NGÀNH KINH TẾ
PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
TỈNH PHÚ YÊN
DEVELOP THE VALUE CHAIN OF WHITE LEG SHRIMP
IN PHU YEN PROVINCE
Đoàn Thị Nhiệm, Đoàn Thị Thu Hằng
Email:
Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hòa
Ngày nhận bài: 3/12/2017
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 28/4/2018
Ngày chấp nhận đăng: 28/6/2018
Tóm tắt
Tác giả tiến hành phỏng vấn trực tiếp 140 hộ nuôi, 3 thương lái và một nhà máy chế biến tôm thẻ chân
trắng của tỉnh Phú Yên. Sử dụng phương pháp chuỗi giá trị để phân tích đối tượng nuôi là tôm thẻ. Kết
quả nghiên cứu cho thấy: ngư dân là tác nhân tạo ra giá trị gia tăng cao nhất, giá trị gia tăng phụ thuộc
vào mức độ chế biến trước khi xuất khẩu, chất lượng tôm nuôi còn thấp nên thị trường xuất khẩu chưa
phong phú, sự liên kết trong chuỗi giữa người nuôi và đại lý cung cấp mang lại hiệu quả cho hai bên.
Nghiên cứu đề xuất các khuyến nghị để phát triển chuỗi giá trị tôm thẻ trong thời gian tới trên địa bàn
tỉnh Phú Yên.
Từ khóa: Chuỗi giá trị; phát triển chuỗi giá trị; tôm thẻ chân trắng; tỉnh Phú Yên.
Abstract
The author interviewed 140 households directly, 3 traders and a processing factory in Phu Yen province.
The research used the value chain method to analyze the value chain of the white leg shrimp. The
research results show that fishers are factors creating the highest value added, the value added depends
on the level of processing before being exported, the quality of shrimps is still low so the export market
has not been widen yet, the economic linkage between farmers and supplying agents is effective for
both parties. This study proposes some recomentdations for developing the value chain of white leg
shrimp in the coming time at Phu Yen province.
Keywords: The value chain; develop the value chain; the white leg shrimp; Phu Yen province.
1. GIỚI THIỆU
Phú Yên là tỉnh nằm ở khu vực Duyên hải Nam
Trung bộ, Phú Yên có trên 50 con sông lớn nhỏ,
trong đó có 3 con sông chính là: sông Kỳ Lộ, sông
Ba, sông Bàn Thạch cùng với nhiều vịnh, đầm ăn
sâu vào đất liền nên thuận lợi cho phát triển nuôi
trồng thủy sản, trong đó đặc biệt là nuôi tôm thẻ.
Năm 2016, diện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh
ở mức 2.600 ha, trong đó tôm thẻ chân trắng đạt
đến 1.737 ha, sản lượng tôm thẻ đạt 6.372 tấn
chiếm 62,9% sản lượng nuôi trồng toàn tỉnh. Tuy
nhiên, giá trị mà chúng mang lại chưa xứng tầm
khi giá trị sản xuất đạt 482 tỷ đồng (tính theo giá
so sánh năm 2010), chỉ chiếm 33,3% toàn giá trị
ngành nuôi trồng thủy sản của tỉnh [1]. Phát triển
ngành nuôi tôm thẻ gặp nhiều khó khăn: vì thiếu
Người phản biện: 1. TS. Nguyễn Minh Tuấn
2. PGS.TS. Nhâm Phong Tuân
việc liên kết của các bên tham gia với nhau, ngư
dân nuôi theo phương pháp truyền thống nên chất
lượng tôm nguyên liệu chưa cao. Nâng cao giá trị
và phát triển các liên kết trong chuỗi là vấn đề cần
thiết cho phát triển nghề nuôi tôm thẻ của Phú Yên
trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo hiểu biết của
tác giả hiện chưa có một nghiên cứu đánh giá cho
vấn đề trên, đó là lý do tác giả thực hiện nghiên
cứu này.
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá thực trạng,
phân tích chuỗi giá trị tôm thẻ chân trắng, từ đó
đề xuất các khuyến nghị để phát triển chúng trong
thời gian tới. Kết quả nghiên cứu cung cấp thông
tin giúp cho người nuôi, nhà máy chế biến đưa ra
quyết định sản xuất phù hợp.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chuỗi giá trị mô tả toàn bộ hoạt động cần thiết để
đưa một sản phẩm hay dịch vụ từ khái niệm đi
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 2(61).2018 59
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
qua các công đoạn khác nhau đưa đến người tiêu
dùng sau cùng và bố trí sau sử dụng [9]. Chuỗi
giá trị thể hiện tổng giá trị, bao gồm các hoạt động
giá trị và lợi nhuận. Hoạt động giá trị là hoạt động
đặc trưng về diện vật lý và công nghệ của doanh
nghiệp là bộ phận cấu thành để tạo ra sản phẩm
cho người mua. Lợi nhuận là phần chênh lệch
giữa tổng giá trị và tập hợp các chi phí cho việc
thực hiện các hoạt động giá trị [8].
Phân tích chuỗi giá trị đảm bảo xem xét toàn bộ
chu trình sản xuất, các mắt xích tham gia trong
chuỗi. Từ đó, giúp giải thích sự phân phối lợi ích
hay thu nhập của những người tham gia, dễ dàng
hơn cho đề xuất chính sách giúp các nhà sản xuất
gia tăng phần lợi ích của họ.
Phát triển chuỗi giá trị là nâng cao hoạt động giá
trị và lợi nhuận. Có thể thực hiện thông qua tăng
cường liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi,
giảm chi phí, tăng phần giá trị gia tăng hoặc thực
hiện đồng thời nhiều biện pháp trên.
Trong bài báo này, tác giả đánh giá chuỗi cung
của một sản phẩm trong ngành nông nghiệp.
Phân tích chuỗi cung là đánh giá đối tượng tham
gia chuỗi cung, quá trình vận chuyển và lưu giữ
các sản phẩm, quá trình tạo giá trị, quá trình trao
đổi thông tin. Những thành phần này sẽ tương tác
và tác động qua lại với nhau để kết nối tài nguyên
và sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng [5].
Như vậy, trong ngành nông nghiệp nói đến chuỗi
giá trị có vai trò của tài nguyên trong việc tạo ra
chuỗi giá trị.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU
NGHIÊN CỨU
Dữ liệu sơ cấp thu thập qua phỏng vấn trực tiếp
140 hộ nuôi, 3 thương lái và một nhà máy chế
biến đóng trên địa bàn tỉnh, số liệu thu thập tại 3
vùng có diện tích nuôi tôm thẻ lớn nhất của tỉnh
là huyện Đông Hòa, huyện Tuy An và thị xã Sông
Cầu. Với hình thức chọn mẫu phân tầng sau đó
chọn ngẫu nhiên thuận tiện. Mục đích phỏng vấn
để làm rõ các nội dung: kênh tiêu thụ, chuỗi giá
trị gia tăng. Số liệu thu thập vào vụ nuôi chính thu
hoạch từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2016. Dữ
liệu sơ cấp dùng để tính: giá trị và lợi nhuận trong
chuỗi giá trị.
Tác giả thu thập chuỗi giá trị trong công đoạn chế
biến là doanh nghiệp Bá Hải, đây là doanh nghiệp
chế biến tôm thẻ chân trắng duy nhất đóng trên
địa bàn tỉnh Phú Yên.
Dữ liệu thứ cấp thu thập từ Chi cục Thống kê Phú
Yên, Niên giám thống kê Phú Yên từ năm 2010
đến 2016, các dữ liệu sơ cấp gồm: quy mô diện
tích, sản lượng, giá trị nhằm đánh giá tổng quan
tình hình phát triển tôm thẻ chân trắng trong thời
gian nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu trong bài báo là phương
pháp định lượng: phân tích chuỗi giá trị sản phẩm
để: phân tích mức độ liên kết của các tác nhân trong
chuỗi, tính toán giá trị gia tăng của các thành phần
tham gia trong chuỗi giá trị. Thống kê mô tả các chỉ
tiêu đo lường đánh giá thực trạng phát triển.
Dữ liệu định lượng sau khi thu thập được kiểm tra,
làm sạch được tính toán trên phần mềm Excel.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Thực trạng phát triển sản xuất tôm thẻ
chân trắng tỉnh Phú Yên thời gian qua
Bên cạnh tôm hùm, tôm thẻ chân trắng là vật
nuôi chủ lực của nghề nuôi trồng thủy sản tỉnh
Phú Yên. Đối với hình thức nuôi hồ thì tôm thẻ
là vật nuôi chính. Bảng dữ liệu 1 cho thấy, tỷ lệ
diện tích nuôi tôm thẻ chiếm chủ yếu và dao động
quanh mức 70% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản
toàn tỉnh.
Bảng 1. Thực trạng phát triển tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh Phú Yên giai đoạn 2010-2016
Tiêu chí
Tăng bình
ĐVT
2010
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng diện tích nuôi của tỉnh
Ha
2.694
2.642
2.956
3.038
2.665
2.598
-0,60
Diện tích tôm thẻ
Ha
1.840
1.850
1.990
2.200
1.797
1.737
-0,96
Tỷ lệ diện tích tôm thẻ
Sản lượng
Giá trị sản lượng
quân (%)
%
68,3
70,0
67,3
72,4
67,4
66,9
-0,34
Tấn
6.726
7.535
7.442
7.806
6.085
6.372
-0,90
tỷ đồng
408
457
564
592
461
483
2,85
Nguồn: Chi cục Thống kê Phú Yên và Niên giám thống kê Phú Yên
(Giá trị sản lượng tính theo giá so sánh năm 2010)
60 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 2(61).2018
NGÀNH KINH TẾ
Trong giai đoạn 2010-2016, diện tích nuôi trồng
thủy sản của tỉnh có sự tăng, giảm không ổn
định, đi kèm với đó là diện tích nuôi tôm thẻ chân
trắng cũng biến động cùng chiều. Trong hai năm
2013 và 2014, diện tích nuôi tôm thẻ cao nhất
đạt 2.200 ha nhưng giảm mạnh vào hai năm
Sản lượng thu hoạch và giá trị sản lượng trong
thời gian qua biến động cùng với quy mô diện
tích. Năm 2015 là năm khó khăn nhất của ngư
dân. Tuy nhiên, giá trị đã tăng lên trong 6 năm qua
và tốc độ tăng là 2,85%/năm.
4.2. Phân tích chuỗi giá trị tôm thẻ tỉnh Phú Yên
sau đó. Lý do của sự suy giảm trên chính là tình
4.2.1. Sơ đồ và kênh phân phối
trạng nắng nóng kéo dài gây ra bệnh dịch trên vật
Điều tra thực tế vùng nuôi thời gian qua như sau:
chuỗi giá trị tôm thẻ chân trắng thực hiện qua hai
kênh chính đó là:
nuôi, nhiều hộ nuôi mất trắng đã dẫn đến tình trạng
phải bỏ hồ, chi phí nuôi tăng cao cũng là nguyên
nhân tạm ngừng sản xuất của ngư dân [3]. Tốc độ
tăng diện tích tôm thẻ bình quân trong 6 năm qua
giảm 0,96% đã cho thấy khó khăn nhất định của
nghề này.
Kênh 1: Đầu vào - Người nuôi - Thương lái - Nhà
máy chế biến
Kênh 2: Đầu vào - Người nuôi - Bán buôn - Bán lẻ
(chợ) - Người tiêu dùng
Hình 1. Sơ đồ chuỗi giá trị tôm thẻ chân trắng tỉnh Phú Yên giai đoạn 2010-2016
Hình 1 cho thấy, phần lớn sản lượng bán qua
kênh 1 chiếm khoảng 95%. Kênh 2 có số lượng
tiêu thụ nhỏ, chủ yếu tiêu thụ khi các hộ thu hoạch
sản lượng ít, các hồ thu vét sản phẩm.
trường nuôi ngày càng ô nhiễm đã làm tăng rủi ro
của hoạt động nuôi tôm trên địa bàn tỉnh.
4.2.2. Phân tích hoạt động của các tác nhân
trong chuỗi
ĐVT: ngàn đồng/kg
Dựa vào sơ đồ chuỗi giá trị cho thấy có ba tác nhân
tham gia vào chuỗi, tác giả sẽ phân tích các bên
tạo nên dòng sản phẩm của tôm thẻ chân trắng.
Người nuôi
Bảng 2. Chuỗi giá trị của người nuôi
Chi tiết các khoản mục
Số tiền
Doanh thu
110
Thu nhập hỗn hợp
35
Tổng chi phí
75
Chi tiết khoản mục chi phí
Họ sử dụng đất đai và các yếu tố đầu vào để tạo
ra sản phẩm có giá trị cung cấp cho thị trường.
Người nuôi là tác nhân quan trọng, thu nhập họ
mang về là yếu tố quyết định để họ tiếp tục đầu tư
hay không, giá trị họ tạo ra là một phần trong chuỗi
giá trị. Qua nghiên cứu cho thấy, chi phí thức ăn là
cao nhất chiếm 56%, tiếp theo là công lao động,
chế phẩm sinh học và con giống. Theo người
nuôi, các khoản chi phí này có xu hướng tăng
lên nên ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành.
Tổng chi phí 1 kg tôm là 75 ngàn đồng với giá bán
trung bình là 110 ngàn đồng/kg thì thu nhập hỗn
hợp của người nuôi đạt 110 ngàn đồng/kg. Ngoài
ra, hiện nay chất lượng con giống chưa đạt, môi
Giống
6,5
Thức ăn
42
Thuốc và chế phẩm sinh học
7,5
Tiền công lao động
10
Khấu hao và các chi phí khác
9
Nguồn: Tính toán từ điều tra của tác giả
Thương lái
Theo kết quả điều tra, 100% hộ nuôi bán sản
phẩm qua thương lái, trong đó 95% khối lượng
cung cấp cho các nhà máy chế biến, chỉ có 5%
bán ra thị trường bên ngoài. Thương lái trực tiếp
thu mua tại ao nuôi, bảo quản và vận chuyển đến
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 2(61).2018 61
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
nhà máy trên địa bàn tỉnh Phú Yên, Bình Định,
Khánh Hòa. Quá trình tạo giá trị trong chuỗi sản
phẩm tôm thẻ của thương lái thể hiện qua bảng 3
bên dưới.
Bảng 3. Chuỗi giá trị của thương lái
ĐVT: ngàn đồng/kg
Khoản mục
Số tiền
1. Doanh thu
114
2. Chi phí trung gian
110
3. Khấu hao và chi phí khác
3
4. Lợi nhuận
1
Nguồn: Tính toán từ điều tra của tác giả
Mỗi kilogam tôm nguyên liệu thương lái thu về
lợi nhuận là 1 ngàn đồng. Thương lái thu mua và
bán lại, hoạt động này thường diễn ra trong ngày
nên giá cả và thị trường rất ít biến động, do đó họ
không gặp rủi ro trong kinh doanh.
Nhà máy chế biến
Qua sơ đồ chuỗi giá trị có đến 95% sản lượng
tức phần lớn lượng tôm thẻ của tỉnh dùng làm
nguyên liệu cho các nhà máy chế biến và sau đó
xuất khẩu. Qua công đoạn chế biến và xuất khẩu
giúp tăng giá trị sản phẩm hay phát triển chuỗi giá
con tôm.
Bảng 4. Chuỗi giá trị của nhà máy chế biến
ĐVT: ngàn đồng/kg
Phân loại sản phẩm
Đông
Xẻ cánh
Tôm
lạnh
bướm
sushi
133
114
141
114
164
114
3. Khấu hao và chi phí
khác
9
15
30
4. Lợi nhuận
10
12
20
Khoản mục
1. Doanh thu
2. Chi phí trung gian
Nguồn: Tính toán từ điều tra của tác giả
Dữ liệu bảng 4 cho thấy, có cùng chi phí trung
gian là 114 ngàn đồng/kg sản phẩm nguyên liệu,
tuy nhiên tùy vào chủng loại sản phẩm chế biến là
tôm đông lạnh, xẻ cánh bướm hay tôm sushi mà
nhà máy có khoản chi phí khác nhau và thu về lợi
nhuận khác nhau.
Vai trò của chính phủ
Ngoài ba tác nhân chính như đã phân tích, thì vai
trò của Chính phủ trong việc hỗ trợ và ban hành
các chính sách có tác động đáng kể đến sự năng
động của chuỗi. Định hướng của Ủy ban nhân dân
tỉnh là: “Phát triển ngành tôm theo tư duy hệ thống
và chuỗi giá trị. Áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy
chuẩn quốc gia, quy trình sản xuất ở tất cả các
khâu trong chuỗi giá trị ngành tôm” [10].
Trung tâm Khuyến nông tỉnh đưa các chính sách
vào thực tế, mở các lớp tập huấn để hướng
dẫn ngư dân nuôi theo công nghệ semi biofloc
và biofloc, công nghệ này giúp kiểm soát được
dịch bệnh, giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm. Nuôi tôm theo tiêu chuẩn nuôi
trồng thủy sản tốt (VietGAP) đang được triển
khai trên nhiều vùng nuôi, quy trình sản xuất đảm
bảo các yêu cầu về an toàn thực phẩm, giảm
thiểu dịch bệnh, giảm ô nhiễm môi trường, đảm
bảo truy xuất nguồn gốc sản phẩm, giúp sản
phẩm đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu. Từ các hỗ
trợ của Nhà nước, giúp tăng giá trị con tôm thẻ
của tỉnh.
4.2.3. Phân tích hiệu quả và phân phối thu
nhập trong chuỗi
Phân tích hiệu quả và phân phối thu nhập trong
chuỗi
Phân tích chuỗi giá trị sẽ cho biết các bên tham
gia trị tạo ra giá trị gia tăng bao nhiêu và phân phối
lợi ích các bên trong chuỗi. Trong nghiên cứu này,
tác giả phân tích cho kênh 1, vì kênh thứ 2 tiêu thụ
sản lượng nhỏ nên tác giả không phân tích.
Bảng 5. Chuỗi giá trị tôm thẻ chân trắng tại Phú Yên năm 2016
Lợi nhuận
(hay giá trị gia tăng)
Tổng số
Người nuôi
Thương lái
Lãi bình quân nhà máy chế biến
Đông lạnh
Sản phẩm
Xẻ cánh bướm
Tôm sushi
Số tiền ngàn đồng /1 kg
Giá trị gia tăng
Tỷ lệ lợi nhuận/vốn
tôm nguyên liệu
(%)
0
70
2
28
21,7
25
35,7
(%)
35
1
14
10
12
20
46,7
33,3
111,1
80
66,7
Nguồn: Tính toán từ điều tra của tác giả
62 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 2(61).2018
NGÀNH KINH TẾ
Dữ liệu bảng 5, cho thấy về giá trị tạo ra của 1
kg tôm nguyên liệu, thì ngư dân là bên tạo ra giá
trị gia tăng cao nhất đạt 35 ngàn đồng/kg tôm
nguyên liệu, chiếm 70% tổng giá trị gia tăng tạo ra.
Tiếp đến là nhà máy chế biến chiếm 28% tương
ứng với 14 ngàn đồng/kg và cuối cùng là thương
lái chiếm 2% với giá trị tạo ra là 1 ngàn đồng/kg.
Kết quả này giống với trường hợp tôm sú sinh thái tại
Cà Mau của nhóm tác giả Phạm Thị Hạ Vân (2014),
sự phân phối giá trị gia tăng và thu nhập giữa các
tác nhân không đồng đều. Trường hợp tại Phú Yên,
ngư dân là bên tạo ra giá trị gia tăng cao nhất.
Qua phân tích chuỗi giá trị còn cho thấy, nếu xét
về lợi nhuận tạo ra trên đồng vốn bỏ ra thì nhà
máy chế biến đạt được tỷ suất lợi nhuận cao nhất
từ 66-110% tùy vào mặt hàng chế biến. Trong khi
đó, thương lái có tỷ suất lợi nhuận thấp, nhưng
sản lượng mà thương lái thu mua lớn nên tổng
lợi nhuận mà họ có được lại cao hơn người
nông dân.
Việc phân chia lợi nhuận giữa các bên tương
đối phù hợp, các bên thu về phần lợi nhuận/vốn
tương ứng với số vốn mà họ bỏ ra. Tuy nhiên,
nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm thẻ nói
riêng phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, dịch bệnh,
tác động của các yếu tố đầu vào, do đó người nuôi
đối mặt với rủi ro rất cao, trong khi bên khác ít đối
mặt với rủi ro hơn.
Phân tích chuỗi giá trị cho thấy: tôm đông lạnh
xuất khẩu có giá trị gia tăng và lợi nhuận/vốn thấp
nhất trong khi mặt hàng tôm sushi thì các giá trị
trên là cao nhất. Như vậy, quy trình chế biến càng
hiện đại thì giá trị gia tăng càng lớn.
Thị trường tiêu thụ
Tôm thẻ được bán vào các nhà máy chế biến
trong tỉnh và ngoài tỉnh, việc bán sản phẩm thời
gian qua khá dễ dàng. Nếu không dịch bệnh thì
với mức giá bán như hiện nay khoảng 110 ngàn
đồng/kg thì lợi nhuận mang về cho người nuôi ở
mức chấp nhận được, là đối tượng nuôi mang về
mức thu nhập cao. Từ đó giúp họ tiếp tục đầu tư
để phát triển ngành nghề.
Tại Phú Yên có 01 nhà máy chế biến tôm thẻ đó
là doanh nghiệp Bá Hải và 100% sản phẩm sản
xuất tại nhà máy này dùng để xuất khẩu sang hầu
hết các thị trường trên thế giới như: châu Âu, Mỹ,
Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc)...
Tôm thẻ trên địa bàn tỉnh nuôi theo phương pháp
truyền thống chưa tuân thủ về việc chứng minh
truy xuất nguồn gốc sản phẩm, chưa tuân thủ quy
định sử dụng thuốc - hóa chất trên vật nuôi, do đó
giá bán tôm thấp, sản phẩm sau chế biến khó xuất
vào các thị trường khó tính như Nhật Bản, châu Âu.
Liên kết kinh tế
Kết quả điều tra về tình hình liên kết giữa các tác
nhân trong chuỗi của tỉnh diễn ra chủ yếu giữa hộ
nuôi và đại lý cung cấp đầu vào, tỷ lệ này chiếm
97,9% trên tổng số hộ khảo sát, trong đó chủ yếu
là cung cấp thức ăn - hóa chất, liên kết với bên
cung ứng giống rất ít hộ tham gia. Liên kết giúp hộ
nuôi giải bớt áp lực thiếu vốn do không đầu tư vào
mua thức ăn, hóa chất. Nhưng đồng thời họ phải
trả mức giá cao hơn khi mua bằng tiền mặt.
Bảng 6. Mối liên kết giữa người nuôi trong chuỗi
giá trị năm 2016
Tỷ lệ
Ngư dân liên kết với
Số hộ tham gia
Nhà cung cấp đầu vào
137
97,9
Thương lái
11
7,9
Nhà máy chế biến
0
0
(%)
Nguồn: Điều tra của tác giả
Bảng 6 còn cho biết, người dân bán sản phẩm cho
thương lái nên không có mối liên kết với các nhà
máy chế biến. Nhưng liên kết với thương lái hiện
nay không có nhiều ràng buộc hai bên mà chủ yếu
là mối quan hệ quen biết, vì thương lái không hỗ
trợ họ trong ứng vốn sản xuất nên họ hoạt động
theo kiểu thuận mua - vừa bán.
Việc liên kết giữa các tác nhân còn lỏng lẻo, kết
quả này trùng với trường hợp nghiên cứu tôm
nuôi tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu này đã chỉ ra được tỷ lệ
số hộ tham gia vào trong từng mối liên kết.
Phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của chuỗi
giá trị tôm thẻ chân trắng tỉnh Phú Yên
- Điểm yếu: Chất lượng sản phẩm tôm nguyên
liệu của tỉnh còn thấp khi ngư dân chưa nuôi theo
các tiêu chuẩn được quốc tế công nhận. Mối liên
kết giữa các tác nhân trong chuỗi có sự phát
triển, tuy nhiên mức độ ràng buộc với nhau chưa
chặt chẽ, thiếu sự ràng buộc giữa các tác nhân
trong chuỗi.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 2(61).2018 63
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
- Điểm mạnh: Nhờ phát triển chuỗi giá trị, tôm
thẻ nguyên liệu của tỉnh được chế biến đa dạng
chủng loại thành phẩm, đáp ứng nhu cầu xuất
khẩu và xuất ra thị trường quốc tế với giá cao
hơn bán trong nước. Từng khâu trong chuỗi đều
tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm và việc phân
chia lợi nhuận tương ứng với mức vốn mà các
bên đầu tư vào. Mối liên kết giữa ngư dân - nhà
cung cấp đầu vào đem đến hiệu quả kinh tế cho
các bên, mô hình này ngày càng phát triển tại
địa phương.
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Giai đoạn 2010-2016, diện tích, sản lượng và giá
trị tôm thẻ chân trắng nuôi của tỉnh Phú Yên tăng,
giảm không ổn định và gặp nhiều khó khăn.
Tôm thẻ được phân phối qua hai kênh, trong đó
kênh tiêu thụ chính là: Đầu vào - Cơ cở nuôi Thương lái - Nhà máy chế biến. Người nuôi là tác
nhân tạo ra giá trị gia tăng cao nhất, giá trị gia
tăng có phụ thuộc vào loại sản phẩm được chế
biến. Vấn đề liên kết chỉ phát triển mạnh tại mắt
xích: Đầu vào - Cơ cở nuôi, trong khi các mắt xích
còn lại hiện liên kết còn lỏng lẻo và chưa mang lại
hiệu quả.
Từ kết quả phân tích trên, tác giả đưa ra các
khuyến nghị nhằm phát triển chuỗi giá trị tôm thẻ
chân trắng tỉnh Phú Yên thời gian đến như sau:
- Chế biến sản phẩm có chất lượng cao. Cơ cấu
trong chuỗi giá trị cho thấy để nâng cao giá trị
trong chuỗi thì có thể thay đổi trong giai đoạn cuối
đó là chế biến. Các chủng loại chế biến khác nhau
thì giá trị gia tăng cũng khác nhau: tôm qua đông
lạnh rồi xuất khẩu có giá trị thấp nhất, cao nhất là
mặt hàng sushi. Do đó, để phát triển chuỗi giá trị
sản phẩm của tôm thẻ chân trắng Phú Yên, Nhà
nước kết hợp nhà máy chế biến cần tìm kiếm
và phát triển thị trường nước ngoài bán các sản
phẩm có hàm lượng chế biến cao, hạn chế xuất
khẩu thô.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm. Sản xuất sản
phẩm sạch để xuất vào thị trường có giá bán cao
như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản giúp nâng cao giá trị
gia tăng. Để xuất khẩu vào các thị trường này, cần
nuôi theo các tiêu chuẩn mà quốc tế công nhận
gồm tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, BAP. Đặc
biệt trong bối cảnh các nước xuất khẩu tôm thẻ đã
nuôi theo tiêu chuẩn trên. Bên cạnh đó, khi nuôi
theo đúng các tiêu chuẩn trên giúp người nuôi
giảm bớt rủi ro, giảm gây ra tác động tiêu cực đến
môi trường.
Để ngư dân thực hiện theo các tiêu chuẩn nuôi
trên, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh
cần hướng dẫn cụ thể phương pháp canh tác,
cách theo dõi và ghi chép sổ sách.
- Phải tăng cường vấn đề kỷ luật trong hợp đồng
kinh tế. Hiện nay các hộ nuôi tôm liên kết với đại
lý cung cấp thức ăn - thuốc - hóa chất để được
mua nợ vật tư và thanh toán khi thu hoạch, giúp
người nuôi giảm được lượng vốn bỏ ra. Liên kết
này mang lại lợi ích cho các bên tham gia, nên rất
cần được đẩy mạnh phát triển chúng. Nhà nước
cần hỗ trợ pháp lý: giúp hai bên làm hợp đồng
mua bán; hoàn thiện các quy định pháp lý cho việc
ký kết hợp đồng kinh tế để hạn chế xảy ra tranh
chấp, cơ chế giải quyết khi tranh chấp xảy ra.
Ngư dân cần tăng cường liên kết với thương lái
để nhận hỗ trợ về vốn đầu tư từ thương lái và bán
tôm thu hoạch cho họ.
Tác giả đã kế thừa cách tính và phân tích các khía
cạnh trong chuỗi giá trị gồm chi phí - lợi nhuận,
liên kết kinh tế, thu nhập của tác nhân, cách tích
giá trị gia tăng, lợi nhuận/vốn đầu tư. Ngoài ra,
đóng góp mới của bài báo là: nghiên cứu về lợi
nhuận/vốn của từng tác nhân tham gia, so sánh
giá trị gia tăng tạo ra cho từng loại sản phẩm được
chế biến, nghiên cứu định lượng về tỷ lệ tham gia
vào liên kết trong chuỗi giá trị.
Bên cạnh các kết quả đạt được, nghiên cứu này
vẫn còn một số hạn chế đó là: Vì hạn chế trong
việc điều tra nên khi thu thập dữ liệu về chuỗi
giá trị, tác giả chỉ mới điều tra nhà máy tại Phú
Yên mà chưa điều tra các nhà máy tỉnh khác
nhập nguồn tôm thẻ chân trắng nguyên liệu từ
Phú Yên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Chi cục Thống kê Phú Yên (2015, 2016). Báo cáo
thường niên ngành thủy sản.
[2]. Chi cục Thống kê Phú Yên. Niên giám thống kê
Phú Yên, từ năm 2010 đến 2016.
[3]. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phú Yên
(2014 và 2015). Tổng kết nuôi trồng thủy sản các
năm 2014, 2015, 2016. Ủy ban nhân dân tỉnh
Phú Yên.
64 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 2(61).2018
NGÀNH KINH TẾ
[4]. Nguyễn Văn Thuận và Võ Thành Danh (2014). Thị
trường cá tra Việt Nam phân phối thu nhập - chuỗi
giá thành sản xuất cá tra nguyên liệu - Giải pháp
phát triển ngành. Tạp chí Khoa học - Trường đại
học Cần Thơ, số 32, tr.38-44.
[7]. Doris Becker, Phạm Ngọc Trâm, Hoàng Đình Tú
[5]. Mai Văn Xuân và Lê Văn Thu (2012). Phân tích
chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi trên địa bàn huyện
Thăng Bình - tỉnh Quảng Nam. Tạp chí Khoa học
- Đại học Huế, tập 72B, số 3, tr.413-428.
[8]. Michael E. Porter (người dịch Nguyễn Ngọc Toàn)
[6]. Tô Phạm Thị Hạ Vân, Trương Hoàng Minh (2014).
Phân tích chuỗi giá trị tôm sú sinh thái ở tỉnh Cà
Mau. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ,
số 31, tr.136-144.
(2009). Phát triển chuỗi giá trị - công cụ gia tăng giá
trị cho sản xuất nông nghiệp. Tổ chức Deutsche
Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit
(viết tắt tên tổ chức GTZ).
(2013). Chiến lược cạnh tranh. NXB Trẻ.
[9]. Raphael Kaplinsky và Mike Morris (2013). Sổ tay
nghiên cứu chuỗi giá trị. Chương trình Giảng dạy
Kinh tế Fulbright.
[10]. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2017). Kế hoạch
- Hành động phát triển ngành tôm đến năm 2025.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 2(61).2018 65