Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kinh nghiệm quản lý và xử lý rác thải, nước thải trên thế giới vì sự phát triển bền vững và những gợi mở cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.26 KB, 7 trang )

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ RÁC THẢI,
NƯỚC THẢI TRÊN THẾ GIỚI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG VÀ NHỮNG GI MỞ CHO VIỆT NAM

T

PGS.TS. Bùi Quốc Lập1
TS. Ngơ Trà Mai2
ThS. Nguyễn Thị Phương Lan1

rong khi các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam đạt được những thành tựu đáng kể
trong phát triển kinh tế, tuy nhiên, họ cũng đang phải đối mặt với các vấn đề mơi trường
liên quan đến nước thải và rác thải. Rõ ràng là suy thối mơi trường nghiêm trọng làm ảnh
hưởng đến con người cũng như hệ sinh thái xung quanh chúng ta. Nói một cách đơn giản, các
nước trên thế giới cần phát triển kinh tế mà khơng hủy hoại mơi trường.
Ngay từ những năm đầu của thế kỷ 20, WB đã cảnh báo về một cuộc khủng khoảng rác thải, nước thải
đang ngày càng nghiêm trọng và tạo gánh nặng khổng lồ về tài chính cũng như mơi trường cho Chính phủ các
nước. Nhận thức được điều đó hầu hết các nước đang phát triển trên thế giới đã từng bước xây dựng các chính
sách về tài chính, luật pháp; nghiên cứu cơng nghệ để xử lý chất thải, nước thải và thu được nhiều thành quả.
Thơng qua việc xem xét, nghiên cứu kinh nghiệm quản lý và xử lý nước thải trên thế giới, bài viết mong
muốn đề xuất, gợi mở một số hướng cho cơng tác xử lý chất thải rắn và nước thải tại Việt Nam hướng tới
mục tiêu chung là phát triển bền vững tồn diện về cả hai mặt kinh tế và mơi trường.
Từ khóa: Quản lý và xử lý rác thải và nước thải.
International experience in management and handle of waste and waste water for sustainable
development andsuggestions for Vietnam
While countries around the world and Vietnam have achieved remarkable achievements in economic
development, they are also facing environmental issues related to waste and waste water. It is clear that
serious environmental degradation affects the people and the ecosystem around us. Countries around the
world need economic development without destroying the environment.
Right from the early years of the 20th century, the World Bank warned of a crisis of waste and wastewater
which is becoming more and more serious and creating a huge financial and environmental burden for


governments of other countries. Recognizing the threats, most developing countries in the world have
gradually developed financial and legal policies, technology research to treat waste and wastewater and
gained a lot of success.
Through reviewing and researching experience in wastewater management and treatment in the
world, the article desires to proposesome solutions for solid waste and wastewater treatment in Vietnam
towards the common goal which is comprehensive and sustainable development both in economic and
environmental issues.
Key words: Management and handle waste and wastewater.
1. Đặt vấn đề
Đối với chất thải rắn, có nhiều cách thức phân
loại rác thải, tuy nhiên thơng thường phân chia
theo nguồn gốc phát sinh là: Sinh hoạt, cơng nghiệp
và nguy hại. Theo số liệu do cơ quan bảo vệ mơi
trường Hoa Kỳ (USEPA) đưa ra năm 2018 lượng

rác thải sinh hoạt phát sinh bình qn ở các nước
phát triển là 1,4-1,6kg/người/ngđ; ở các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam là từ 0,8-1,2 kg/
người/ngđ. Có nhiều số liệu thống kê khác nhau về
rác cơng nghiệp và nguy hại hàng năm, tuy nhiên
theo cơng bố mới nhất của Ngân hàng Thế giới

Trường Đại học Thủy Lợi; 2Viện Vật lý - Viện Hàn lâm Khoa học và Cơng nghệ Việt Nam

1

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN Số 143 - tháng 9/2019

57



QUẢN LÝ RÁC THẢI, NƯỚC THẢI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC

(WB) thì con số này là khoảng 2 tỷ tấn rác cơng
nghiệp khơng nguy hại và khoảng gần 200 triệu tấn
rác nguy hại.
Đối với nước thải, để đơn giản, USEPA chỉ đưa
ra 02 loại chính là: nước thải cơng nghiệp và nước
thải sinh hoạt. Nước thải sinh hoạt cũng được
tính dựa trên đầu người là 200l/người/ngđ đối với
các nước phát triển và 80-120l/người/ngđ đối với
các nước đang phát triển. Nước thải cơng nghiệp
chưa có con số ước tính cụ thể, tuy nhiên, dựa
vào cơng suất khai thác nước mặt, nước ngầm để
ước tính và con số được đưa ra là hàng tỷ m3/
ng.đ. Trong số đó, chỉ có khoảng 30% là được xử
lý triệt để, khoảng 70% là được xử lý nhưng chưa
đạt u cầu.
Ở Việt Nam, sự gia tăng dân số cùng với phát
triển kinh tế - xã hội đã kéo theo nhu cầu tiêu dùng
hàng hóa, ngun vật liệu, năng lượng, đồng thời
làm gia tăng lượng phát sinh chất thải rắn, nước
thải với thành phần ngày càng phức tạp đã và đang
gây khó khăn cản trở q trình phát triển bền vững
ở Việt Nam.
Nhận thức được vấn đề đó, quản lý chất thải
ln là một trong những nội dung trọng tâm trong
cơng tác quản lý mơi trường ở Việt Nam. Vì vậy,
cần thiết phải tiếp tục có những giải pháp hữu ích,
hiệu quả hơn trong cơng tác bảo vệ mơi trường đặc

58

Số 143 - tháng 9/2019

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN

biệt là đối với 02 vấn đề mấu chốt là chất thải rắn
và nước thải.
2. Kinh nghiệm quản lý và xử lý rác thải, nước
thải trên thế giới
Đối mặt với cảnh báo về cuộc khủng hoảng rác
thải, nước thải tồn cầu các quốc gia lớn trên thế
giới đã có những biện pháp quản lý và xử lý rác thải
phù hợp với điều kiện riêng.
Ở các nước phát triển tập trung chủ yếu tại
Châu Âu, cơng tác xử lý nước thải, rác thải đã
được phân tích khá nhiều trong các tài liệu chun
ngành. Trong phạm vi của bài viết chúng tơi muốn
tập trung phân tích sâu vào một số nước khu vực
Châu Á, để có thể dễ dàng học tập và áp dụng vào
Việt Nam, nơi có điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa,
tự nhiên tương đồng hơn.
2.1. Ở Nhật Bản, xử lý rác thải, nước thải được
thực hiện hiệu quả nhờ thực hiện thành cơng hệ
thống phân loại rác, phân tách xử lý từng nguồn
nước thải và tiếp theo là áp dụng cơng nghệ xử lý,
tái chế, tuần hồn hiện đại. Ví dụ như đối với rác
thải ở Tokyo, hệ thống phân loại rất phức tạp, tất cả
rác có thể đốt cháy được u cầu đựng vào túi đỏ,
rác khơng thể đốt cháy đựng trong túi màu xanh

dương trong khi giấy, nhựa, chai lọ, nhựa mềm,
báo, bìa, thủy tinh và pin đựng ở túi màu trắng.


Đối với nước thải, do nguồn nước mặt/nước
ngầm khan hiếm, nên 80% các doanh nghiệp và
các thành phố lớn của Nhật đều tái tuần hoàn nước
thải. Tỷ lệ cấp nước bổ sung chỉ chiếm khoảng 30%,
đa phần do bay hơi, thẩm thấu...
Đối với các chính sách pháp luật của Nhật về
công tác bảo vệ môi trường phải kể đến: Năm 1970
Luật Kiểm soát ô nhiễm (Luật số 138) đã được ban
hành. Trong phạm vi Luật này, Bộ Môi trường đã
thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng môi trường
nước mặt và nước ngầm, trong đó, có tiêu chuẩn về
môi trường chất lượng nước thải; các quy định ngặt
nghèo và chặt chẽ về yêu cầu bắt buộc phân loại
trong thu gom chất thải rắn (chất thải rắn). Những
tiêu chuẩn này được áp dụng cho tất cả các đối
tượng kể cả người dân, doanh nghiệp và trên khắp
các vùng miền kể cả nông thôn lẫn thành thị. Tuy
nhiên, chính quyền địa phương tại một số vùng đã
đề ra được những tiêu chuẩn chặt chẽ hơn cả tiêu
chuẩn quốc gia dành cho địa phương, ví dụ như
vùng vịnh Tokyo, Ise hay biển nội địa Seto...
Luật Môi trường cơ bản (ban hành tháng 11/1993),
quy định kiểm soát lượng nước thải từ nhà máy; giám
sát chất thải đầu ra. Giám sát liên tục đối với chất thải
đầu ra, giải pháp cho nước thải hộ gia đình trong duy
trì và xây dựng hệ thống thoát nước, trang thiết bị xử

lý nước thải khu vực nông thôn, bể tự hoại.
Giao trách nhiệm thực thi các công tác bảo vệ
môi trường cho Bộ trưởng Bộ Môi trường, tỉnh
trưởng và các thị trưởng của các thành phố. Chính
quyền cấp Trung ương và địa phương hợp tác chặt
chẽ nhằm bảo vệ chất lượng nước, xử lý triệt để
lượng chất thải rắn phát sinh tuân theo 3 Luật (Luật
Kiểm soát ô nhiễm, Luật Các biện pháp đặc biệt
bảo tồn môi trường biển nội địa Seto và Luật Các
biện pháp đặc biệt bảo tồn chất lượng nước hồ).
Bên cạnh các chính sách, pháp luật về kiểm soát
xử lý chất thải rắn, nước thải, Chính phủ và các cấp
chính quyền địa phương cũng như nhân dân Nhật
Bản rất nỗ lực trong việc làm sạch môi trường. Tại
Nhật, có hàng nghìn tổ chức phi Chính phủ hoạt
động trong lĩnh vực môi trường, hàng trăm tờ báo
chuyên về môi trường, về xử lý chất thải và bảo tồn
đa dạng sinh học. Khắp nơi trên đất nước Nhật
là các thông điệp về bảo vệ môi trường trên mọi

phương tiện thông tin đại chúng nhằm tác động
vào nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân Nhật
Bản về trách nhiệm đối với môi trường và cuộc
sống, vì thế hệ mai sau.
Một ví dụ khác cho công tác bảo vệ môi trường
được thực thi tốt ở Nhật là: Tại Việt Nam, năm 2019
mới bắt đầu đẩy mạnh tuyên truyền đối với chất
thải nhựa, tuy nhiên ở Nhật Bản, công tác này đã
được đẩy mạnh từ trước đó. Điển hình như, chai lọ
PET chưa trải qua quá trình lọc có thể được chuyển

thành sợi may quần áo, túi, thảm và áo mưa. Đồng
thời, Chính phủ đánh thuế rất cao cho các doanh
nghiệp sản xuất các sản phẩm từ nhựa mà không
có công nghệ tái chế, đồng thời miễn giảm nhiều
loại thuế khi thu mua và tái chế các sản phẩm nhựa
trong nước. Chính phủ Nhật cũng tuyên chiến và
nói không với việc nhập khẩu và tái chế các sản
phẩm như: Giấy, nhựa...
2.2. Tại Đông Nam Á, nếu nói về hiệu quả
trong công tác xử lý chất thải và nước thải phải kể
đến Singapore. Singapore là nước thành công lớn
nhất trong cả hai lĩnh vực là nước thải và rác thải,
nói riêng, hay là công tác bảo vệ môi trường, nói
chung. Bên cạnh việc phân loại rác tại nguồn từ các
hộ gia đình; các doanh nghiệp nhà máy đều tái sử
dụng phế liệu và tiết kiệm nguyên nhiên liệu đầu
vào. Nước thải sau khi được xử lý cục bộ tại nguồn
phát sinh, Chính phủ sẽ thu gom, xử lý tập trung
và kiểm soát trước khi đổ thải ra các thủy vực tiếp
nhận. Singapore cũng ban hành hàng loạt các văn
bản liên quan bảo vệ môi trường:
- Đạo luật về môi trường và sức khoẻ cộng đồng:
Đạo luật này bao hàm các vấn đề về tiếng ồn, vệ
sinh công cộng, chất thải rắn, nước thải, chất thải
độc hại và việc kiểm soát kinh doanh thực phẩm.
Để thi hành Đạo luật này có 14 văn bản hướng dẫn
thi hành.
- Đạo luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường:
Đạo luật này điều chỉnh các vấn đề liên quan đến
việc kiểm soát ô nhiễm môi trường và các hoạt

động có mục đích liên quan đến việc kiểm soát ô
nhiễm môi trường.
- Đạo luật về hệ thống cống tiêu thoát nước: Đạo
luật này được ban hành nhằm điều chỉnh việc xây
dựng, duy trì và cải tạo nâng cấp các hệ thống cống
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019

59


QUẢN LÝ RÁC THẢI, NƯỚC THẢI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC

rãnh và hệ thống tiêu thốt nước dưới mặt đất điều
chỉnh việc xử lý nước thải thương mại cũng như các
vấn đề liên quan đến các hoạt động nêu trên.
Để đảm bảo cho các đạo luật có hiệu lực thi
hành, Singapore đã đặt ra các biện pháp cưỡng chế
khác nhau cho các mức vi phạm pháp luật về mơi
trường như sau:
- Biện pháp xử lý hình sự: Pháp luật mơi trường
Singapore lấy chế tài hình sự là cơng cụ cơ bản để
thực thi, biện pháp này được áp dụng đối với người
bị kết án phạt tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối
với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo lao động
bắt buộc (chỉ áp dụng với những bị cáo đủ 16 tuổi
trở lên và đủ tiêu chuẩn y tế). Cụ thể là:
+ Hình phạt tiền: Đây là hình phạt phổ biến nhất
trong các đạo luật về mơi trường của Singapore,
phạt tiền được xem là cơng cụ hữu hiệu trong việc
tăng cường hiệu lực pháp luật về bảo vệ mơi trường

của Singapore. Theo các đạo luật ở Singapore thì có
nhiều mức độ phạt tiền khác nhau, tùy thuộc vào
các đạo luật khác nhau và mức độ nguy hiểm của
hành vi gây ra. Ví dụ trường hợp đổ rác nơi cơng
cộng, nếu bị Tòa án kết tội thì người vi phạm sẽ bị
phạt đến 10.000$ với vi phạm lần đầu và nếu tái
phạm sẽ bị phạt tới 20.000$.
Ngồi ra, các đạo luật về mơi trường của
Singapore cũng quy định phạt tiền một cách rất
linh hoạt đối với các vi phạm ít nghiêm trọng, đó
là việc cho phép người vi phạm trả một khoản tiền
thích hợp cho Bộ Mơi trường Singapore và vụ việc
sẽ tự kết thúc mà khơng phải đưa ra Tòa.

+ Biện pháp hành chính: Tuy pháp luật Singapore
xem chế tài hình sự là quan trọng nhất trong việc
bảo vệ mơi trường nói chung và xử lý nước thải, chất
thải nói riêng nhưng khơng vì thế mà xem nhẹ các
chế tài hành chính và dân sự bởi nếu chỉ riêng chế
tài hình sự thì khơng thể có hiệu quả. Khơng giống
như các chế tài hình sự và dân sự thường là các biện
pháp tức thời, các chế tài hành chính thường có
hiệu lực trong việc bảo đảm các biện pháp liên tục,
đặc biệt là các hoạt động gây ơ nhiễm.
Bên cạnh các chế tài về hình sự và hành chính,
các Đạo luật mơi trường Singapore cũng quy định
nhiều hình thức chế tài dân sự. Cụ thể như: u
cầu cá nhân gây ơ nhiễm phải nộp phạt, bồi thường
thiệt hại, chi phí và các khoản phí tổn mà cơ quan
có thẩm quyền phải chịu để làm sạch mơi trường...

nếu có các hành vi xả nước thải, rác thải và các chất
thải khác chưa đạt chuẩn ra mơi trường. Theo Điều
97 của Luật Bảo vệ mơi trường của Singapore thì
Chính phủ có thể thu giữ lại từ người sở hữu hoặc
quản lý tài sản các phí tổn và chi phí đã được sử
dụng trong q trình thực hiện bất kỳ nào đã được
quy định trong luật. Trong vòng 14 ngày theo quy
định, nếu chi phí này chưa được thanh tốn thì vụ
việc sẽ được đưa ra Tòa.

+ Hình phạt tù: Đây là chế tài nghiêm khắc nhất
nhằm trừng trị những người vi phạm ngoan cố, khi
mà các hành vi phạm tội có thể mang lại cho người
phạm tội những khoản lợi nhuận lớn nếu họ khơng
bị phát hiện và hình phạt tiền vẫn khơng ngăn chặn
được các hành vi mà người đó gây ra.

2.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia khác tại
Châu Á

+ Tạm giữ và tịch thu: Một số luật về mơi trường
quy định về việc tạm giữ và tịch thu các cơng cụ,
phương tiện được sử dụng vào việc phạm tội.

Hàn Quốc điển hình là thu phí đổ rác theo khối
lượng, khoản tiền thu được dùng để hỗ trợ kinh
phí cho việc chun chở rác và tái chế; phát triển
cơng nghệ xử lý nước thải tạo nên “Kỳ tích sơng
Hàn”, tái chế rác thải phục hồi bãi chơn lấp thành
các cơng viên cây xanh (Dream Park).


+ Lao động cải tạo bắt buộc: Là biện pháp mà
qua thực tiễn thực thi pháp luật về mơi trường ở
Singapore cho thấy đây là một biện pháp hữu hiệu
để ngăn chặn các vi phạm nhỏ, những người vi
60

phạm đã bị áp dụng hình phạt lao động cải tạo bắt
buộc ít khi lặp lại hành vi đã vi phạm, đặc biệt rất
ít người tái phạm. Tòa án sẽ ra quyết định bắt buộc
lao động cải tạo đối với người vi phạm, buộc họ
phải thực hiện cơng việc nói trên dưới sự giám sát
của các nhân viên giám sát, phù hợp với các quy
định của pháp luật

Số 143 - tháng 9/2019

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN

Trên thực tế, ngồi 02 nước làm tốt cơng tác bảo
vệ mơi trường như đã nêu ở trên, một số nước ở
Châu Á cũng đã làm tốt cơng tác xử lý nước thải và
rác thải như: Thái Lan, Hàn Quốc.

Đối với Thái Lan, các quy định về bảo vệ mơi


trường khá chặt chẽ, Luật Tăng cường và Bảo vệ
Chất lượng môi trường Quốc gia năm 1992 với 7
chương, 115 điều đều đề cập đến vấn đề nước thải

và rác thải. Điều đáng chú ý là Luật này dành hẳn
chương VII quy định về trách nhiệm hình sự gồm
14 tội liên quan đến bảo vệ môi trường và hình
phạt tương ứng cụ thể. Ngoài Luật Tăng cường
và Bảo vệ Chất lượng môi trường Quốc gia, các
quy định về bảo vệ môi trường khác của Thái Lan
cũng được quy định tại một số luật chuyên ngành
khác có liên quan. Ví dụ: Luật về Cảng, Luật Thủy
lợi công cộng có một số điều khoản liên quan đến
ngăn ngừa ô nhiễm nước. Luật Thủy sản, Luật
Khoáng sản và Luật Dầu khí có quy định về kiểm
soát ô nhiễm biển, chất thải nguy hại, xả nước
thải. Luật Nhà máy quy định về quản lý chất thải
công nghiệp.
Như vậy có thể nói, chế tài, công nghệ, luật pháp
xử lý chất thải và nước thải ở Châu Á khá đa dạng.
Có quốc gia mạnh về các quy định pháp luật, có
quốc gia mạnh về công nghệ hoặc các giải pháp
khắc phục ô nhiễm. Mỗi loại có những ưu điểm,
nhược điểm riêng và chỉ phù hợp với những điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nhất định. Do đó, tìm
ra một phương án phù hợp với điều kiện Việt Nam
không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, với những
đánh giá ở mức độ chung nhất, bài viết đưa ra một
số kiến nghị như là các bài học kinh nghiệm hướng
tới mục tiêu phát triển chung cho Việt Nam.

3. Kiến nghị các giải pháp quản lý và xử lý rác
thải, nước thải cho Việt Nam
Việt Nam là quốc gia đang phát triển có mật độ

dân số đứng thứ 3 ở Đông Nam Á, thứ 14 trên thế
giới. Tính đến tháng 5/2017, cả nước đã có 802 đô
thị với tỷ lệ đô thị hóa 36,6%. Tốc độ đô thị hóa cao
đang bộc lộ nhiều bất cập, không chỉ ảnh hưởng đến
kết cấu hạ tầng mà còn phát sinh các vấn đề môi
trường. Khối lượng chất thải rắn phát sinh đã tăng
nhanh chóng về số lượng, với thành phần ngày càng
phức tạp gây khó khăn cho công tác thu gom, xử lý.
Đối với chất thải rắn sinh hoạt đô thị, lượng phát
sinh phụ thuộc vào quy mô dân số đô thị. Ước tính
lượng chất thải rắn sinh hoạt ở các đô thị trên toàn
quốc tăng 10% - 16% mỗi năm, chiếm phần lớn trong
tổng lượng chất thải rắn phát sinh ở các đô thị. Chỉ số
phát sinh chất thải cũng gia tăng theo cấp độ đô thị,
đặc biệt là tại các đô thị lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí
Minh... Công tác quản lý, xử lý chất thải rắn ở nước
ta thời gian qua chưa được áp dụng theo phương
thức quản lý tổng hợp, các giải pháp giảm thiểu, tái
sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải
còn chưa thực sự được chú trọng. Điều này dẫn đến
khối lượng chất thải rắn phải chôn lấp cao, tại một số
khu vực, chất thải chôn lấp ở các bãi chôn lấp tạm, lộ
thiên, đã và đang là nguồn gây ô nhiễm môi trường,
ảnh hưởng đến sức khỏe, hoạt động sản xuất của con
người. Việc phân loại tại nguồn mới thực hiện thí
điểm, chưa được áp dụng rộng rãi. Hoạt động tái chế
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019

61



QUẢN LÝ RÁC THẢI, NƯỚC THẢI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC

rác thải vẫn còn nhỏ lẻ, phần lớn mang tính tự phát,
chưa được quản lý và kiểm sốt chặt chẽ nên có nguy
cơ gây ơ nhiễm mơi trường rất cao.
Tỷ lệ xử lý chất thải rắn đơ thị cũng chưa đáp
ứng u cầu thực tế. Đến tháng 11 năm 2016, cả
nước có khoảng 35 nhà máy xử lý chất thải rắn tập
trung tại các đơ thị đi vào vận hành. Phần lớn chất
thải rắn thơng thường vẫn được đổ thải và chơn lấp
tại các bãi chơn lấp.
Cơng tác quản lý nước thải đang nhận được sự
quan tâm lớn của cộng đồng. Các nguồn phát sinh
nước thải ngày càng đa dạng với lượng nước thải
phát sinh ngày càng nhiều đang đặt ra những thách
thức to lớn cho cơng tác quản lý nước thải. Trong
đó, một số loại hình nước thải chính phải kể đến là
nước thải sinh hoạt, nước thải cơng nghiệp, nước
thải y tế và một số loại hình nước thải khác như
nước thải làng nghề, nước thải nơng nghiệp... Tùy
theo khu vực, vùng miền mà tỷ lệ nước thải phát
sinh từ các nguồn là khác nhau. Mặc dù việc thu
gom, xử lý nước thải đã được quan tâm thực hiện
và bước đầu đạt được những kết quả nhất định,
song, vẫn còn nhiều khó khăn để quản lý hiệu quả
các loại hình nước thải.
Những vấn đề trên đặt ra thách thức khơng nhỏ
cho các nhà hoạch định và thực thi các chính sách
quản lý tài ngun và bảo vệ mơi trường, các doanh

nghiệp cũng như người dân trong giải quyết hài hòa
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ mơi
trường nhằm hướng tới phát triển bền vững. Vì
vậy, quản lý chất thải ln là một trong những nội
dung trọng tâm trong cơng tác quản lý mơi trường
và nhận được rất nhiều sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước. Chính phủ đã có nhiều biện pháp, đầu
tiên phải kể đến việc ban hành, sửa đổi hệ thống
chính sách pháp luật: Luật Bảo vệ mơi trường năm
2014; Chiến lược bảo vệ mơi trường quốc gia đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược
quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm
2025 và tầm nhìn đến năm 2050 và các văn bản
dưới luật như Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày
24/4/2015 của Chính phủ phê duyệt về quản lý chất
thải và các Thơng tư hướng dẫn; Luật Tài ngun
nước năm 2012; Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về
thốt nước và xử lý nước thải...
62

Số 143 - tháng 9/2019

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN

Vấn đề quy hoạch xử lý chất thải theo vùng đã
được triển khai đối với loại hình chất thải rắn và chất
thải nguy hại. Ở cấp địa phương, hầu hết các tỉnh,
thành phố đều đã lập và phê duyệt quy hoạch quản
lý chất thải rắn của địa phương mình, đây là một
bước tiến lớn so với giai đoạn trước đó. Trên cơ sở

quy hoạch tổng thể quản lý chất thải rắn của các địa
phương, rất nhiều chương trình, dự án về thu gom,
xử lý chất thải đã được triển khai, đem lại hiệu quả
khá tốt cho cơng tác quản lý chất thải tại địa phương.
Cụ thể: Năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã
phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản
lý tổng hợp chất thải rắn theo Quyết định số 419/
QĐ-TTg. Tính đến tháng 12/2018 Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt được Quy hoạch xây dựng
khu xử lý chất thải rắn của 4 vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ, miền Trung, phía Nam và vùng đồng
bằng sơng Cửu Long, với 8 khu xử lý chất thải rắn
liên vùng, liên tỉnh.
Đối với nước thải, đã phê duyệt hàng loạt các
quy hoạch hệ thống thốt nước và xử lý nước thải
tại các vùng kinh tế trọng điểm: Quyết định số
1942/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Quy hoạch hệ thống thốt nước và xử lý nước thải
khu vực dân cư, khu cơng nghiệp thuộc lưu vực
sơng Đồng Nai đến năm 2030; Quyết định số 681/
QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy
hoạch hệ thống thốt nước và xử lý nước thải khu
vực dân cư, khu cơng nghiệp thuộc lưu vực sơng
Nhuệ - sơng Đáy đến năm 2030; Quyết định số
228/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
quy hoạch hệ thống thốt nước và xử lý nước thải
khu vực dân cư, khu cơng nghiệp thuộc lưu vực
sơng Cầu đến năm 2030...
Ngồi ra, hàng loạt các chính sách về tài chính,
cơng nghệ để nâng cao hiệu quả trong cơng tác

quản lý và xử lý nước thải. Tuy nhiên, hệ thống văn
bản hiện nay vẫn chưa đầy đủ, còn chồng chéo và
chưa được thực thi triệt để.
Có thể nói, cơng tác quản lý chất thải tại Việt
Nam còn gặp nhiều vướng mắc. Qua học hỏi kinh
nghiệm thực thi các chính sách cũng như thực thi
của các nước trên thế giới, nhóm tác giả có một số
gợi mở giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác này
như sau:


Thứ nhất, tiến hành ngay việc phân loại tại
nguồn đối với tất cả các loại chất thải: nước thải,
khí thải, chất thải rắn. Có các giải pháp công nghệ
phù hợp đối với từng loại hình chất thải, nước thải
tập trung. Nên xử lý theo từng nhóm ngành công
nghiệp, khu dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi...).
Sau khi xử lý cục bộ tiếp tục xử lý thứ cấp vì việc
tập trung nguồn thải sẽ giúp cho công tác quản lý
đầu ra dễ thực hiện hơn.
Thứ hai, nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ môi trường bảo đảm
thống nhất, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi
trường. Ban hành các văn bản xử phạt với các
chế tài cụ thể, trong đó chỉ rõ cơ quan chịu trách
nhiệm thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, quán triệt và
triển khai các nội dung của Luật vào thực tiễn địa
phương, đặc biệt là những nội dung mới. Kiện toàn
tổ chức và tăng cường năng lực cho các cơ quan

chuyên môn về bảo vệ môi trường tại địa phương;
chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tuyển
chọn cán bộ có chuyên môn phù hợp với yêu cầu
của công tác quản lý môi trường.
Thứ ba, tăng cường đầu tư cho công nghệ xử
lý môi trường, tìm kiếm các công nghệ phù hợp
với điều kiện tự nhiên và xã hội của Việt Nam; ưu
tiên các công nghệ đã được áp dụng tại các nước
nêu trên; ưu tiên công nghệ xanh, sạch, tái chế phế
liệu. Hợp tác với các tổ chức nghiên cứu khoa học ở
nước ngoài đề xuất hỗ trợ các nghiên cứu phù hợp
với Việt Nam.
Ngoài ra, kiến nghị về công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát về môi trường; rà soát, khoanh vùng
các đối tượng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường,
rủi ro xảy ra sự cố môi trường và có các biện pháp
kiểm soát chặt chẽ hoạt động xả thải, phòng ngừa
các sự cố môi trường bằng các biện pháp kỹ thuật
– công nghệ phù hợp; xử lý dứt điểm các cơ sở gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; xây dựng năng
lực ứng phó với sự cố môi trường, các vụ việc gây ô
nhiễm môi trường.
4. Kết luận
Trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với
tình trạng môi trường ô nhiễm do rác và nước

thải và nhiều quốc gia tập trung cho mục tiêu tăng
trưởng kinh tế mà chấp nhận hy sinh môi trường
sống, các nước đang phát triển thường có hệ thống
quản lý chất thải không đầy đủ do thiếu nguồn lực

tài chính, nhận thức yếu, hệ thống quản trị kém
hiệu quả và đôi khi có các ứng dụng giải pháp công
nghệ không phù hợp.
Trong số các nước phát triển, Nhật Bản nổi lên
như một trong số các quốc gia coi trọng bảo vệ môi
trường vì sự nghiệp phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, Singapore cũng được xem là một
hình mẫu về tăng trưởng bền vững đi đôi với bảo
vệ môi trường, xử lý tốt vấn đề rác thải; Hàn Quốc
và Thái Lan với các chương trình có sự hỗ trợ của
Chính phủ về tái chế chất thải nên đã tương đối
thành công trong công tác bảo vệ môi trường.
Chính phủ Việt Nam trong những năm gần đây
đã có những bước tiến thành công trong công tác
bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững.
Công tác quản lý chất thải rắn nên tập trung vào
lựa chọn mô hình quản lý và công nghệ xử lý chất
thải rắn sinh hoạt cho phù hợp dựa vào việc học
hỏi một số vấn đề về các kinh nghiệm các nước.
Đồng thời, Việt Nam cần đánh giá ưu điểm cũng
như tồn tại, hạn chế của các mô hình công nghệ xử
lý chất thải rắn hiện nay tại Việt Nam; các đề xuất,
kiến nghị và giải pháp để tăng cường công tác quản
lý chất thải rắn sinh hoạt trong thời gian tới cần
tiếp tục thực hiện đồng bộ các biện pháp: Phân loại
chất thải rắn tại nguồn, tái sử dụng nước thải, xây
dựng chính sách môi trường nhất quán từ trung
ương đến địa phương.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh: Quản lý
môi trường cho sự phát triển bền vững, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005;
2.

Urban Enrironmental Managenment
Guidelines Thailand, 2014;

3. Localising Agenda 21 - Việt Nam,
Action Planning for Sustainable Urban
Development;
4. WB, Đánh giá hoạt động quản lý nước thải
đô thị tại Việt Nam, Hà Nội, 2013.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019

63



×