vỡ, bê tông, ống
dẫn nước bằng sành sứ, tấm lợp, thạch cao... và các
vật liệu khác.
- Chất thải công nghiệp: Là các chất thải phát
sinh từ các hoạt động sản xuất các nhà máy, xí
nghiệp công nghiệp. Chúng thường có:
+ Chất thải nguy hại: Bao gồm khí thải độc hại,
hóa chất ở dạng lỏng... Chúng dễ gây ra cháy nổ,
ngộ độc, tác động không tốt đến sức khỏe của con
người và dễ ăn mòn nhiều vật chất khác.
+ Chất thải có thể tái chế: Như các loại mạt sắt,
thép, phôi kim loại, sản phẩm hỏng... Chúng có thể
được tái chế lại.
- Chất thải y tế: Là các chất thải có thể ở thể rắn,
lỏng và khí được thải ra từ hoạt động của các cơ sở
y tế. Chúng thường bao gồm:
+ Chất thải y tế nguy hại: Là chất thải y tế
chứa yếu tố nguy hại cho sức khỏe con người và
môi trường. Như dễ lây nhiễm bệnh, gây ngộ độc,
phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc
tính nguy hại khác nếu những chất thải này không
được tiêu hủy an toàn.
+ Chất thải y tế thông thường.
Trong các loại chất thải nói trên, có thể nói,
chất thải sinh hoạt là một trong những loại rác thải
chiếm tỉ trọng cao nhất. Cho nên, việc phân loại rác
thải sinh hoạt tại nguồn là vấn đề cần thiết và thiết
thực nhất để góp phần bảo vệ môi trường.
2. Thực trạng quản lý rác thải hiện nay
Tại Việt Nam, mỗi năm tổng lượng chất thải
rắn sinh hoạt là 15,6 triệu tấn (2015). Trong đó,
28,9% được xử lý đốt hoặc sản xuất phân hữu cơ,
71,1% chôn lấp trực tiếp, còn 6% chôn sau khi đốt
(Báo cáo của Bộ Xây dựng & JICA). Trong tổng số
660 bãi chôn lấp có quy mô >1 ha mới có 120 bãi
chôn lấp hợp vệ sinh (Cục Hạ tầng Bộ Xây dựng
- 2017). Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, chỉ tính riêng 2 thành phố lớn là Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh, thải ra môi trường
khoảng 80 tấn nhựa và túi nilon/ngày. Đáng chú
ý, lượng chất thải nhựa và túi nilon cả nước chiếm
khoảng 8-12% trong chất thải rắn sinh hoạt. Nếu
trung bình khoảng 10% lượng chất thải nhựa và túi
nilon không được tái sử dụng mà thải bỏ hoàn toàn
thì lượng chất thải nhựa và túi nilon thải bỏ xấp xỉ
khoảng 2,5 triệu tấn/năm, đây là gánh nặng cho môi
trường, thậm chí dẫn tới thảm họa “ô nhiễm trắng”.
Những bãi chôn rác tại các thành phố thường trực
nguy cơ gây ô nhiễm nước và không khí. Các cơ sở
đốt rác phần lớn quy mô nhỏ và chưa có báo cáo
thu gom xử lý khí thải độc hại phát thải trong quá
trình đốt trong đó có khí cực độc dioxin và furan là
những chất tồn tại vĩnh viễn, không phân hủy khi
ở thể khí, nếu xâm nhập cơ thể qua đường hô hấp,
chúng sẽ gây ra ung thư và biến đổi gen, đặc biệt,
trong số đó chỉ có khoảng 10% được tái chế, còn
lại hầu hết xử lý bằng phương pháp chôn lấp... đã
không chỉ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
mà còn làm lãng phí nguồn tài nguyên để tái chế
tuần hoàn.
Quản lý chất thải rắn là vấn đề then chốt của
việc đảm bảo môi trường sống của con người mà
các đô thị phải có kế hoạch tổng thể quản lý chất
thải rắn thích hợp mới có thể xử lý kịp thời, triệt để
và có hiệu quả.
Đáng chú ý, trong các nguồn phát sinh chất thải
rắn, thì lượng chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị
tiếp tục tăng trung bình từ 10 đến 16% mỗi năm.
Lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị tăng mạnh ở
các đô thị lớn như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng, Hải Phòng... nơi có tốc độ đô thị hóa, công
nghiệp hóa nhanh, chiếm tới 45,24% tổng lượng
chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ tất cả các đô
thị trên cả nước. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt chiếm
khoảng từ 60 đến 70% tổng lượng chất thải rắn đô
thị (tỷ lệ này tại một số đô thị lên đến 90%). Tại
khu vực nông thôn, lượng chất thải rắn sinh hoạt
phát sinh trung bình khoảng 0,33 kg/người/ngày
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019
33
QUẢN LÝ RÁC THẢI, NƯỚC THẢI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
con số này dự báo vào năm 2025 là khoảng 1,6kg.
Tuy nhiên, hiện số lượng chất thải rắn sinh hoạt
nơng thơn vẫn chưa được thống kê đầy đủ, do cơng
tác quản lý còn nhiều hạn chế. Ngồi ra, lượng chất
thải rắn thơng thường phát sinh từ các hoạt động
sản xuất cơng nghiệp ước tính khoảng 25 triệu tấn/
năm; riêng từ các khu cơng nghiệp khoảng 8,1 triệu
tấn/năm. Đáng chú ý, chất thải rắn cơng nghiệp từ
các khu cơng nghiệp, khu chế xuất, các cơ sở sản
xuất cơng nghiệp nằm ngồi khu cơng nghiệp, cụm
cơng nghiệp được thu gom và tái sử dụng với tỷ lệ
khá cao, nhưng phần lớn chất thải rắn chưa được
phân loại tại nguồn, mà được thu gom lẫn lộn vận
chuyển ra bãi chơn lấp... Trong những năm qua,
cơng tác quản lý và kiểm sốt chất thải rắn ln
là nội dung trọng tâm được triển khai ở các cấp,
các ngành, địa phương nhằm giảm đến mức thấp
nhất và ngăn chặn tình trạng ơ nhiễm mơi trường
do chất thải rắn gây ra. Tuy nhiên hiện nay, tổng
khối lượng chất thải rắn sinh hoạt đơ thị được thu
gom, xử lý đạt khoảng hơn 85%. Tại khu vực nơng
thơn, tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt mới đạt
khoảng từ 40 đến 55%. Trong khi đó, phần lớn các
cụm cơng nghiệp vẫn chưa hồn thiện các cơng
trình thu gom, xử lý chất thải tập trung. Ngồi ra,
các cơ sở sản xuất nằm ngồi khu cơng nghiệp,
cụm cơng nghiệp việc quản lý, kiểm sốt ơ nhiễm
còn gặp rất nhiều khó khăn.
Đến tháng 6 năm 2015, trên tồn quốc có 83
doanh nghiệp với 56 đại lý có địa bàn hoạt động
từ hai tỉnh trở lên đã được Bộ Tài ngun và Mơi
trường cấp phép và khoảng 130 đơn vị (chủ yếu là
đơn vị vận chuyển chất thải nguy hại) do các địa
phương cấp phép đang hoạt động. Riêng cơng suất
xử lý chất thải nguy hại của các cơ sở được Bộ Tài
ngun và Mơi trường cấp phép là khoảng 1.300
nghìn tấn/năm. Với số lượng và cơng suất xử lý
như vậy, các cơ sở này trong thời gian qua đã đóng
vai trò chính trong việc thu gom, vận chuyển và
xử lý chất thải nguy hại (bao gồm cả chất thải điện
tử) đảm bảo tn thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn
hiện hành. Tổng số lượng chất thải nguy hại mà các
đơn vị này thu gom, xử lý được trong năm 2012 là
165.624 tấn; năm 2013 là 186.657 tấn; năm 2014 là
320.275 tấn. Căn cứ vào khối lượng chất thải phát
34
Số 143 - tháng 9/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
sinh này, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải nguy hại hiện
nay chiếm khoảng gần 40% tổng lượng chất thải
nguy hại phát sinh trên tồn quốc.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xử lý chất
thải nguy hại là các doanh nghiệp tư nhân (chiếm
97%) tổng số doanh nghiệp xử lý chất thải nguy
hại do Bộ Tài ngun và Mơi trường cấp phép hoạt
động. Việc phát triển mạnh các doanh nghiệp tư
nhân hoạt động theo cơ chế thị trường giúp cho hoạt
động quản lý chất thải mang tính cạnh tranh cao,
đảm bảo quyền lợi cho các chủ nguồn thải có chất
thải nguy hại cần chuyển giao có thể chọn lựa và tiếp
cận với các doanh nghiệp xử lý chất thải nguy hại với
kinh nghiệm và dịch vụ khác nhau, tránh tình trạng
độc quyền và ép giá xử lý chất thải nguy hại.
3. Thực trạng kiểm tốn mơi trường và kiểm
tốn rác thải của Kiểm tốn nhà nước
Kiểm tốn mơi trường được hiểu là việc kiểm
tốn các vấn đề, chính sách, chương trình và kinh
phí liên quan đến mơi trường của Chính phủ, kiểm
tốn viên có thể thực hiện kiểm tốn mơi trường
dưới cả ba loại hình kiểm tốn trong đó kiểm tốn
hoạt động về kiểm tốn mơi trường được khuyến
cáo là ưu tiên hàng đầu. Một trong những nội dung
kiểm tốn mơi trường quan trọng là kiểm tốn chất
thải hay kiểm tốn rác thải, đó là một trong những
cơng cụ để kiểm sốt, giảm thiểu phát sinh chất thải
gây ơ nhiễm mơi trường trong các cơ sở sản xuất.
Để bảo vệ mơi trường, cùng với sản xuất sạch
hơn, kiểm tốn chất thải là cơng cụ quản lý mơi
trường nhằm giảm thiểu và ngăn ngừa ơ nhiễm
ngay từ q trình sản xuất tại cơ sở cơng nghiệp,
Kiểm tốn chất thải bao gồm việc rà sốt, kiểm
tra các q trình sản xuất, xác định nguồn thải và
khối lượng chất thải, tính tốn cân bằng vật chất,
xác định các vấn đề trong vận hành sản xuất, từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu phát sinh
chất thải ra mơi trường. Có thể nói, kiểm tốn chất
thải là một lĩnh vực chun sâu của kiểm tốn mơi
trường của Kiểm tốn nhà nước.
3.1. Những kết quả kiểm tốn bước đầu
Tại Việt Nam, từ năm 2008, Kiểm tốn nhà
nước đã quyết định thành lập Nhóm cơng tác về
kiểm toán môi trường, đưa nội dung về kiểm toán
môi trường vào kế hoạch hành động thực hiện
Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước đến
năm 2022. Cho đến nay, Kiểm toán nhà nước đã
thực hiện một số cuộc kiểm toán có nội dung liên
quan đến môi trường như: Kiểm toán Dự án trồng
mới 5 triệu ha rừng; Dự án xử lý nước thải, chất
thải rắn và bảo vệ môi trường TP. Hội An; các vấn
đề về nước sông Mê Kông... Riêng 2 năm (2017,
2018), Kiểm toán nhà nước đã thực hiện hơn 22
cuộc kiểm toán liên quan đến môi trường, cụ thể:
Kiểm toán chuyên đề công tác quản lý nhà nước về
tài nguyên, khai khoáng giai đoạn 2014 - 2016 của
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương và
một số tỉnh, Thành phố; kiểm toán công tác quản
lý khai thác, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các
khu công nghiệp gắn liền với công tác bảo vệ môi
trường tỉnh Hậu Giang.
Ngoài ra, Kiểm toán nhà nước còn thực hiện một
số dự án liên quan đến môi trường như: Nhà máy
nhiệt điện Ô Môn 1; Nhà máy thủy điện Đắkring,
Nậm Chiến... Một số tập đoàn, tổng công ty liên
quan đến môi trường như: Tổng công ty Tài nguyên
và Môi trường Việt Nam; Tập đoàn Hóa chất; Tập
đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản; kiểm toán
việc thực hiện giải pháp giảm sử dụng túi ni lông
thông thường tại thành phố Hồ Chí Minh theo đề
án của Chính phủ; kiểm toán công tác quản lý môi
trường tại các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh; Nhà
máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1 (Bình Thuận) và gần
đây nhất là chuyển hóa Carbon thấp....
Đây là một bước tiến quan trọng trong hoạt
động của Kiểm toán nhà nước với cách tiếp cận
phát triển các loại hình, lĩnh vực kiểm toán mới
phù hợp với xu hướng và thông lệ quốc tế.
Sau khi trở thành thành viên Nhóm công tác
về kiểm toán môi trường của tổ chức Các cơ quan
kiểm toán tối cao châu Á (ASOSAI) từ năm 2008,
Kiểm toán nhà nước đã nghiên cứu, thiết lập bộ
máy và triển khai thí điểm các cuộc kiểm toán về
môi trường. Đây là các cuộc kiểm toán nhằm đánh
giá công tác quản lý môi trường đối với các khu công
nghiệp của địa phương và việc thực hiện giải pháp
giảm sử dụng túi nilon thông thường tại Thành phố
Hồ Chí Minh, và ở một số địa phương khác...
Qua kiểm toán, bước đầu phát hiện và kiến
nghị một số bất cập trong công tác quản lý của cơ
quan nhà nước đối với các hoạt động tiềm ẩn rủi ro
tác động xấu tới môi trường thể hiện ở một số nội
dung như sau:
- Hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý còn
hạn chế. Mặc dù có sự tham gia của nhiều Bộ, cơ
quan liên quan nhưng còn thiếu sự thống nhất, đặc
biệt là chưa có một cơ quan đầu mối thống nhất về
quản lý nhà nước, dẫn đến khó khăn trong quản
lý nhà nước ở cả cấp Trung ương và địa phương.
Trong đó có sự chồng chéo, bỏ trống, phân đoạn về
quản lý chất thải rắn.
Theo Luật Bảo vệ môi trường, Bộ Tài nguyên
và Môi trường được giao chỉ đạo, hướng dẫn và
thực hiện hoạt động quản lý chất thải nói chung;
các Bộ: Xây dựng, Y tế và Giao thông Vận tải được
giao chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi
trường tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về
môi trường trong phạm vi, lĩnh vực ngành quản
lý. Trách nhiệm cụ thể của từng bộ được quy định
trong các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật.
Tuy nhiên, các văn bản dưới luật như Nghị định
số 36/2017/NĐ-CP, Nghị định số 46/2015/NĐ-CP,
Nghị định 38/2015/NĐ-CP… lại đang có sự phân
đoạn và không rõ ràng trong phân công chỉ đạo,
hướng dẫn và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước
về chất thải rắn; chưa quy định, phân luồng quản
lý chất thải rắn một cách thống nhất; giao trách
nhiệm cho nhiều bộ, ngành khác nhau hướng dẫn
việc thực hiện.
- Công nghệ xử lý chất thải rắn còn nhiều bất
cập. Hiện nay, xử lý rác chủ yếu là chôn lấp; rác
chưa được phân loại tại nguồn. Trong khi đó, kinh
phí cho hoạt động thu gom, vận chuyển xử lý chất
thải rắn sinh hoạt chủ yếu dựa vào ngân sách tại các
địa phương; mức thu phí vệ sinh còn rất thấp, chỉ
mới bù đắp được một phần chi phí thu gom, vận
chuyển... Chính vì vậy, công tác quản lý chất thải
rắn đang gặp không ít những khó khăn.
- Định hướng thu gom, xử lý rác thải còn chưa
rõ. Nhà nước chưa có định hướng về sử dụng công
nghệ, chưa có tiêu chí lựa chọn thiết bị, công nghệ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019
35
QUẢN LÝ RÁC THẢI, NƯỚC THẢI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
36
và định hướng xây dựng và phát triển về kinh tế
chất thải. Kinh tế chất thải là việc xây dựng các cơ
chế làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước,
giảm chi phí xử lý chất thải đối với doanh nghiệp
thơng qua các hoạt động quản lý với đối tượng là
chất thải. Kinh tế chất thải cũng có thể hiểu là việc
sử dụng các cơng cụ kinh tế để hình thành và phát
triển đồng bộ các loại thị trường hàng hóa và dịch
vụ về sản phẩm tái chế, coi chất thải là một hàng
hóa có thể khai thác, tạo ra doanh thu, lợi nhuận
cho các bên liên quan.
Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan quản lý chức
3.2. Các kiến nghị và giải pháp đẩy mạnh kiểm
tốn mơi trường và kiểm tốn chất thải của Kiểm
tốn nhà nước
này, từ đó góp phần phát triển bền vững.
Thứ nhất, Tăng cường vai trò của Kiểm tốn
nhà nước trong kiểm tốn mơi trường để góp phần
phát triển nhanh và bền vững
nước đã nghiên cứu, thiết lập bộ máy và triển khai
Với tư cách là một cơng cụ quản lý quan trọng
trong hệ cơng cụ quản lý của một quốc gia, Kiểm
tốn nhà nước phải là lực lượng nòng cốt đảm
nhiệm kiểm tốn mơi trường để thấy được bức
tranh tổng thể về tình hình quản lý và bảo vệ mơi
trường của Quốc gia cũng như của các khu vực
trọng điểm, trên cơ sở đó cung cấp thơng tin cho
tác quản lý mơi trường đối với các khu cơng nghiệp
Số 143 - tháng 9/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
năng đưa ra những quyết định quản lý vĩ mơ kịp
thời và phù hợp. Qua kiểm tốn, Kiểm tốn nhà
nước sẽ đưa ra các kết luận, đánh giá và kiến nghị
cụ thể về việc xây dựng và thực hiện các chính
sách, quy định để phòng chống ơ nhiễm, bảo vệ
mơi trường của Quốc gia, cũng như từng đơn vị,
tổ chức; đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực
trong việc sử dụng các nguồn kinh phí mơi trường
của Chính phủ đồng thời đánh giá tính hợp lý đúng
đắn của các Báo cáo quyết tốn các nguồn kinh phí
Sau khi trở thành thành viên Nhóm cơng tác về
kiểm tốn mơi trường của ASOSAI, Kiểm tốn nhà
thí điểm các cuộc kiểm tốn về mơi trường.
Đây là các cuộc kiểm tốn nhằm đánh giá cơng
của địa phương; việc thực hiện giải pháp giảm sử
dụng túi nilon thơng thường tại Thành phố Hồ Chí
Minh… Qua kiểm tốn bước đầu phát hiện và kiến
nghị một số bất cập trong quản lý của cơ quan nhà
nước đối với các hoạt động tiềm ẩn rủi ro tác động
xấu tới mơi trường.
Đây là tiền đề để Kiểm toán nhà nước tổ chức
đúc kết kinh nghiệm, nghiên cứu ưu, nhược điểm
của các phương pháp tổ chức kiểm toán môi trường
hiện nay, từ đó có giải pháp hoàn thiện và tổ chức
hiệu quả hoạt động của lĩnh vực này.
Đồng thời, Kiểm toán nhà nước thực hiện đánh
giá tác động môi trường thông qua việc lồng ghép
trong các cuộc kiểm toán tài chính và kiểm toán
tuân thủ.
Trong đó, thực hiện đánh giá tác động của các
vấn đề môi trường đến báo cáo tài chính; việc tuân
thủ các quy định về quản lý môi trường của các dự
án, đơn vị được kiểm toán; đánh giá rủi ro về môi
trường trong hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống
kiểm soát môi trường của đơn vị được kiểm toán.
Việc đánh giá tác động môi trường trong kiểm
toán tuân thủ và kiểm toán tài chính đã góp phần
hỗ trợ kiểm toán viên đạt được các mục tiêu kiểm
toán đề ra, mặt khác cũng là cơ sở để kiểm toán
viên đưa ra các kết luận, kiến nghị và giải pháp về
các vấn đề môi trường nói riêng và phát triển bền
vững nói chung. Đây cũng là cơ sở để Kiểm toán
nhà nước tiếp tục nghiên cứu vận dụng mở rộng
lồng ghép đánh giá tác động môi trường trong các
cuộc kiểm toán thời gian tới.
Xét trên góc độ vĩ mô, thực tế cho thấy có nhiều
quốc gia do theo đuổi mục tiêu tăng trưởng (GDP)
đã phải đối mặt với những hậu quả khôn lường về
ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Theo xu
thế phát triển bền vững, việc tăng trưởng kinh tế
trong ngắn hạn bằng mọi giá mà bất chấp gia tăng
ô nhiễm môi trường và tác động xấu đến sức khỏe
người dân, dần dần được coi là không thể chấp
nhận được và sẽ bị loại bỏ. Do đó, việc tiến hành
các cuộc kiểm toán môi trường sẽ buộc các doanh
nghiệp phải tính toán các chi phí tài nguyên môi
trường, từ đó phải tính lại giá thành sản phẩm cũng
như giá trị GDP. Qua đó Kiểm toán nhà nước cần
phải tính toán xem để tăng trưởng 1% GDP cần
phải tái đầu tư lại để phục hồi môi trường sống bao
nhiêu trong số đó? Đây là căn cứ quan trọng để
Kiểm toán nhà nước kiến nghị Quốc hội và Chính
phủ xác định mức thuế môi trường cho các lĩnh
vực kinh tế một cách tương xứng và phù hợp.
Thứ hai, Đẩy mạnh kiểm toán chất thải của
Kiểm toán nhà nước
Một là, Nâng cao nhận thức và ý thức của các
cơ quan, đơn vị và xã hội về kiểm toán môi trường.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao nhận
thức của cơ quan quản lý nhà nước và công chúng.
Hai là, Tập trung xây dựng và tăng cường năng
lực kiểm toán môi trường. Phát triển đội ngũ cán
bộ kiểm toán viên kiểm toán môi trường đảm bảo
đủ về số lượng, cơ cấu chuyên môn và cơ cấu ngành
hợp lý. Trong đó, chú trọng đào tạo đội ngũ kiểm
toán viên kiểm toán môi trường thông qua các
hình thức mời chuyên gia nước ngoài chia sẻ kinh
nghiệm; cử cán bộ tham gia các khóa học tại nước
ngoài, tìm kiếm các dự án tài trợ cho phát triển
kiểm toán môi trường. Cùng với đó, phát triển cơ
sở vật chất, thông tin tuyên truyền và phát triển
khoa học - công nghệ thông tin phục vụ cho nội
dung kiểm toán môi trường.
Ba là, Đề xuất xây dựng các văn bản pháp lý quy
định rõ chức năng kiểm toán môi trường của Kiểm
toán nhà nước. Ban hành và phổ biến các hướng
dẫn, phương pháp kiểm toán môi trường theo
hướng tuân thủ Hệ thống chuẩn mực kiểm toán
quốc tế. Xây dựng quy trình và phương pháp cho
kiểm toán hoạt động, trong đó có kiểm toán môi
trường, xây dựng Cẩm nang hướng dẫn nghiệp vụ
kiểm toán trên cơ sở tham khảo các chuẩn mực,
hướng dẫn, cẩm nang của Tổ chức quốc tế các cơ
quan kiểm toán tối cao INTOSAI, ASOSAI và phù
hợp với điều kiện của Việt Nam.
Bốn là, Đẩy mạnh việc triển khai các cuộc kiểm
toán môi trường trên cả nước. Đặc biệt tăng cường
kiểm toán hoạt động để đánh giá một cách toàn
diện công tác quản lý, sử dụng nguồn lực, trách
nhiệm quản lý trong công tác bảo vệ môi trường
của các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đạt được
các mục tiêu phát triển bền vững. Đồng thời, tăng
cường công tác kiểm tra, kiểm soát và đánh giá chất
lượng các nội dung về kiểm toán môi trường nhằm
nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả của kiểm
toán môi trường.
Năm là, Tăng cường hợp tác và chia sẻ kinh
nghiệm về lĩnh vực kiểm toán môi trường. Đồng
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019
37
QUẢN LÝ RÁC THẢI, NƯỚC THẢI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
thời, thể hiện nỗ lực và đóng góp thiết thực của
Kiểm tốn nhà nước Việt Nam đối với cơng cuộc
theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững của thế giới
nói chung và giải quyết thách thức về mơi trường
tồn cầu nói riêng.
Thứ ba, Thực hiện các giải pháp
Thơng qua kết quả hoạt động kiểm tốn mơi
trường trong hơn 10 năm qua của Kiểm tốn nhà
nước, chúng tơi kiến nghị các giải pháp sau đây:
Một là, Về đầu tư và tài chính
- Huy động mọi nguồn lực đầu tư cho cơng tác
quản lý, xử lý chất thải rắn: Nguồn ngân sách nhà
nước (cả vốn ODA), quỹ bảo vệ mơi trường, các tổ
chức, cá nhân trong và ngồi nước.
- Mở rộng hỗ trợ tín dụng nhà nước cho các
cơng trình đầu tư, dự án tái chế, tái sử dụng và thu
hồi năng lượng từ chất thải rắn cũng như các ưu đãi
về thuế, phí và lệ phí một cách hợp lý.
- Rà sốt, nghiên cứu giảm thiểu thủ tục trong q
trình triển khai vay vốn, bao gồm cả vay từ nguồn
vốn ưu đãi để thực hiện các dự án xử lý chất thải rắn
áp dụng cơng nghệ phù hợp với điều kiện Việt Nam.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và
ngồi nước đầu tư vào hoạt động kinh tế chất thải
như tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng từ
chất thải rắn. Đẩy mạnh hợp tác cơng - tư (PPP)
trong lĩnh vực xử lý, tái chế chất thải rắn.
- Đẩy mạnh xã hội hố cơng tác thu gom, vận
chuyển và vận hành cơ sở xử lý chất thải rắn; tăng
dần nguồn thu phí vệ sinh, giảm dần hỗ trợ từ ngân
sách cho hoạt động thu gom, vận chuyển chất thải
rắn; rà sốt sửa đổi bổ sung và ban hành đơn giá
xử lý chất thải rắn có thu hồi năng lượng một cách
hợp lý.
- Xây dựng chính sách mua sắm cơng để ưu tiên
mua sắm các sản phẩm thân thiện mơi trường, sản
phẩm sau q trình tái chế, xử lý chất thải từ nguồn
ngân sách.
- Nghiên cứu, áp dụng giá dịch vụ xử lý chất thải
rắn sinh hoạt, có lộ trình điều chỉnh giá nhằm từng
bước đáp ứng u cầu về bù đắp chi phí quản lý vận
hành và đầu tư xây dựng.
38
Số 143 - tháng 9/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
- Lựa chọn các địa điểm hợp lý để đầu tư các
trung tâm xử lý và tái chế chất thải ở quy mơ liên
vùng, liên tỉnh. Bố trí kinh phí đầu tư các cơ sở xử
lý chất thải nguy hại cơng ích ở các vùng, miền còn
gặp nhiều khó khăn hoặc khơng có cơ sở xử lý như
các tỉnh miền núi, hải đảo...
Hai là, Về giám sát, kiểm tra, thanh tra
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản
lý nhà nước về mơi trường của các địa phương
trong kiểm sốt chặt chẽ các khu xử lý chất thải, bãi
chơn lấp chất thải giáp ranh giữa các địa phương và
việc vận chuyển chất thải liên tỉnh.
- Tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra, kiểm
tốn hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý chất
thải rắn để phòng ngừa cũng như kịp thời phát
hiện và xử lý các vi phạm.
Ba là, Hỗ trợ kỹ thuật và nghiên cứu, phát triển
cơng nghệ
- Nghiên cứu phát triển cơng nghệ xử lý chất
thải rắn theo hướng giảm thiểu lượng chất thải rắn
chơn lấp, tăng cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng và thu
hồi năng lượng từ chất thải.
- Tăng cường nghiên cứu, chuyển giao và ứng
dụng các cơng nghệ sẵn có tốt nhất (BAT), cơng
nghệ thân thiện với mơi trường.
- Đẩy mạnh việc xây dựng các mơ hình điểm về
kinh tế chất thải để tái chế, tái sử dụng và thu hồi
năng lượng từ chất thải rắn nhằm lựa chọn các mơ
hình phù hợp để nhân rộng trên phạm vi cả nước.
- Áp dụng các cơng nghệ tái chế hiện đại, thân
thiện với mơi trường thay thế các cơng nghệ cũ, lạc
hậu ở các cơ sở tái chế.
Bốn là, Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường
trao đổi và hợp tác kỹ thuật với các tổ chức quốc tế.
- Chủ động đề xuất, xây dựng cơ chế và nội
dung hợp tác song phương và đa phương, trao đổi
kinh nghiệm trong cơng tác quản lý, xử lý chất thải
rắn với những nước có thế mạnh về cơng nghệ xử
lý chất thải trên thế giới.
- Tiếp tục kêu gọi, thu hút đầu tư nước ngồi
tham gia phát triển cơ sở hạ tầng, nhà máy phục vụ
quản lý, xử lý chất thải rắn.
- Tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công
nghệ và đào tạo trong hoạt động tái chế, tái sử dụng
thu hồi năng lượng từ chất thải rắn.
Năm là, Xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn
Trong nền kinh tế truyền thống, các nhà sản
xuất khai thác tài nguyên thiên nhiên để tạo ra các
sản phẩm và dịch vụ, sau đó phế thải từ sản xuất và
tiêu dùng bị đưa đi chôn lấp, thậm chí thải ra môi
trường tự nhiên. Ngược lại, nền kinh tế tuần hoàn
(circular economy) chính là một giải pháp thay thế
bền vững mô hình truyền thống nói trên. Kinh tế
tuần hoàn được hiểu là mô hình kinh tế, trong đó
các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra
mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác
động tiêu cực đến môi trường. Nếu như mô hình
kinh tế tuyến tính chỉ quan tâm đến khai thác tài
nguyên, sản xuất và vứt bỏ sau tiêu thụ, dẫn đến
một lượng phế thải khổng lồ thì mô hình kinh tế
tuần hoàn chú trọng vào việc quản lý, tái tạo tài
nguyên theo một vòng khép kín nhằm tránh tạo
ra phế thải. Chất thải - thay vì bị vứt bỏ, lãng phí
và gây ô nhiễm môi trường - sẽ được “hồi sinh”
dưới dạng các nguồn lực khác nhau và một lần nữa
tham gia vào quá trình sản xuất và sử dụng. Trong
nền kinh tế tuần hoàn, các nhà sản xuất chú trọng
kéo dài thời hạn và tận dụng tối đa giá trị sử dụng
của tài nguyên, sau đó quản lý và tái tạo những sản
phẩm và tài nguyên này vào cuối vòng đời sử dụng.
Theo nghiên cứu của Accenture Strategy, mô
hình kinh tế tuần hoàn có thể mở ra cơ hội thị
trường trị giá lên tới 4.500 tỷ USD và tạo ra hàng
triệu việc làm cho nền kinh tế toàn cầu vào năm
2030. Nhiều tập đoàn lớn đã và đang triển khai
hướng tới kinh tế tuần hoàn trong tổ chức. Ví dụ,
IKEA cam kết ứng dụng hoàn toàn mô hình kinh
tế tuần hoàn vào 2030, Lego hướng đến dùng nhựa
thực vật, Carlsberg cải thiện giải pháp đóng gói
giảm dùng nhựa. Tại Schneider Electric, các hoạt
động kinh tế tuần hoàn chiếm 12% doanh thu và
dự kiến tiết kiệm 100.000 tấn tài nguyên giai đoạn
2018-2020. Hay như Heineken Việt Nam, đơn vị
công bố đã có gần 99% phế thải hoặc phụ phẩm
được tái sử dụng hoặc tái chế, 4 trên 6 nhà máy bia
sử dụng nhiệt năng từ năng lượng tái tạo và nhiên
liệu sinh khối, không phát thải các-bon.
Các dự báo đã chỉ ra rằng đến năm 2050 thì
lượng rác thải sẽ nhiều hơn lượng cá trên đại
dương. Đây là những điều cần suy nghĩ không chỉ
với doanh nghiệp mà còn đối với mỗi cá nhân.
Một trong những giải pháp khả thi hàng đầu là giải
quyết bằng kinh tế tuần hoàn.
Như vậy, việc áp dụng mô hình kinh tế tuần
hoàn sẽ giúp giảm phát thải, thúc đẩy sử dụng hiệu
quả nguồn tài nguyên, góp phần giải quyết các vấn
đề về khan hiếm và bảo tồn tài nguyên, đồng thời
hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh
tế Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ISPONRE, Nghiên cứu, xây dựng quy định
pháp luật về tái chế chất thải rắn trong
Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) và văn
bản hướng dẫn chi tiết;
2. Nguyễn Thị Hồng Liễu, Tình hình quản lý
chất thải rắn ở Việt Nam và sự tham gia
của khối tư nhân;
3. Addressing the Economics of Waste, OECD;
4. ICC, “Environmental Auditing”;
5. BS EN ISO 19011: “Guidelines for auditing
management systems”, 2011;
6. World Bank, Environment Department,
Environmental Source Book: Environmental
Auditing, 2000;
7. R. Coyle, Encyclopedia of Occupational
Health and Safety, ILO, 2011;
8. Trịnh Thị Thanh: Giáo trình kiểm toán chất
thải công nghiệp: NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội 2016;
9. Hồ Thị Lam Trà, Cao Trường Sơn, 2009, Kiểm
toán môi trường; Trường Đại học Ngoại ngữ
Hà Nội;
10. Võ Đình Long: GT Kiểm toán môi trường.
NXB Đại học Công nghiệp TP HCM.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019
39