QUẢN LÝ RÁC THẢI, NƯỚC THẢI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
TĂNG CƯỜNG KIỂM TOÁN MÔI TRƯỜNG
CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Ths. Trần Khánh Hòa*
K
iểm tốn mơi trường nói chung và kiểm tốn cơng tác quản lý nước thải, rác thải nói riêng
đã góp phần quan trọng trong phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật của Nhà
nước về bảo vệ mơi trường; góp phần hồn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về mơi trường;
giảm thiểu tác động do rủi ro đối với con người, mơi trường do các vấn đề ơ nhiễm, sự cố
mơi trường gây nên, từng bước đáp ứng u cầu phát triển kinh tế - xã hội phải cân bằng với bảo vệ mơi
trường và phát triển bền vững... Trong những năm gần đây, nhất là từ khi Kiểm tốn nhà nước thành lập
phòng Kiểm tốn hoạt động, phòng Kiểm tốn mơi trường, lĩnh vực kiểm tốn mơi trường đã được Kiểm
tốn nhà nước quan tâm trong định hướng xây dựng Kế hoạch kiểm tốn hàng năm. Đặc biệt, tại Đại hội
ASOSAI 14 tại Hà Nội năm 2018, Kiểm tốn nhà nước Việt Nam với vai trò là nước chủ nhà đã đề xuất
“Kiểm tốn mơi trường vì sự phát triển bền vững” làm chủ đề Đại hội và nhận được sự đồng thuận cao từ
các nước.
Từ khóa: Kiểm tốn mơi trường.
Current situation and solutions to strengthening environmental audit in state audit office of Vietnam
The environmental audit in general and the audit of waste water and waste management in particular
have made an important contribution in detecting and preventing acts of violating the State’s laws on
environmental protection, contributing to improvement of environmental mechanisms and policies,
minimizing impacts for human being and the environment caused by pollution issues, environmental
incidents, gradually meeting the requirements of development, and socio-economic development must be
in balance with environmental protection and sustainable development... In recent years, especially since the
State Audit Office of Vietnam established Performance Audit Division and Environmental Audit Division,
environmental auditing has been paid attention by the State Audit Officeof Vietnam in the orientation of
annual audit plan. Especially, at ASOSAI 14th Congress in Hanoi in 2018, the State Audit Offcie of Vietnam
as the host country proposed “Environmental Audit for Sustainable Development” as the theme of the
Congress and received high consensus from other countries.
Key words: Environmental audit.
Tuy nhiên, trước thực trạng mơi trường và
những biến đổi của mơi trường trong thời gian
gần đây đang tạo ra những bất lợi, các nguồn gây ơ
nhiễm mơi trường gia tăng nhanh về số lượng, quy
mơ và mức độ tác động xấu lên mơi trường, làm
cho mơi trường đất, nước, khơng khí nhiều nơi bị
ơ nhiễm, có nơi đã đến mức nghiêm trọng… Mặt
khác hệ thống pháp luật về bảo vệ mơi trường tuy
đã được hình thành về cơ bản song vẫn còn nhiều
hạn chế, bất cập, nhiều quy định mang tính ngun
*Vụ trưởng, Vụ Tổng hợp, Kiểm tốn nhà nước
40
Số 143 - tháng 9/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
tắc, còn thiếu hoặc chưa đầy đủ... Vì vậy cơng tác
kiểm tốn mơi trường nói chung và kiểm tốn cơng
tác quản lý nước thải, rác thải nói riêng ngày càng
phải được coi trọng.
1. Thực trạng kết quả kiểm tốn mơi trường
trong thời gian qua
Kết quả kiểm tốn của Kiểm tốn nhà nước
trong lĩnh vực mơi trường nói chung và lĩnh vực
nước thải, rác thải nói riêng đã có tác động tích
cực đến hoạt động bảo vệ môi trường của các bộ
ngành, địa phương và ý thức chấp hành pháp luật
của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Qua kiểm
toán cho thấy mức độ vi phạm pháp luật của Nhà
nước trong công tác bảo vệ môi trường diễn ra ở
hầu hết các đơn vị được kiểm toán, cụ thể:
(i) Năm 2015, cuộc kiểm toán Hệ thống xử lý
nước thải y tế của các Bệnh viện trung ương tại Hà
Nội giai đoạn 2011-2015 cho thấy: Công tác đầu
tư và quản lý, vận hành Hệ thống xử lý nước thải
y tế của các bệnh viện chưa đảm bảo mục tiêu của
Đề án tổng thể xử lý chất thải y tế giai đoạn 2011
- 2015 và định hướng đến năm 2020, như việc lựa
chọn quy mô, công nghệ Hệ thống xử lý nước thải
y tế chưa được thuyết minh căn cứ kết quả khảo
sát, đánh giá thực trạng xả thải của các bệnh viện;
nhiều bệnh viện chưa được phê duyệt chủ trương
đầu tư Hệ thống xử lý nước thải y tế; các bệnh viện
thực hiện chưa tốt việc xây dựng kế hoạch xử lý
nước thải y tế; cán bộ vận hành Hệ thống xử lý
nước thải y tế chưa đáp ứng được trình độ chuyên
môn về quản lý nước thải y tế; thực hiện chưa tốt
việc quan trắc, đánh giá chất lượng nước thải trước
và sau xử lý dẫn đến Hệ thống xử lý nước thải y tế
hoạt động chưa hiệu quả, chưa đảm bảo tính ổn
định, bền vững, nước thải sau xử lý chưa đáp ứng
quy chuẩn hiện hành;
(ii) Năm 2017, cuộc kiểm toán hoạt động quản
lý và xử lý nước thải Khu công nghiệp Khánh Phú,
Ninh Bình kết quả kiểm toán cho thấy thực trạng
ô nhiễm tại các khu công nghiệp đáng báo động,
tiềm ẩn rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe người dân
trong khu vực (một số mẫu nước thải thử nghiệm
có thông số phân tích vượt so với các Quy chuẩn kỹ
thuật Quốc gia về nước thải hiện hành; bùn tiềm
ẩn nguy cơ là chất thải nguy hại nhưng được quản
lý như chất thải rắn thông thường... Trong khi đó,
công tác đầu tư hạ tầng kỹ thuật các công trình xử
lý nước thải, quan trắc tự động chưa được quan
tâm đúng mức, chưa đảm bảo chất lượng và tiến
độ theo yêu cầu, như đơn vị chưa lắp đặt hệ thống
quan trắc tự động liên tục để truyền số liệu trực
tiếp cho Sở Tài nguyên môi trường tỉnh theo quy
định; nhà máy xử lý nước thải không có giấy phép
xả thải; chất lượng nước thải không ổn định, có
nhiều thời điểm vượt ngưỡng so với quy định);
(iii) Năm 2018, cuộc kiểm toán việc thực hiện
giải pháp giảm sử dụng túi ni lông thông thường
của Thành phố Hồ Chí Minh theo đề án của
Chính phủ cho thấy còn nhiều hạn chế từ công tác
lập kế hoạch, tổ chức thông tin tuyên truyền, đôn
đốc triển khai và thực hiện giải pháp khuyến khích
sản xuất túi ni lông tự phân hủy sinh học đến báo
cáo kết quả thực hiện, đặc biệt là hạn chế trong
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019
41
QUẢN LÝ RÁC THẢI, NƯỚC THẢI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
việc tổ chức thu thuế bảo vệ mơi trường đối với
hoạt động sản xuất túi ni lơng khó phân hủy trên
địa bàn Thành phố, cũng như còn nhiều lỗ hổng
trong các văn bản pháp luật, gây thất thu ngân
sách nhà nước. Cuộc kiểm tốn cơng tác quản lý
mơi trường tại Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1,
tỉnh Bình Thuận, Bộ Cơng thương chưa phân tích,
đánh giá và cảnh báo các rủi ro tiềm ẩn về mơi
trường, tham mưu về diện tích bãi chứa tro xỉ cho
các nhà máy nhiệt điện than đầu tư theo hình thức
BOT chưa đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ, cơng tác quy hoạch và điều chỉnh quy
hoạch chưa có sự phối hợp với địa phương dẫn
đến chồng lấn diện tích biển với Khu bảo tồn sinh
thái biển Hòn Cau...
Bên cạnh kết quả đã đạt được, cơng tác kiểm
tốn mơi trường trong thời gian qua còn hạn chế,
bất cập làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm tốn,
cụ thể:
Một là, cơ sở pháp lý thực hiện kiểm tốn mơi
trường còn bất cập, hiện nay chưa có hệ thống văn
bản quy định rõ chức năng kiểm tốn mơi trường
của Kiểm tốn nhà nước; bên cạnh đó, hệ thống
văn bản hướng dẫn kiểm tốn lĩnh vực chun đề
nói chung chưa đầy đủ và đồng bộ, riêng hướng
dẫn kiểm tốn mơi trường chưa được ban hành;
hầu hết hướng dẫn còn chung chung, chủ yếu là
khung hướng dẫn về nội dung, mục tiêu kiểm tốn
mà chưa đi sâu hướng dẫn về phương pháp, thủ
tục kiểm tốn. Vì vậy, chất lượng kiểm tốn đối với
lĩnh vực này còn hạn chế, chưa đáp ứng u cầu
đặt ra.
Hai là, kiểm tốn lĩnh vực mơi trường nói chung
và kiểm tốn nước thải, rác thải trong thời gian qua
còn chưa được quan tâm nhiều (số lượng các cuộc
kiểm tốn còn q ít, phạm vi, nội dung kiểm tốn
còn manh mún, nhỏ lẻ, chưa có tính hệ thống) bởi
đây là lĩnh vực kiểm tốn mới, Kiểm tốn nhà nước
chưa có nhiều kinh nghiệm, lực lượng kiểm tốn
viên có trình độ về lĩnh vực này còn thiếu cả về số
lượng và chất lượng, vì vậy kết quả kiểm tốn đối
với lĩnh vực này còn hạn chế đáng kể.
Ba là, nội dung kiểm tốn tổng hợp chưa được
quan tâm bố trí nhân lực và thời gian thực hiện
để đi sâu phân tích, đánh giá một cách tồn diện
cơng tác quản lý, sử dụng nguồn lực, trách nhiệm
quản lý của các cấp, ngành có liên quan trong cơng
42
Số 143 - tháng 9/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
tác bảo vệ mơi trường của các cơ quan quản lý nhà
nước nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền
vững nên nội dung kiểm tốn còn mờ nhạt, giá trị
gia tăng thấp...
Bốn là, nhân sự và việc bố trí nhân sự đồn
kiểm tốn còn chưa đáp ứng với tính chất, chủ đề
kiểm tốn: Chủ đề kiểm tốn mơi trường đòi hỏi
kiểm tốn viên phải có sự am hiểu rõ về lĩnh vực
mơi trường, trong khi lực lượng kiểm tốn viên
có chun mơn về lĩnh vực này còn thiếu cả về số
lượng và chất lượng.
Năm là, cơ sở dữ liệu, thơng tin kiểm tốn chưa
đầy đủ, nhất là hệ thống thơng tin về các đầu mối
thuộc phạm vi kiểm tốn của Kiểm tốn nhà nước,
do đó việc lựa chọn chủ đề kiểm tốn mơi trường
chủ yếu thơng qua việc thu thập thơng tin trên
phương tiện thơng tin đại chúng, dẫn đến chưa
có được các thơng tin chính xác về tình hình thực
hiện của chủ đề kiểm tốn được lựa chọn để có thể
xác định được các nội dung, phạm vi, đối tượng dự
kiến kiểm tốn.
Sáu là, hầu hết các đơn vị được kiểm tốn chưa
thực sự hiểu biết tồn diện, đầy đủ và mang tính hệ
thống về kiểm tốn mơi trường, dẫn đến còn khó
khăn, vướng mắc trong phối hợp tổ chức thực hiện
kiểm tốn.
2. Định hướng và giải pháp kiểm tốn mơi
trường trong thời gian tới
Phát triển kiểm tốn mơi trường nói chung và
kiểm tốn nước thải, rác thải nói riêng là một trong
những nhiệm vụ rất quan trọng trong giai đoạn
hiện nay, bởi cơng tác quản lý nhà nước về bảo vệ
mơi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, tình trạng
ơ nhiễm mơi trường đang là vấn đề rất bức xúc.
Đặc biệt, để thực hiện có hiệu quả cam kết, đóng
góp thiết thực vào cơng cuộc theo đuổi mục tiêu
phát triển bền vững của Liên hợp quốc nói chung
và giải quyết những thách thức về mơi trường tồn
cầu nói riêng theo đúng chủ đề “Kiểm tốn mơi
trường vì sự phát triển bền vững” do Kiểm tốn
nhà nước Việt Nam đề xuất và được thơng qua tại
Đại hội ASOSAI 14 năm 2018.
Bởi vậy, trong thời gian tới, để thực hiện tốt
“Kiểm tốn mơi trường vì sự phát triển bền vững”,
bên cạnh việc Nhà nước cần ưu tiên bố trí vốn đầu
tư nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị
bảo vệ môi trường; thực hiện có hiệu quả việc lồng
ghép một cách hài hoà với phát triển kinh tế - xã hội
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước bảo đảm phát triển bền vững, “không đánh
đổi tăng trưởng kinh tế với ô nhiễm môi trường”;
nâng cao nhận thức trong xã hội về môi trường và
phát triển bền vững; nâng cao năng lực quản lý môi
trường… Kiểm toán nhà nước cần có những giải
pháp căn bản sau:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ sở pháp lý kiểm toán
môi trường, sớm xây dựng các văn bản pháp lý
quy định rõ chức năng kiểm toán môi trường của
Kiểm toán nhà nước; đồng thời xây dựng hệ thống
văn bản hướng dẫn kiểm toán môi trường theo
hướng rõ ràng, chi tiết, sát với thực tiễn thực hiện,
đi sâu hướng dẫn kỹ thuật xây dựng tiêu chí kiểm
toán, thủ tục kiểm toán những phần hành quan
trọng... tạo sự thống nhất, xuyên suốt trong quá
trình kiểm toán.
Thứ hai, kế hoạch kiểm toán trong những năm
tới cần tập trung ưu tiên lựa chọn những vấn đề
trọng yếu trong quản lý nhà nước về môi trường;
xác định kiểm toán môi trường là một trong những
nội dung quan trọng và mang tính đột phá, do đó
cần được thực hiện kiểm toán thường xuyên.
Thứ ba, đổi mới cách thức tổ chức kiểm toán
môi trường, thành lập đoàn kiểm toán với phạm
vi toàn ngành (giao cho 01 đơn vị chủ trì hướng
dẫn, tổng hợp kết quả kiểm toán), hạn chế các cuộc
kiểm toán đơn lẻ, phạm vi hẹp, chỉ giới hạn ở một
đơn vị thực hiện, như: Tổ chức kiểm toán toàn
ngành đối với chuyên đề quản lý nhà nước về bảo
vệ môi trường nước, không khí, tái chế chất thải,
rác thải, việc quản lý nhập khẩu phế liệu... nhằm
đánh giá chuyên sâu theo từng lĩnh vực cụ thể. Có
như vậy mới đáp ứng yêu cầu công tác quản lý, điều
hành, giám sát của các cấp quản lý đối với lĩnh vực
quản lý nhà nước về môi trường, góp phần giúp
Kiểm toán nhà nước đào tạo được đội ngũ kiểm
toán viên chuyên sâu về lĩnh vực kiểm toán này.
Thứ tư, đổi mới và đa dạng hóa phương pháp
thu thập bằng chứng kiểm toán, kịp thời tham khảo
ý kiến của các cơ quan quản lý, xây dựng chính sách
về lĩnh vực môi trường nhằm đảm bảo tính khách
quan, thuyết phục cũng như tính khả thi trong việc
đưa ra các kiến nghị kiểm toán, bởi các chính sách
liên quan đến lĩnh vực bảo vệ môi trường khá phức
tạp, nhiều văn bản hướng dẫn chung chung, không
rõ ràng, có thể hiểu theo những cách khác nhau…
Thứ năm, tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin vào công tác nghiệp vụ kiểm toán bảo vệ
môi trường: Ngày nay, công nghệ thông tin đã phát
triển mạnh mẽ, trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
môi trường, nhiều thông số được theo dõi, quản lý
bằng những phần mềm chuyên dụng. Bởi vậy, để
có thể đáp ứng tốt nhiệm vụ kiểm toán môi trường
trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi các kiểm toán viên
cần có những công cụ hỗ trợ về công nghệ thông
tin mới có thể tiếp cận được đối tượng kiểm toán
và thực hiện kiểm toán một cách hiệu quả (Kiểm
toán nhà nước Malaysia đã sử dụng công nghệ viễn
thám và hệ thống thông tin địa lý để lấy mẫu và
phân tích trong kiểm toán môi trường). Vì vậy,
Kiểm toán nhà nước cần xây dựng cơ sở dữ liệu về
kiểm toán môi trường, tăng cường công cụ hỗ trợ,
hạ tầng kỹ thuật của hệ thống thông tin đảm bảo
đồng bộ và tiếp cận được với hệ thống dữ liệu của
cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Việc ứng
dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán sẽ giúp
cho kiểm toán viên nâng cao hiệu quả, chất lượng
và tiết kiệm thời gian kiểm toán.
Thứ sáu, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán môi trường,
xây dựng lực lượng kiểm toán viên kiểm toán môi
trường đủ cả về số lượng chất lượng; tiếp thu áp
dụng những phương pháp kiểm toán mới, hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán môi trường để
học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm; tăng cường công tác
nghiên cứu khoa học về kiểm toán môi trường để
áp dụng vào hoạt động kiểm toán; tập trung nhân
lực và dành nhiều thời gian, trí tuệ kiểm toán nhằm
đi sâu phân tích, đánh giá toàn diện công tác quản
lý, sử dụng nguồn lực, trách nhiệm quản lý của các
cấp, ngành có liên quan trong công tác bảo vệ môi
trường của các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đạt
được các mục tiêu phát triển bền vững.
Thứ bảy, tăng cường công khai kết quả kiểm
toán môi trường trên các phương tiện thông tin
đại chúng nhằm tuyên truyền, phổ biến kiến thức,
kinh nghiệm quản lý; cung cấp các thông tin tác
động đến xã hội để các đơn vị nhận thức và quan
tâm hơn đến việc đề phòng, ngăn ngừa, hạn chế
những tồn tại thiếu sót, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu
cầu quản lý nhà nước về lĩnh vực môi trường.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019
43