Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.47 KB, 6 trang )

Miền Trung - Tây Ngun

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT MÚA CỦA NGƯỜI TÀ ƠI
? TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

*

1. Đặt vấn đề
Di sản múa dân gian là tài sản vơ giá của người
Tà Ơi, là sợi dây gắn kết cộng đồng là cốt lõi của bản
sắc văn hóa dân tộc. Chính trong lao động sáng tạo
cùng với lối ứng xử đẹp của con người với con người,
của con người với mơi trường tự nhiên đã tạo nên
loại hình nghệ thuật diễn xướng độc đáo, chứa đựng
những nét đặc trưng riêng có của người Tà Ơi.
Người Tà Ơi cho rằng múa là một bộ phận thiết
yếu trong đời sống văn hóa tinh thần của họ, nó
khơng chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn
liền với tín ngưỡng, đời sống tâm linh, là phương tiện
để tiếp xúc với thế giới siêu nhiên.
Trong nhạc lễ múa, khi vị chủ lễ làm phép xin thần
linh, ma quỷ về dự lễ, chứng giám cho lòng thành của
dân làng thì hòa chung với tiếng trống, tiếng cồng
chiêng là sự cổ vũ của dân làng, những chàng trai,
cơ gái nhảy múa xung quanh sân nhà Rơng tạo nên
khơng khí đầy nhiệt huyết, đầy sức sống. Tất cả hòa
vào nhau tạo thành một bản nhạc rộn ràng, đầy lạc
quan, báo hiệu những điều tốt đẹp bắt đầu. Thơng
qua múa truyền thống mà tinh thần dân tộc được
nâng cao, ý thức đồn kết như được tiếp nối tạo nên
sức mạnh tồn diện của dân tộc Tà Ơi. Chính vì những


lẽ đó mà nghệ thuật múa của người Tà Ơi có những
đặc điểm sâu sắc và riêng biệt so với các dân tộc thiểu
số khác ở nước ta.
2. Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ơi
2.1. Các điệu múa truyền thống
Trước đây, trong cơng trình nghiên cứu, chúng
tơi đã thống kê ra được 21 điệu múa với 3 nội dung:
múa trong lao động có 13 điệu múa, múa trong sinh
hoạt có 4 điệu múa và múa trong tín ngưỡng có 4
*

Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Thừa Thiên Huế.

30

Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

điệu múa.1 Những điệu múa đều mang tính phổ biến.
Chúng tơi đã sưu tầm và ghi chép được thêm 7 điệu
múa cổ mà chỉ có những người già Tà Ơi còn nhớ.
- Điệu Azưng Radc: Xuất hiện trong các đám
tiệc như đâm trâu, đám cưới... phụ họa phần diễn
tả cho các điệu hò, điệu hát. Trong lễ đâm trâu, khi
con trâu được cột vào cây nêu, trai gái, già trẻ đi xung
quanh con trâu vừa múa, vừa hát, vừa đánh trống,
thanh la, cồng chiêng. Khi biểu diễn con gái đi trước
hát và múa, con trai đi sau vừa đệm nhạc, vừa hát. Ở

sân khấu hiện đại thì điệu múa này lại mang ý nghĩa
khác đó là phản ánh sự đúng sai trong mối quan hệ
của hai làng kết nghĩa.
- Điệu Azưng zêl: Trong đám cưới, mọi người tập
trung thành vòng tròn hát múa những bài vui tươi
cầu chúc cho đơi vợ chồng mới cưới được hạnh phúc
dài lâu. Điệu này vừa nhún nhảy vừa vỗ tay theo nhịp
người hát.
- Điệu Xía Cu múi: Dùng trong đám ma, người ta đi
chung quanh nhà để quan tài, vừa đi, vừa đánh trống,
thanh la vừa hát điệu dân ca Ra rọi và múa. Điệu múa
này thường khơng sơi nổi, người múa đi chậm chạp,
nhích từng bước nhẹ nhàng tay bng xi, hai bàn


Miền Trung - Tây Ngun

tay xòe ra hai bên.
- Điệu Azưng Curu: Điệu múa đồng bóng xuất
hiện trong lúc cầu bóng hộ về nhập. Khi bóng hộ về
nhập vào người nào đó, người đó đứng dậy vung tay,
vung chân quay qua, quay về, quay lui, quay lại người
bóng đứng ở giữa múa, xung quanh có vài người hầu
bóng vừa đi theo nhịp trống và tiếng thanh la, khèn
bè hòa vào. Điệu này người múa khơng có hát hò mà
chỉ có người đứng phía sau tường hoặc vách nhà hát,
họ hát theo điệu Câmprưng (âm ngang).
- Múa hội mùa: Được biên đạo múa theo 5 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Người múa tay cầm rựa, lưng đeo
gùi, nam đi trước, nữ đi sau họ múa theo động tác

phát rẫy.
+ Giai đoạn 2: Cảnh đốt rẫy, nam tay cầm rìu, rựa,
bên hơng đeo gùi nhỏ để bỏ các dụng cụ lao động,
còn nữ múa động tác xúc cá dưới suối để lên nấu ăn
cho chồng.
+ Giai đoạn 3: Thao tác trỉa lúa, động tác này cả
nam và nữ đều múa, con trai cầm gậy chọc lỗ, nữ cầm
lúa trỉa thành hàng đi sau.
+ Giai đoạn 4: Thao tác làm cỏ lúa, người múa chủ
yếu là nữ, cầm cuốc nhỏ làm cỏ còn nam giới lại đóng
vai đi săn thú quanh rẫy.
+ Giai đoạn 5: Thao tác tuốt lúa, chỉ có nữ tham gia
múa, hơng đeo giỏ để đựng hạt lúa, mọi người dàn
thành hàng ngang, tay để ngang hơng, tuốt nhẹ lúa
rồi bỏ vào giỏ.
- Điệu múa Tong: Hay còn gọi là múa giữ rẫy, nam
giới dang tay rộng chạy tới, chạy lui nhiều lần và sẽ
tưởng tượng cơng việc đang đuổi thú dữ, bảo vệ
nương rẫy. Khi múa phải cầm theo giáo, atút, crờlơng
tirỉa và kèm theo những tiếng hú thất thanh. Còn nữ
giới thì nhún nhảy theo nhịp điệu đuổi thú rồi hòa
chung vào cùng với tốp nam để thể hiện một ý chí
tập thể được bền chặt, tức là cầu mong có một mùa
màng bội thu.
- Điệu Vỗ Kuun giải chiến: Điệu múa này bắt đầu
là một cơ gái tên Căn Đơi Ra Dư xuất hiện trước sân
với điệu bộ xúc cá, 5 động tác, 3 nhịp/động tác. Có
anh chàng nhà nghèo tên là Cu Pỏa vừa đi vừa múa,
đơi mắt quan sát xung quanh với điệu bộ săn thú. Hai
người quấn qt điệu múa nhẹ nhàng với nhạc khèn

bè. Múa trao vòng cầu hơn cho cơ gái. Cơ gái cầm
chiếc vòng được trao rồi mừng rỡ múa.

Cùng lúc đó bà mẹ của Căn Đơi Ra Dư xuất hiện
và ném chiếc vòng trên tay của con gái đi. Anh chàng
nghèo đơi mắt ngạc nhiên và lo lắng. Đúng lúc đó
anh chàng nhà giàu tên là A Rơn vừa tới vừa múa
khoe khoang, trao vòng bạc cho bà mẹ cơ gái, mặt bà
mẹ phấn khởi đưa vòng bạc cho con gái, cơ gái khơng
nhận, bất chợt cơ gái chạy tới ơm anh chàng nghèo,
bà mẹ lơi cơ gái ra.
Nhạc cồng chiêng nổi lên với điệu nhạc Rarưp, hai
chàng trai giao chiến bằng kiếm và khiêng, bà mẹ can
khơng được.
Cồng chiêng chuyển nhịp Rarưp sang điệu Palư,
ơng Vỗ Kuun đi tới vừa đi vừa hát điệu Tăngi, mọi
người đều đứng im, bà mẹ chắp tay lên ngực, cơ gái
cúi mặt ngồi xuống, đúng một ngân Tăngi vừa xong,
Vỗ Kuun liền hát điệu Cà lơi và cầm tay cơ gái kéo lên
và đưa tới cho anh chàng nhà nghèo, ơng Vỗ Kuun
đứng giữa mẹ cơ gái và anh chàng giàu có bắt đầu
múa Palư điệu Curu 2 vòng, tất cả các loại nhạc nổi
lên, mọi người xếp hình chữ U, cơ gái đứng ngồi
nghiêng đầu vào trong ơm lấy anh chàng nhà nghèo,
Vỗ Kuun cầm tay mụ già và anh chàng nhà giàu giơ
lên cao chào khán giả.
Về nguồn gốc của điệu múa này và nhân vật Vỗ
Kuun thì họ có truyện kể như sau: “Ngày xưa khi người
Tà Ơi mới hình thành và đi tìm ra được nhiều vùng đất
mới để ở thì họ chia ra làm thành nhiều làng với các tên

gọi như A Vao, A Vương, Phuang... tất cả các làng này
đều ở hai bên bờ của con suối Târ Renh.
Ở dòng suối Târ Renh đó, ai ai cũng biết ơng Vỗ
Kuun, ơng thật đáng trân trọng bởi tài trí của mình, ơng
khơng ích kỷ mà ln ln đem tài trí của mình ra để
giúp đỡ gia đình và làng bản. Ơng hát alý rất giỏi, nhờ
đó mà cuộc sống làng bản quanh suối Târ Renh có cuộc
sống n bình.
Lúc đầu, người Tà Ơi có rất nhiều phong tục lạc hậu,
ơng Vỗ Kuun là người cứng rắn dám chống lại các ý
kiến của ng Co (thần Núi), ng Đăq (thần Nước)
khiến cho các ng này khơng còn đòi ăn trâu, ăn bò
hằng năm nữa, trong lao động ơng là người chắc chắn,
những cây cao to chỉ một mình ơng đốt sạch, đào sạch
gốc, dân làng thấy vậy mà bắt chước nên rẫy của họ
nhà nào cũng được mùa.
Có những lần giữa các làng bên kia núi Ka Lưi sang
cướp bóc hoặc chặn đồn người đi trao đổi hàng hóa,
ơng Vỗ Kuun biết chuyện liền đi đến đánh nhau với

Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

31


Miền Trung - Tây Ngun


chúng làm cho bọn chúng trở thành người lương thiện.
Một lần nọ, giữa hai làng A Ka và Ka Lưi có chuyện
xích mích lớn lắm khơng làng nào chịu thua, việc diễn
ra chỉ vì các trai làng của làng A Ka đi chơi về ngang qua
rẫy của làng Ka Lưi thấy mía lên cao, dài đốt ngon lắm,
họ liền bẻ vài cây để ăn, trong lúc đang ăn thì bị người
của làng Ka Lưi bắt được, họ bỏ chạy cũng khơng được,
nói láo cũng khơng xong nên trai làng A Ka bị phạt vạ
nặng lắm.
Già làng Ka Lưi tính ra sự mất mát nhiều mía thì phải
đền gấp nhiều lần, cả trăm rẫy bắp cũng khơng đủ, phải
đền thêm cả trâu, bò nữa để họ cúng ng kẻo khơng sợ
ng bắt vạ. Sự việc đó đã làm cho trai làng A Ka khiếp
sợ, họ về báo với già làng của mình thì chẳng giải quyết
được việc gì mà lại thêm bị la mắng. Cả đồn trai làng A
Ka liền tìm đến ơng Vỗ Kuun để nhờ vả.
Khi gặp được ơng Vỗ Kuun rồi cả bọn mừng lắm,
chúng kể lại sự việc và cầu xin ơng Vỗ Kuun cứu giúp. Vỗ
Kuun khơng nói gì cả, im lặng đi về hướng làng Ka Lưi,
Vỗ Kuun cầm chiếc khèn bè lên thổi, ơng thổi lúc đầu thì
chẳng ai để ý, họ vẫn cãi cọ nhau rồi đòi đền, đòi phạt rồi
dần dần tiếng khèn inh ỏi len lỏi vào tai từng người. Họ
như có bùa mê làm mê hoặc, cả làng Ka Lưi dừng việc,
dừng tay để nghe tiếng khèn. Điệu khèn bè của ơng Vỗ
Kuun rất thơng thạo lòng người, biết ai buồn, biết ai vui
mà thổi vào lòng mọi người và được nhiều người u
thích điệu khèn này, họ như lương thiện hẳn lên qn đi
việc bắt người làng A Ka nộp phạt. Nhờ có tiếng khèn đó
mà hầu khắp các bản làng Tà Ơi đều biết đến Vỗ Kuun.
Ngày nay, cứ mỗi lần có lễ hội, tiếng khèn lại cất lên

để tưởng nhớ Vỗ Kuun người đã bày cho dân làng biết
làm khèn và các điệu khèn để thổi và họ hay nói:
Vỗ Kuun đi đâu người dân theo đó.
Vỗ Kuun khéo nói, giỏi làm”.2
Bên cạnh đó trong kho tàng văn hóa dân gian Tà
Ơi nhóm người Pacơ đang lưu giữ trong mình các
điệu múa: Pâr chiềng kòong, Pa dưưn kuru, Pa dưưn
Tâng kin, Choan đung, Xịa tì rỉa. Các điệu múa này có
phần giống với các điệu múa trong lễ đâm trâu, lễ cầu
mùa của người Tà Ơi mà thơi.
2.2. Các động tác khi múa của người Tà Ơi
Khi khảo sát các điệu múa cơ bản của người Tà Ơi,
chúngtơithốngkêcócảthảy22độngtáckhácnhaugồm:
+ Động tác tay nữ phần hạ cùng chiều: Hai bàn tay
cùng úp phần hạ khuỷu tay tròn. Đóng và mở theo

32

Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

nhịp 2/4, tiết tấu bình thường, chân qua phải hoặc
qua trái, di chuyển ngang.
+ Động tác tay phần hạ đóng mở: Một bàn tay úp,
một bàn tay mở, chuyển ln phiên theo nhịp 2/4, tiết
tấu bình thường chân qua phải hoặc qua trái. Khuỷu
tay tròn, di chuyển ngang.
+ Động tác tay phần hạ trước và sau: Chuyển ra

trước, vuốt về sau. Chân tiến lên 2 bước, lui 2 bước.
Cuộn cổ tay ra sau rồi đưa ra trước.
+ Động tác tay phần thượng: Hai tay trên cao, lòng
bàn tay hướng lên trời, các ngón tay kẹp chặt, khuỷu
tay hướng ra phía trước, tròn khuỷu tay. Di chuyển
theo tiết tấu 2/4 vừa, mắt nhìn thẳng, qua phải hoặc
qua trái, tiết tấu 2/4.
+ Động tác tay thượng: Dựng thẳng bàn tay lên
cao, hướng ra phía trước, rung bàn tay kéo xuống
theo nhịp chân - ngang ngực. Động tác lặp lại theo
chu kỳ tròn. Di chuyển ngang hoặc tiến lên phía
trước. Nhịp tiết tấu 2/4.
+ Động tác tay hạ: Hai bàn tay ở chiều chúc xuống
đất, cuộn bàn tay nghiêng qua phải, chân trái bước,
nghiêng qua trái thì chân phải bước. Di chuyển hướng
thẳng, tiết tấu 2/4.
+ Động tác tay trung 1: Hai tay chắp bên hơng,
cánh tay khuỷu sang hai bên. Di chuyển ngang, tiết
tấu 2/4.
+ Động tác tay trung 2: Một tay chống cằm, một
tay đỡ cùi chỏ - thể hiện sự buồn khổ. Di chuyển
ngang, qua phải hoặc qua trái, tiết tấu 2/4.
+ Động tác tay trung 3: Hai tay chắp vào bên má
phải hoặc má trái - thể hiện sự buồn khổ. Di chuyển
ngang qua phải hoặc qua trái, tiết tấu 2/4.
+ Động tác tay trung 4: Hai tay bắt chéo nhau
chắp trước ngực, tâm trạng buồn, di chuyển theo tiết
tấu 2/4.



Miền Trung - Tây Ngun

+ Động tác tay thượng: Hai tay ơm đầu - thể hiện
sự buồn khổ. Di chuyển ngang qua phải hoặc qua trái,
tiết tấu 2/4.
+ Động tác tay hạ: Hai tay chắp sau lưng. Hai bàn
tay hướng lên trên, mu bàn tay này đặt lên lòng bàn
tay kia hướng lên trên. Dáng người chúc về phía trước,
mặt nhìn ngang phải hoặc trái, tiết tấu 2/4.
+ Động tác tay có cầm đạo cụ đối với nữ:
* Cầm quạt.
* Cầm lá.
* Cầm lá đựng thức ăn.
* Cầm Xaar (xập xõa).
+ Động tác chân đi kiễng gót: Di chuyển ngang
tiết tấu 2/4 phải hoặc trái, di chuyển tiến tiết tấu 2/4.
+ Động tác pool thấp đối với nam: Động tác di
chuyển thẳng hoặc trước mặt. Chân phải thì tay phải,
động tác sát đất. Vòng chấp càng hẹp khi sát đất thì
chuyển động tác. Nhanh nhẹn, vui tươi rộn rã (cách
mặt đất 30 cm).
+ Động tác pool nam cao: Động tác di chuyển
thẳng hướng trước mặt, chân trái thì tay phải và ngược
lại. Động tác ở phần trung (cách mặt đất khoảng 50
cm). Động tác nhanh nhẹn, vui tươi rộn rã.
+ Động tác ẻo nam: Di chuyển hướng thẳng trước
mặt. Động tác vui tươi, tinh nghịch, mềm mại uyển
chuyển, tiết tấu 2/4.
+ Động tác chân của nam: Di chuyển ngang tiết
tấu 2/4 nhanh nhẹn, dứt khốt. Di chuyển về phía

trước động tác đi dứt khốt tiết tấu 2/4. Di chuyển
phần thấp hơi cúi gập đầu gối, di chuyển phần trung
hơi khom mình, di chuyển phần cao chân hơi đá về
phía trước.

+ Động tác đánh trống của nam: Người đổ về phía
trước, chân khuỵu, di chuyển thấp trung bình, vừa đi
vừa đánh trống theo dàn cồng chiêng. Nhạc khèn, tù
và, hò hú diễn tấu từ 1 người đến 2 người.
+ Động tác đánh cồng nam: Người đổ về phía
trước, vai đeo cồng đánh bằng tay (nắm đấm, cũng
có lúc bằng dùi) vừa đánh vừa di chuyển thấp cùng
dàn nhạc.
+ Động tác đánh chiêng nam: Người đổ về phía
trước, vai trái đeo chiêng, đánh bằng dùi, vừa đánh
vừa di chuyển thấp, tay phải đánh, tay trái điều chỉnh
âm thanh trên mặt chiêng, âm thanh lúc vang, lúc
dừng theo trống với tiếng bùng, bục bục bục, bùng,
bục bục bục, bục bục bục, bùng.
+ Động tác múa giáo nam khi đâm trâu: Trước khi
đâm trâu, người cầm giáo múa theo dàn nhạc cồng
chiêng, tù và, trống, khèn, xập xõa, tingat. Nhún nhảy
theo tiết tấu nhanh nhẹn, dồn dập. Giáo vác trên vai,
lưỡi giáo hướng lên trời di chuyển theo hình vòng
tròn. Khi bắt đầu đâm trâu, người đâm cầm giáo, mũi
giáo hướng thẳng vào trâu, vòng tròn quanh con
trâu, lựa chọn hướng thích hợp để đâm trâu và đâm
trúng chỗ hiểm.
2.3. Âm nhạc trong nghệ thuật múa của người
Tà Ơi

Từ thời tiền sử âm nhạc và múa có mối quan hệ
hữu cơ, khơng thể chia cắt, chúng hỗ trợ nhau cùng
phát triển. Bản thân nội tại của mọi hoạt động múa
đã hàm chứa yếu tố tiết tấu nhịp điệu của âm nhạc
(múa theo nhịp, phách, tiết tấu) đến khi phát triển,
định hình hóa nghệ thuật múa thì vai trò của âm nhạc
trở nên thiết yếu. Nếu múa mà khơng có âm nhạc thì
vơ hồn, vơ cảm. Điều này càng thấy rõ vai trò của âm
nhạc trong múa dân gian. Trong tất cả các nội dung
múa của người Tà Ơi đều có âm nhạc, ngồi các loại
nhạc cụ như đã trình bày ở trên thì trong q trình
diễn tấu nhạc người diễn tấu cũng hòa đồng vào
khơng gian múa và động tác múa uyển chuyển, nhịp
nhàng, sinh động.
Đối với người Tà Ơi, âm nhạc dân gian là nhịp cầu
nối những cá thể lại với cộng đồng, nối cộng đồng
này với cộng đồng khác, nối con người với tất cả thần
linh trong trời đất.
Trong các tiến trình của lễ xin đất chơn nọc buộc
trâu, lễ khấn cầu mùa (Tà nêm azakonh) và đặc biệt
là lễ đâm trâu... vào đầu năm 1999, âm nhạc thường

Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

33



Miền Trung - Tây Ngun

được tấu lên theo thứ tự gồm các khúc sau:
 - Roong hêl tâm moi (mừng khách): tiết tấu nhanh,
vui tươi rộn ràng. Các thành viên sử dụng nhạc cụ đều
nằm trong đội hình múa đi vòng tròn theo nhịp trống.
- Palư tâm moi (vui cùng khách): tiết tấu khoan
thai hơn, như lời mời trân trọng cùng khách vui chơi,
ăn uống.
- Tặc ân toch tơr (thi đấu): dành cho người già đấu
lý với nhau bằng lời lẽ, người trẻ đấu với nhau bằng
tài năng, sức mạnh và sự khéo léo. 
- Đăng tâm moi vel cho ăt se (tiễn khách): vui vẻ,
mãn nguyện, lưu luyến, hẹn hò.
Cả 4 khúc nhạc trên được gộp lại đánh trong khi
tế lễ, khi vào hội và ln được kết hợp với nhảy múa
như một thể thống nhất. Mỗi cuộc lễ đều được tấu đi
tấu lại nhiều lần. Giai điệu mộc mạc, đơn sơ nhưng
tiết tấu chắc, ít biến hóa, tạo nên sự khỏe mạnh hùng
tráng, mặc dù tính chất hòa tấu mang nhiều nét
ngẫu hứng của từng cá nhân, giai điệu thơ sơ, dễ nhớ
được phụ họa khèn, tù và một cách tùy hứng, nghịch
ngợm cũng như tiếng hú hét của nhạc cơng và đội
múa. Đặc biệt trong lúc đâm trâu, khi ngọn lao của
già làng đâm trúng điểm quy định, có nghĩa là con
trâu sẽ phải gục chết thì tiết tấu được tăng lên, dồn
dập hơn, cường độ mạnh hơn, tiếng hú hét cũng nhặt
hơn theo nhịp chân nhảy múa khẩn trương dần theo

34


Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

đội hình di chuyển ngược kim đồng hồ với các điệu
múa cố định như za zả, pa dứt tiría, răm.
Biên chế đội nhạc gồm: 1 khèn, 2 trống, 2 cồng, 1
tù và, chng, lục lạc để cho ai chơi thì tùy thích.
Nhìn chung, âm nhạc của người Tà Ơi, nhạc hát
cũng như nhạc đàn mang đậm dấu ấn thiên nhiên và
cuộc sống bộ tộc: hoang sơ, đơn giản, mộc mạc, trữ
tình và trầm hùng. Tiết tấu khơng nhanh lắm nhưng
rộn ràng, ưa sử dụng loại nhịp chẵn có trọng âm rõ
ràng, ít biến hóa, chỉ thỉnh thoảng có đảo phách.
Có thể ngày xưa, trong khơng gian ngun sơ với
nhà sàn và bếp lửa hay bên bờ suối róc rách, trong
sự âm u hùng vĩ của núi rừng Trường Sơn, lời hát của
họ cất lên nghe rất huyền bí, đầy ma lực nhưng lại rất
thân thiết gần gũi. Họ hát mà như nói với nhau, như
nắm tay nhau kéo lại, như kể cho nhau chuyện ban
sáng, ban trưa, như nói về nhau chuyện ngày mai, nói
về niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc, khổ đau của cuộc
sống... từ đó âm nhạc của họ sinh thành nên cho đến
ngày hơm nay.3
Ngồi các loại nhạc cụ truyền thống được sử dụng
trong khi múa thì người Tà Ơi còn sử dụng các đạo
cụ khác như quạt, kiếm, khiên, cung tên, cây mía, rìu,
rựa… để phụ họa cho các động tác, các điệu múa

được thêm sinh động.
Nghệ thuật múa của người Tà Ơi từ ngồi đời đã


Miền Trung - Tây Ngun

được đưa vào trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình qua
những tác phẩm điêu khắc tượng nhà mồ, các hình
vẽ trên nhà Rơng, cột lễ đâm trâu. Đặc biệt trang trí
hoa văn trên vải dzèng người Tà Ơi đã thể hiện 2 hình
người đàn ơng múa và người đàn bà múa với tên gọi
Răm/Ngai răm/Ngai za zả.4
3. Kết luận
Điệu múa của người Tà Ơi mang nhiều yếu tố
hoang dã, khơng bị pha tạp các yếu tố văn hóa
ngoại lai. Các điệu múa được truyền từ đời này sang
đời khác thơng qua phương pháp truyền dạy trong
những lễ hội truyền thống. Mỗi thế hệ tiếp nhận đều
trân trọng, giữ gìn nghiêm túc phong cách thể hiện.
Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian mang
tính cộng đồng cao, nhiều màu sắc. Mỗi động tác
múa đều có những chủ đề nhất định, có thể diễn tả
hết được những cơng việc lao động sản xuất, được
chắt lọc từ chính cuộc sống lao động, sinh hoạt của
người Tà Ơi. Chính vì lẽ đó mà múa của người Tà Ơi
ngày càng có sức sống, tồn tại mãi mãi. Đây là nguồn
tư liệu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu truyền
thống văn hóa, lịch sử, phong tục tập qn của người
Tà Ơi.
Múa của người Tà Ơi được hình thành trên cơ sở

xã hội với nhiều yếu tố tâm linh, lao động, sản xuất,
sinh hoạt gia đình, dòng họ. Múa là sự kết hợp và kế
thừa của các loại hình nghệ thuật khác đó là âm nhạc,
dân ca, văn học dân gian, văn hóa dân gian, dân tộc
học, xã hội học, ngơn ngữ tạo hình... do vậy việc gìn
giữ và phát huy bảo tồn các điệu múa truyền thống
của người Tà Ơi là việc làm cần thiết khơng chỉ làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của người Tà Ơi
nói riêng mà còn của đồng bào các dân tộc thiểu số
trên đất nước Việt Nam nói chung.
Hàng năm mỗi khi cộng đồng Tà Ơi có lễ hội quan
trọng thì những điệu múa dân gian lại được phát huy.
Các cấp, các ban ngành đã và đang quan tâm bảo vệ,
tiếp tục duy trì các điệu múa truyền thống. Cụ thể là
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế
đã phối hợp với Phòng Văn hóa Thơng tin huyện A
Lưới đã tiến hành sưu tầm, nghiên cứu múa truyền
thống trong các lễ hội trên địa bàn người Tà Ơi cư trú
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc
truyền thống.
Ngành văn hóa đã cử các cán bộ đến từng thơn, xã
nơi tập trung nhiều đồng bào Tà Ơi sinh sống tại các
xã như A Ngo, Nhâm, Hồng Thái, A Đớt, A Rồng, trực

tiếp gặp các nghệ nhân để tiến hành khảo sát, thu
thập tư liệu và nghiên cứu các điệu múa truyền thống
của dân tộc Tà Ơi. Đây được coi là một trong những
biện pháp quan trọng góp phần bảo tồn nghệ thuật
múa cũng như các loại nhạc cụ, các thể loại dân ca.
Với nỗ lực bảo tồn và phát huy di sản múa truyền

thống của người Tà Ơi, Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch đã phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến
hành nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn, xuất bản các
cuốn sách có liên quan đến múa truyền thống của
người Tà Ơi; mời các nghệ nhân đến truyền dạy các
điệu múa truyền thống cho học sinh Trường Trung
học Văn hóa nghệ thuật Thừa Thiên Huế; phối hợp
với các xã có phong trào thực hành điệu múa truyền
thống, có nghệ nhân tâm huyết để đào tạo bài bản
cho thế hệ trẻ. Trong đó có hình thức lồng ghép
chương trình nghệ thuật trình diễn dân gian vào các
chương trình ngoại khóa ở các trường phổ thơng trên
địa bàn người Tà Ơi.5
T.N.K.P.

CHÚ THÍCH
Trần Nguyễn Khánh Phong, “Về việc phát huy các điệu
múa dân gian của người Tà Ơi”, Kỷ yếu Thơng báo Văn hóa
2009, (Hà Nội: Từ điển Bách khoa, 2010), 602-621. Có 21
điệu múa đó là múa đeo gùi, múa nhổ sắn, múa làm cỏ,
múa xúc cá, múa phát rẫy, múa bắn nỏ, múa giáo, múa đi
săn, múa chặt củi, múa trỉa lúa, múa dệt vải, múa giã gạo,
múa đẽo cột nhà, múa quạt cho khách, múa bưng nước
mời khách, múa mời rượu, múa múc nước suối, múa Ariêu
ada za zả, múa Sasai veel, múa adưn chốn paching dung,
múa ada koonh.
1

Trần Nguyễn Khánh Phong, Truyện cổ của người Pa Cơ
ở Thừa Thiên Huế, (Hà Nội, Khoa học Xã hội, 2015), 129, 130,

131.
2

Dương Bích Hà, “Âm nhạc trong lễ cầu mùa của người
Tà Ơi ở Thừa Thiên Huế”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 8/2000.
3

Trần Nguyễn Khánh Phong, “Phức hệ hoa văn trang trí
trên trang phục của người Tà Ơi”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 12
(258)/2005, 64.
4

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế, Cao
Chí Hải, Lý lịch di sản văn hóa phi vật thể múa truyền thống
trong lễ hội Aza Kooh của dân tộc Tà Ơi, huyện A Lưới, tỉnh
Thừa Thiên Huế. Huế, 10.2014. 50 trang.
5

Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

35



×