Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Folklore và mô hình dung thông trong thi pháp tiểu thuyết của Chinghiz Aitmatov

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.66 KB, 13 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 2 (27) - Tháng 3/2015

FOLKLORE VÀ MƠ HÌNH DUNG THƠNG
TRONG THI PHÁP TIỂU THUYẾT CỦA CHINGHIZ AITMATOV
NGUYỄN THỊ TUYẾT (*)

TĨM TẮT
Folklore là nét đặc trưng trong tư duy và kết cấu của hầu hết tác phẩm Aitmatov.
Folklore tham gia vào tồn bộ cấu trúc tác phẩm tạo thành dạng cốt truyện đồng tâm,
khơng gian - thời gian tái sinh vơ tận, nhân vật song trùng và tạo ra nhiều khả năng chủ
đề, mơ hình dung thơng trong thi pháp. Folklore trở thành bức bình phong để nhà văn thể
hiện thái độ tư tưởng chính trị một cách khơn ngoan, là một loại chất liệu đặc biệt để phản
ánh những vấn đề cấp bách trong đời sống xã hội Xơ viết nửa sau thế kỷ XX, và những vấn
đề nhân sinh mn thuở, tạo nên nội dung triết học đạo đức sâu sắc cho tác phẩm.
Từ khóa: Folklore, Chinghiz Aitmatov, cốt truyện đồng tâm, nhân vật song trùng,
thi pháp dung thơng
ABSTRACT
Folklore is the characteristic feature of Aitmatov’s thinking mode and almost of his
novel structure. Folklore participates in the whole works structure to form concentric plot,
infinitely regenerative space-time, parallel characters, creating many possibilites for
themes, and many models in communication poetics. Folklore is a screen for Aitmatov to
show wisely his political ideology attitude, and is special material for him to reflect urgent
problems of Soviet society in the second half of the twentieth century, and also the human’s
age-old problems, creating profound moral philosophical content for literary works.
Key words: Folklore, Chinghiz Aitmatov, concentric plot, parallel characters, communication
poetics
1. MỞ ĐẦU*
Khi những vấn đề cấp thiết của hiện
sinh đi tìm khn đúc trong những mẫu


hình mn thuở là khi con người trở về với
nguồn cội bản thể trong một niềm cảm ứng
đặc biệt. Theo Đặng Anh Đào thì “ở mức
độ phổ qt nhất, sự trở về với huyền thoại
thường bộc phát khi có hiện tượng tỉnh
thức trước một số vấn đề mới của hiện
sinh”. Văn chương của Aitmatov là một
hiện tượng như thế, từ những bức bách
(*)

trong đời sống chính trị xã hội Xơ viết nửa
sau thế kỷ XX, nhà văn đã tìm thấy “bảo
bối” trong q khứ, trong chiều sâu văn
hóa dân tộc - nguồn lực folklore.
Chinghiz Aitmatov (1928-2008) là nhà
văn người Kirghizia, sống dưới thời Xơ
viết, viết văn bằng hai ngơn ngữ: tiếng mẹ
đẻ và tiếng Nga. Ngay từ những truyện
ngắn đầu tiên, Aitmatov đã miêu tả được
một phần hiện thực bộn bề của cuộc sống
Xơ viết, đến Jamilya (1958), Người thầy
đầu tiên (1962),… đã tạo nên tiếng vang

ThS, Trường Đại học An Giang

79


mạnh mẽ và xác lập vị trí vững vàng của
Aitmatov trên văn đàn, và vị trí danh dự ấy

không thể thay thế khi những tác phẩm nổi
tiếng khác của ông lần lượt xuất hiện: Vĩnh
biệt Gunxarư! (1966), Con tàu trắng
(1970), Sếu đầu mùa (1975), Con chó
khoang chạy ven bờ biển (1977), Và một
ngày dài hơn thế kỷ (1980), Đoạn đầu đài
(1986), Khi những ngọn núi sụp đổ
(2006)... Những thay đổi trong đời sống
chính trị xã hội Xô viết (đặc biệt là từ sau
1965) dần lộ rõ những hạn chế, sai lầm và
bản thân những đổi mới trong quan điểm tư
tưởng và nghệ thuật của Aitmatov, tác
phẩm xuất sắc của ông báo trước một xu
thế biến chuyển của lịch sử, và từ núi đồi
quê hương, từ folklore của dân tộc mình đã
nói lên những vấn đề chung của con người,
của nhân loại.
Văn chương Aitmatov thấm nhuần văn
hóa dân gian Kirghizia giàu đẹp, tự bản
nguyên cội nguồn gặp gỡ một cách kỳ lạ
với folklore thế giới, với vô thức nhân loại,
Aitmatov góp mặt vào dòng văn học thế
giới một cách đầy ấn tượng: cùng lúc, bằng
yếu tố folklore (những huyền thoại, truyền
thuyết, câu chuyện cổ, motif Kinh
thánh,…), ông chỉ ra những điểm nhức
nhối trong đời sống đạo đức, kinh tế, xã
hội Xô viết nửa sau thế kỷ XX, và đưa ra
những chỉ dẫn cho thời đại bằng cách nhìn
sâu vào quá khứ văn hóa dân tộc. Folklore

trong tác phẩm của Aitmatov vô cùng đa
dạng và phong phú về số lượng cũng như
thể loại, trong đó truyền thuyết và huyền
thoại đóng vai trò “mũi nhọn” trong việc
truy tìm cội nguồn văn hóa, ký ức dân tộc;
và như toan tính của nhà văn, folklore đóng
vai trò chủ đạo trong toàn bộ kết cấu tác
phẩm, từ nội dung tư tưởng đến hình thức
nghệ thuật; hơn nữa, đối với độc giả, nó
như là một hệ thống mở, luôn mời gọi bạn

đọc giải mã và kiến tạo trong suốt quá trình
tiếp nhận.
Rõ nét nhất là từ Vĩnh biệt Gunxarư!
đến Đoạn đầu đài, sự tham gia của yếu tố
folklore không chỉ tạo ra nhiều khả năng
chủ đề và cốt truyện mà nó còn chi phối
cách tổ chức không gian, thời gian, hệ
thống nhân vật,... tất cả tạo thành mô hình
dung thông trong thi pháp.
2. NỘI DUNG
2.1. Dung thông
Dung thông (Communication) là thuật
ngữ được sử dụng rộng rãi trong Phật giáo.
Trong Viên dung vô ngại của Kinh Hoa
Nghiêm xem đó là sự dung thông Tam thế:
“Tất cả pháp trong vũ trụ đều đồng một thể
tánh”(1), “Không chỉ có sự dung hợp riêng
lẻ của không gian và thời gian mà còn có
cả sự dung hợp giữa nhiều không gian và

nhiều thời gian, trong không gian có thời
gian, trong thời gian có không gian, dung
dung nhiếp nhiếp vô cùng vô tận”(2), “vũ
trụ là một cảnh ứng tiếp về tinh thần”(3);
Thiền Sư Hương Hải (1628-1715) trong
bài thơ Sự lý dung thông, lại xem như một
sự thông suốt về đạo và đời.
Tư tưởng về sự tương thông này cũng
thật trùng khít với những nghiên cứu mới
nhất của vật lý lượng tử mà A. Einstein đã
khẳng định: continue-không thời gian, và
chúng cũng vận hành theo triết lý Dung
thông (thuyết Bootstrap) của G. Chew.
Triết lý ấy từ bỏ hoàn toàn thế giới quan cơ
học trong vật lý Newton, ở đó, vũ trụ được
hiểu như là một mạng lưới động chứa toàn
những biến cố liên hệ với nhau; không một
tính chất nào của bất kỳ thành phần nào
trong mạng lưới này là cơ bản; tất cả chúng
đều sinh ra từ tính chất của những thành
phần khác, và chúng tương thích toàn diện
trong quá trình tương tác của những cấu
trúc xác định trong toàn mạng lưới.
80


Nếu ta xem tác phẩm văn học là một
cơ thể, một cấu trúc hoàn chỉnh thì các bộ
phận, các phương diện của cấu trúc ấy có
mối quan hệ mật thiết, thống nhất chặt chẽ

với nhau. Song, đâu là hạt quark(4) tạo ra
trường lực tương tác ấy trong mỗi thế giới
nghệ thuật luôn là một bí mật và luôn khác
nhau; với tác phẩm của Aitmatov, có thể
nói, yếu tố folklore là “hạt cơ bản” tạo nên
sự dung thông độc đáo trong thi pháp. Ở
đây chúng tôi hiểu dung thông là sự tương
ứng, tương đồng, (nhiều khi là đồng nhất).
Thi pháp dung thông trong tiểu thuyết
Aitmatov được thể hiện rõ trong hệ thống
chủ đề, trong cấu trúc cốt truyện đồng tâm,
trong không - thời gian tái sinh vô tận và
hệ thống nhân vật song trùng độc đáo.
2.1. Mô hình dung thông trong
thi pháp tiểu thuyết Aitmatov
2.2.1. Cốt truyện đồng tâm

Tác phẩm
Vĩnh biệt
Gunxarư!
(25 phần)

Nếu quan niệm cốt truyện là “hệ thống
sự kiện làm nòng cốt” thì những câu
chuyện folklore nằm ngoài các cốt truyện
của Aitmatov, nhưng hiểu theo một cách
khái quát hơn, “cốt truyện là hệ thống các
quan hệ qua lại của các nhân vật, là lịch sử
phát triển và tổ chức một tính cách nào
đó”(5) và cốt truyện liên quan mật thiết tới

hành động (cảm xúc, ý định trong hành vi,
cử chỉ, nét mặt,…) của nhân vật, thì các
folklore ấy lại nằm trong chỉnh thể cốt
truyện của ông.
Trong mô hình tác phẩm Aitmatov
thường có nhiều câu chuyện, nhiều thời đại
cùng tồn tại: folklore - câu chuyện quá khứ
và câu chuyện hiện tại thời Xô viết. Chúng
tôi đã thống kê những cốt truyện cơ bản
trong một số tiểu thuyết tiêu biểu của
Aitmatov như sau:

Câu chuyện hiện tại

Câu chuyện folklore

Vị trí câu
chuyện
folklore

Cuộc đời Tanabai và con Câu chuyện về người thợ Thuộc phần 22
ngựa Gunxarư trong thời kỳ săn già
tập thể hóa nông nghiệp

Con tàu trắng Cuộc sống nghèo khó và bị Huyền thoại
áp bức của Momun và thằng Mẹ Hươu Sừng
(7 phần)
bé ở chân núi hoang vu bên
hồ Isuckul


phần 4
(chính giữa tác
phẩm)

Con chó
khoang chạy
ven bờ biển
(12 phần)

Hành trình ra khơi lần đầu Huyền thoại về vịt Luvrơ Cả hai truyện
tiên của Kirixk gặp tai nạn và
được kể lần đầu
sự hy sinh của những người Huyền thoại về
đều ở phần 2
lớn
Người Đàn bà Cá

Và một ngày

Hành trình của Edigej đi qua Câu chuyện tình yêu của
30 vexta trên thảo nguyên chàng danh ca già Phần 10
đến nghĩa trang Mẹ để chôn Rajmaly
81


dài hơn thế kỷ cất Kazangap
(12 phần)
Câu chuyện viễn tưởng về Truyền thuyết về nghĩa Phần 6 (chính
tàu vũ trụ và hành tinh Ngực trang Mẹ
giữa tác phẩm)

rừng
Hành trình cứu vớt điều thiện Câu chuyện Sáu người và
người thứ bảy
Đoạn đầu đài của Apdi
(3 phần)
Cuộc đối thoại
giữa Jesu và Pilat
Cuộc sống hợp tác hóa đầy
bức xúc (của Boston)
Gia đình sói Acbara và
Tastrainar
Kết cấu cốt truyện của tiểu thuyết
Aitmatov được tổ chức rất hấp dẫn, hoạt
lực ấy còn được nhân lên nhờ thành phần
tạo nghĩa của các yếu tố folklore: folklore
làm hệ quy chiếu cho những sự kiện được
miêu tả trong đường dây cốt truyện chính
(câu chuyện hiện tại), trở thành những câu
chuyện ngụ ngôn, đồng thời, nó có vai trò
mở rộng hệ chủ đề, cốt truyện và dung
lượng tác phẩm.
Tâm trong cốt truyện đồng tâm chính
là ý nghĩa sâu xa trong các câu chuyện
folklore giao thoa với những vấn đề trong
cuộc sống Xô viết đương thời, đó chính là
điểm gặp gỡ của nhiều tuyến cốt truyện:
vùng giao thoa hoặc nhiều khi trùng khít về
nội dung tư tưởng, triết lý nhân sinh ẩn
đằng sau những câu chuyện folklore.
Folklore là hồng tâm phát sáng những triết

lý ấy. Điều này cũng được thể hiện rất rõ
trong nỗ lực tổ chức tác phẩm của
Aitmatov: phần lớn, những câu chuyện
folklore trung tâm nằm chính giữa tác
phẩm, như bảng trên đã thống kê ở trên
(Huyền thoại Hươu Mẹ nằm chính giữa tác
phẩm Con tàu trắng, truyền thuyết về

Thuộc phần 1
Thuộc phần 2
(chính giữa tác
phẩm)
Xuyên suốt cả
tác phẩm

nghĩa trang Mẹ nằm chính giữa tác phẩm
Và một ngày dài hơn thế kỷ, cuộc đối thoại
giữa Pilat và Jesu nằm chính giữa tác phẩm
Đoạn đầu đài).
Ở Vĩnh biệt Gunxarư! cuộc đời
Tanabai không chỉ được bổ sung và thống
nhất với cuộc đời con ngựa của ông,
Gunxarư, mà còn thống nhất với bài hát cổ,
trong việc thể hiện những vấn đề cuộc sống
Xô viết hiện đại. Trong bài hát của người
thợ săn già, Karagul như một mẫu hình về
người anh hùng trong cuộc sống (một thợ
săn rất giỏi), song lại là con người bi kịch
và cuối cùng bị trừng phạt theo lời nguyền
của con dê cái xám. Hình mẫu anh hùng

của Karagul như một đường dẫn, một sự
kết nối với sự điên rồ thời trẻ của Tanabai,
trong quá trình tập thể hóa nông nghiệp.
Trước đây chính ông là người cầm đầu
những kẻ vô thần trong bản, chính ông đã
chủ trương xóa bỏ lều du mục, xóa bỏ lối
sống hàng nghìn năm văn hóa mà cha ông
để lại, và xưa kia, chính Tanabai Bakaxov
đấu tố cả anh trai mình, không kể gì đến
tình thâm ruột. Tanabai ngạo mạn tin chắc
vào sự ngay thẳng của bản thân đến mức
82


gần như mất cả tính người cũng giống như
trái tim sắt đá của Karagul nhẫn tâm giết
hết loài dê xám, để ngoài tai mọi lời cầu
xin và nguyền rủa của con dê cái già tội
nghiệp. Đến cuối tác phẩm Tanabai nhận ra
những sai lầm của mình thì đã quá muộn,
ông cảm thấy cô đơn như chính tâm trạng
của Karagul một mình trên mỏm đá suốt
mấy ngày đêm, nhưng không có cách nào
khác để thay đổi quá khứ… Bằng việc kết
hợp nhân vật chính trong tác phẩm với
người thợ săn Karagul trong câu chuyện
folklore, Aitmatov cho thấy tính chất bi
kịch của cuộc đời Tanabai và cuộc đấu
tranh giai cấp đẫm máu, khốc liệt như
chính sự tuyệt diệt của loài dê núi.

Con tàu trắng có rất nhiều câu chuyện
dân gian, song câu chuyện trung tâm là
huyền thoại về Mẹ Hươu Sừng. Câu
chuyện không chỉ nằm chính giữa tác phẩm
mà nó còn được tái lặp, các nhân vật đều
biết và nhắc đến nhiều lần. Tác phẩm nêu
lên vấn đề nhức nhối của xã hội đương thời
là sự suy thoái của niềm tin, sự xuống dốc
của đạo đức, và bằng những câu chuyện
dân gian như một ẩn dụ để báo trước tương
lai của xã hội đó. Nếu những kẻ độc ác, bội
bạc trong những câu chuyện cổ đều bị
trừng phạt đích đáng thì chính kẻ bội tín
Orozkul cũng đang bị trừng phạt một cách
đau đớn nhất; và như người tù binh bị tước
đoạt sự sống, nhưng trong trái tim anh vẫn
lưu giữ hồn dân tộc trong những bài ca, thì
cậu bé ra đi mang theo niềm tin bất biệt
trong trái tim non nớt.
Ở Con chó khoang chạy ven bờ biển
hành động huyền thoại liên tục tái diễn
trong đời sống tinh thần của con người. Sự
tái diễn này là trung tâm tư tưởng của câu
chuyện Aitmatov, nơi các sự kiện đều
không có ranh giới rạch ròi, không phải
xuất hiện duy nhất mà là sự tái lặp của hai

huyền thoại: việc sáng thế của vịt Luvrơ và
nguồn gốc của người Nivkh, từ sự kết hợp
của một ngư dân què và Người Đàn bà Cá.

Như vịt Luvrơ một mình giữa biển khơi vô
tận, công việc của những ngư dân đi biển
cũng lênh đênh trên sóng nước và khát
vọng tìm thấy một hoang đảo có khác nào
với tiếng kêu quàng quạc vô vọng muôn
thuở trước. Họ luôn gặp nhau và đồng
nhất: luôn luôn thấy mình ở giữa biển vô
biên, luôn nhỏ bé vô cùng và yếu đuối vô
cùng trước thiên nhiên vĩ đại, bí hiểm. Biển
cả thuở hồng hoang ngút ngàn tầm mắt đến
bây giờ vẫn luôn vĩ đại, rộng lớn, tinh
khiết, bí ẩn, nguyên sơ, nên nỗi tuyệt vọng
trong tiếng kêu thảng thốt của vịt Luvrơ
cũng là niềm kinh hoàng của Kirixk, của
những người đi biển luôn phải đối mặt, và
lớn lao hơn, tác phẩm của Aitmatov như
một ẩn dụ về niềm tuyệt vọng của con
người hậu bán thế kỷ XX.
Hầu hết tác phẩm của Aitmatov có cấu
trúc tương ứng nhau: nhiều dòng thời gian
gắn với nhiều tuyến cốt truyện, nhà văn
thường tích hợp yếu tố folklore vào việc
miêu tả bức tranh hiện thực - cốt truyện
trung tâm, phơi lộ những bệ rạc, khủng
hoảng của xã hội đương thời. Song Và một
ngày dài hơn thế kỷ có cấu trúc phức tạp
hơn: kết hợp chặt chẽ huyền thoại, truyền
thuyết từ trong quá khứ và yếu tố khoa học
viễn tưởng (một nỗ lực đổi mới tiểu thuyết)
là giả thuyết tương lai, quá khứ và tương

lai được miêu tả ngay trong hiện thực xã
hội Xô viết đương thời. Ba dòng thời gian
ấy khá rõ ràng trong đường dây sự kiện:
hiện tại (cái chết của Kazangap và công
việc chôn cất) - quá khứ (truyền thuyết về
nghĩa trang Mẹ) - tương lai (tuyến truyện
viễn tưởng về cuộc sống ngoài hành tinh),
song nó thống nhất chặt chẽ trong tư tưởng
tác phẩm. Trong Và một ngày dài hơn thế
83


kỷ cốt truyện viễn tưởng cũng có chức
năng như những câu chuyện folklore, song
nếu câu chuyện dân gian cho thấy quá khứ
của dân tộc thì yếu tố viễn tưởng mở ra
tương lai nhân loại, như chỉ ra trách nhiệm
của Xô viết về việc cô lập trái đất. Cốt
truyện viễn tưởng cũng được hỗ trợ bởi hai
câu chuyện folklore: câu chuyện về tên nô
lệ mankurt và câu chuyện của Rajmaly,
những câu chuyện được Elizarov, Edigej
kể, và Abutalip miệt mài chép lại, xem đó
như di sản của ông cha, và chính nó trở
thành bằng chứng chống lại anh khi anh
bị bắt.
Huyền thoại về tên nô lệ mankurt tạo
thành một hệ thống liên kết chặt chẽ đến
từng chi tiết trong cả ba tuyến cốt truyện,
nó như “động mạch chủ” của cơ thể sống,

tác phẩm Và một ngày dài hơn thế kỷ.
Trước nhất là ở cái tên nghĩa trang Ana
Bejit, trong huyền thoại, đó là nơi bà Ana
bị đứa con mất ký ức bắn chết; trong tuyến
truyện hiện tại là nghĩa trang Mẹ, nơi mà
Edigej đang muốn chôn cất người bạn
Kazangap thân thiết; và trong cốt truyện
viễn tưởng nó là một phần của sân bay vũ
trụ. Nếu tình yêu thương bao la của người
Mẹ vĩ đại trong câu chuyện huyền thoại
hóa thân thành biểu tượng Lòng Mẹ, nghĩa
trang vùng Sarozek trở thành di sản văn
hóa ngàn năm thì trong tương lai viễn
tưởng, tín ngưỡng ấy chẳng có ý nghĩa gì
cả. Aitmatov đang đặt ra những vấn đề,
những câu hỏi lớn lao của thời đại, mà
điểm nhìn được kết nối từ quá khứ đến
tương lai.
Nếu trong huyền thoại, tên nô lệ mất trí
là bởi hình phạt nhục hình dã man bằng
khoanh da lạc đà nóng thít chặt vào da đầu
cạo nhẵn, nó ăn sâu vào da thịt như một
vành đai ép chặt não con người, thì trong
tuyến truyện viễn tưởng vành đai sắt mà

con người tạo nên là biểu tượng cho sự cô
lập trái đất. Cắt đứt với quá khứ và tương
lai là những hành động tuy khác hướng
nhưng hậu quả là như nhau: sự mất gốc và
hủy diệt. Và trong cốt truyện hiện tại,

Shabitzhan một cán bộ công chức cấp tỉnh
sẵn sàng chấp nhận sự phá hủy nghĩa trang
Ana Bejit, cũng là một tên mankurt chính
cống. Di sản của dân tộc chẳng có ý nghĩa
gì đối với anh ta, mọi thứ chẳng có ý nghĩa
gì cả, từ cái chết của người bố đến truyền
thống văn hóa… Một cách thâm thúy và
độc đáo, Aitmatov đã phóng chiếu bài học
đạo đức và những giá trị từ huyền thoại
mankurt vào các truyện kể có vẻ ít điểm
chung với nó, và chỉ thông qua lăng kính
của huyền thoại mới có thể hiểu đầy đủ và
đánh giá đúng đắn các vấn đề mà nhà văn
đang đặt ra.
Bên cạnh huyền thoại về tên nô lệ, câu
chuyện tình bất hạnh của nghệ nhân già,
Rajmaly, và cô gái trẻ đẹp Begimaj cũng
“giao điểm” trong các đường dây cốt
truyện và chủ đề tác phẩm. Câu chuyện,
nằm ở phần 10 của tác phẩm, về mặt cốt
truyện, như là một cách giải quyết hợp tình
cho mối tình khó xử giữa Edigej và quả
phụ trẻ tuổi Zaripa. Nếu mối tình của
Rajmaly với Begimaj là không thể chấp
nhận, thì tình thương mến trong sáng của
Edigej dành cho Zaripa cũng không có lối
thoát. Tình cảm đó làm cả ba người thật
khó xử: Edigej, Ukubala - vợ Edigej, và cả
Zaripa nữa. Kazangap đã nhắc lại câu
chuyện cũ của ông cha, và như một bài học

từ quá khứ, và Edigej đã tìm thấy cách giải
quyết vấn đề của mình, song không tránh
khỏi những bâng khuâng, đau khổ,… Tác
phẩm Và một ngày dài hơn thế kỷ không
chỉ là câu chuyện của một cuộc đời, một
con người, mà là câu chuyện lịch sử của cả
dân tộc, trong đó, những câu chuyện
84


folklore như là những chỉ dẫn quan trọng
để định hướng tương lai, đó là dụ ngôn, là
bài học từ quá khứ.
Đoạn đầu đài là một nỗ lực cách tân
mạnh mẽ của Aitmatov trong cấu trúc cốt
truyện, các chủ đề và sự kết hợp văn phong
táo bạo trong những vấn đề thời sự có tính
chất báo chí và những vấn đề nhân sinh
muôn thuở: vấn đề thiên nhiên, môi sinh
(câu chuyện về gia đình sói Arbara và
Tastrainar), vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo
(huyền thoại ngày Chúa bị đóng đinh), vấn
đề gay gắt của xã hội đương thời: tệ nạn
ma túy, nông trường hợp tác xã... (gia đình
Boston)... Sâu xa là vấn đề truyền thống
văn hóa dân tộc, đấu tranh giữa thiện và
các... các yếu tố folklore là hồng tâm phát
sáng những triết lý ấy.
Folklore đóng vai trò quan trọng như
những câu chuyện sáng tạo độc đáo trong

tác phẩm Aitmatov. Những câu chuyện đó
vô cùng phong phú và đa dạng, vừa liên tục
mở rộng quy mô truyện kể vừa dẫn dắt bạn
đọc xuyên qua một loạt các sự kiện từ quá
khứ đến hiện tại, và nhà văn tin rằng, từ
những bài học của lịch sử, của quá khứ,
chúng ta có thể tìm ra con đường đúng đắn
để giải quyết những tồn tại của xã hội.
Chức năng ngụ ngôn của folklore trong tác
phẩm của Aitmatov tạo sự đa nghĩa, hấp
dẫn, và chính điều này là cội nguồn của sự
“lấp lửng lưỡng nan” (người khôn ăn nói
nửa chừng, ca dao) trá hình thái độ phê
bình của tác giả đối với những vấn đề,
những hiện tượng, những “thói tật” trong
cuộc sống Xô viết. Aitmatov đã dùng
folklore như một phương tiện hữu hiệu để
thể hiện quan điểm (bất đồng chính kiến)
của mình trong cuộc chiến chống lại sự
chuyên chế nhưng theo một cách nhẹ
nhàng và tinh vi hơn sự công khai bạo
động của A. Solzhenitsyn. Đó là tài năng

“đã đi trước so với nhiều người”, “thể hiện
một kiểu tư duy mới trong văn học” của
Aitmatov.
2.2.2. Không gian vĩnh cửu - Thời gian
tái sinh vô tận
Mỗi tác phẩm của Aitmatov thường có
nhiều tuyến cốt truyện gắn liền với nó là

nhiều mô hình không gian, mạch chảy của
các mô hình ấy là sự trộn lẫn các mảng
hiện thực và huyền thoại xuôi dài theo hai
dòng quá khứ và hiện tại, đi về giao thoa
trong điểm kết là tính chất tương ứng của
các không gian. Chính tính chất tương ứng
này mà người đọc có thể nhận thấy tính
chất ngụ ngôn trong những câu chuyện cổ
và song chiếu giữa quá khứ và thực tại tác
phẩm trở nên đa âm và gợi cho độc giả
nhiều tưởng tượng đồng sáng tạo. Tính
chất dung thông này còn được thể hiện rõ
nét hơn trong thi pháp thời gian trong tiểu
thuyết của Aitmatov: ở tính đồng thời của
lịch sử, ở cấu trúc của giấc mơ và trong
quan niệm thời gian tuần hoàn.
Thời gian tái sinh vô tận là một đặc
điểm rất quen thuộc trong tiểu thuyết
Aitmatov, bởi tác giả thường chọn hình
thức trần thuật là hồi cố, nhưng sự trần
thuật không phải được tiến hành từ trong
quá khứ mà là trong hình thức thời hiện tại,
nghĩa là tác giả đang miêu tả sự hồi tưởng.
Hầu hết, trong những tác phẩm mà chúng
tôi khảo sát thì có hai người kể chuyện,
hình thức này bắt đầu từ Cánh đồng mẹ
trong hành trình sáng tạo của Aitmatov.
Trong hai người kể chuyện đó: một là nhân
vật chính, một là người kể chuyện ngôi thứ
ba (tác giả), thường nhân vật là người kể

câu chuyện folklore, và với hình thức trần
thuật là đảo thuật. Ở đây, kể chuyện thật ra
là thuật lại những câu chuyện đã hoàn kết
(huyền thoại, truyện cổ, truyền thuyết,…)
song lại từ điểm nhìn hiện tại, nghĩa là biểu
85


đồ thời gian liên tục vận động theo cả hai
chiều quá khứ và hiện tại. Lịch sử là câu
chuyện của thời gian, nhưng trong tác
phẩm của Aitmatov, thời gian đã không
hoàn toàn thuộc về lịch sử, bởi bên trong
thế giới tâm hồn nhân vật luôn đeo đẳng
những miền ký ức huyền thoại xa xưa, bạn
đọc sẽ có được những khoảnh khắc trải
nghiệm huyền thoại như là sự giao cắt
tương ngộ giữa bạn đọc và nhà văn, trong
những thông điệp nhân sinh sâu sắc, như
giấc mơ quen thuộc của Organ về Người
Đàn bà Cá, như niềm tin mãnh liệt trong
tâm hồn Momun và thằng bé không tên về
Hươu Mẹ vĩ đại… Theo J.G.Frazer, tính
chu kỳ là một “đặc tính phổ quát của huyền
thoại nguyên thủy”, nhằm mục đích nhấn
mạnh “ý nghĩa siêu hình vĩnh cửu của
chúng”. Huyền thoại trở thành thi pháp
trong tiểu thuyết Aitmatov, và nó không
chỉ hiện diện trong “vòng xoáy” của thời
gian, trong nghệ thuật trần thuật mà bản

thân huyền thoại trở thành một ẩn dụ tình
huống trong xã hội hiện đại.
Thứ nữa, thời gian tái sinh vô tận là
bởi sự giao hòa của ba dòng thời gian quá
khứ - hiện tại - tương lai trong một chiều
sâu triết lý: cái thiện. Những câu chuyện
cổ, truyền thuyết, huyền thoại... đã vĩnh
viễn viên mãn từ thuở khai sinh, trải qua
thời gian, nó lại được tái sinh và liên tục
được tái sinh, bởi khát vọng về cái đẹp,
điều thiện luôn là ngưỡng vọng muôn đời
của con người. Sự giao hòa của ba thời
gian ấy được thể hiện trong hình thức giấc
mơ, những motif giống nhau được tái lặp,...
Đặc điểm này được thể hiện rõ nét nhất
trong tác phẩm Con chó khoang chạy ven
bờ biển, ở đó các hành động của câu
chuyện diễn ra hầu như không có thời gian,
không gian cụ thể mà tất cả như một chu
kỳ mà một sự kiện siêu việt, một sự tái

diễn đời đời. Mọi nỗ lực phân hóa không
gian, thời gian trong Con chó khoang chạy
ven bờ biển (CCKCVBB) trở nên vô hiệu,
bởi quá khứ và hiện tại đều chung một
không gian là biển - “nước vĩnh cửu”, thời
gian vận hành theo những chu kỳ giống
nhau, hay đơn giản là sự lặp lại của quá
khứ? Hiểu theo cách nào cũng đưa đến một
sự hòa quyện một cách có ý thức: hiện tại

được kể từ trong hành động sáng thế, bằng
cách trở lại trong thời gian khi vịt Luvrơ đã
bay kêu quang quác tìm kiếm của một nắm
đất để đẻ trứng, vậy mà, chỉ có biển cả và
bầu trời mênh mông trong sự khăng khít
không thể chia cắt: “Chỉ có nước… chỉ có
bầu trời… Đấy là toàn bộ thế giới có thực,
và không còn gì khác hơn... Nước bao trùm
thế gian từ đầu này đến đầu kia”
(CCKCVBB, tr.455) cũng như bốn nhân
vật trôi trong sương mù: “Sương mù vĩ đại
đã âm thầm bao trùm khắp đại dương, một
mình độc chiếm tất cả và bất di bất dịch.
Sương mù vĩ đại chìm đắm trong sự hôn
mê vĩ đại của mình” (CCKCVBB, tr.501).
Không gian nguyên thủy, thời gian tái
sinh vô tận còn được kết nối trong không
gian đất và biển đời đời trong cuộc đấu
tranh không ngừng nghỉ. Ngay sau khi vịt
Luvrơ tạo đất ở giữa đại dương vô tận,
nước và đất bắt đầu cuộc chiến không
ngừng nghỉ: “biển không thể yên lòng, biển
tấn công đất liền, đất liền chống lại biển”
(CCKCVBB, tr.441). Hành động sáng thế
tạo ra cuộc xung đột đầu tiên. Cuộc đấu
tranh đất - nước xuất hiện như là xung đột
nguyên thủy, và cũng là xung đột muôn
đời, khi con người bị kẹt giữa hai lực lượng
đó, “biển không ưa đất liền vì con người
gắn bó với đất liền nhiều hơn biển”. Xung

đột trong huyền thoại trở thành ý thức sâu
sắc trong tâm hồn mỗi con người bộ tộc
Nivkh, và cả cuộc đời họ, dường như là sự
86


tiếp nối cho của cuộc chiến nguyên thủy
này: “Ôi, giá như vịt Luvrơ sẽ biết được
thế gian này sẽ khổ sở như thế nào kể từ
ngày đất rắn xuất hiện giữa vương quốc
bao la của nước… Biển và đất cứ quần
nhau như thế kể từ ngày khai tịch”
(CCKCVBB, tr. 440). Sự tái diễn của
huyền thoại sáng thế còn diễn ra trong giấc
mơ của Kirixk, sau cơn khát khủng khiếp,
nhiều ngày bất lực trong sương mù, anh
kiệt sức và mê sảng. Giấc mơ đó là sự đồng
nhất với huyền thoại, sự trở lại đời đời của
huyền thoại ở tầng sâu vô thức: giấc tìm
đất của vịt Luvrơ. Nếu thuở hồng hoang vịt
Luvrơ đã hi sinh bản thân mình cho sự sinh
tồn của các thế hệ sau thì Organ và những
nhân vật khác cũng đã hành động như thế,
họ quyết định chọn cái chết để có thể bảo
tồn sự sống cho thế hệ tương lai, như là
bản nguyên nhân văn sâu sắc khởi đi từ
trong lòng vũ trụ.
S.Freud xem giấc mơ là “con đường
vương giả” dẫn tới vô thức, các khao khát
không được đáp mà xuất hiện như một yếu

tố quan trọng của huyền thoại của Organ và
giấc mơ cũng là một phần của sự “trở lại
đời đời” trong câu chuyện của Aitmatov.
Nếu trong huyền thoại Người Đàn bà Cá bỏ
mặc lời nguyện cầu tha thiết của chàng trai,
để mình chàng gặm nhấm nỗi buồn thì
trong giấc mơ của Organ, khát vọng mãnh
liệt của ông cũng trớ trêu và ngang trái.
Chàng trai nghèo trong huyền thoại, sau khi
Người Đàn bà Cá ra đi, đã hao mòn tương
huyết, nỗi buồn dẫn dụ chàng tỏ bày khát
khao qua bài hát xót xa; bài hát ấy bây giờ
được cất lên vào các ngày lễ của bộ tộc
Nivkh, và đi vào giấc mơ của Organ, như
tiếng nức nở cộng hưởng tự ngàn xưa. Thời
gian vừa vô tận vừa tuần hoàn (hiệu quả
được đem lại từ việc sử dụng bút pháp
huyền thoại) lồng ghép những hệ không

gian đối nghịch vào nhau: mê cung của
những giấc mơ, hữu thức và vô thức, giữa
quá khứ và hiện tại. Với thuyết Tương đối,
Einstein đã đập vỡ dòng thời gian tuyệt đối,
tuyến tính của thời đại Newton, thời gian
trở nên tan chảy và đồng hiện, dung thông.
Trong quan niệm về sự tái sinh vô tận của
thời gian, Aitmatov có vẻ như muốn “nuôi
lại giấc mơ dang dở” của dòng thời gian có
dáng hình thời đại Euclid, “giấc mơ” không
thành nhưng chính sự không thành ấy, lại là

chỗ hơn người của ông, nó để lại một dư
âm sâu sắc, một nỗ lực mạnh mẽ trong sự
nối liền xưa và nay, giữa truyền thống quá
khứ và cách tân hiện đại.
2.2.3. Nhân vật song trùng
Một thủ pháp mà Aitmatov nỗ lực trong
suốt quá trình xây dựng hệ thống nhân vật
trong hầu hết tác phẩm và nó đã trở thành
như một hệ quy chiếu là tính chất song
chiếu, ở đây, chúng tôi tạm gọi là nhân vật
song trùng (Parallel Characters)(6). Nhân
vật song trùng là kiểu nhân vật có những
đặc điểm tương tự, hoặc trái ngược hẳn
nhau để làm nổi bật những tính năng khác
nhau của cùng một tính cách... Thông
thường có hai kiểu song trùng: kiểu song
trùng như là sự tồn tại không thể thiếu nhau,
và kiểu song trùng tồn tại như là sự ám ảnh
của nhau. Trong tác phẩm của Aitmatov
thường là nhân vật song trùng theo kiểu có
những đặc điểm tương tự, tồn tại không thể
thiếu nhau. Với hệ quy chiếu này cho phép
ta đọc tác phẩm với nhiều cách khác nhau,
nhưng dù theo mối liên hệ nào, trong cách
tổ chức văn bản, nhà văn cũng luôn ngầm
ẩn một quy ước: hệ thống nhân vật folklore
là tọa độ gốc.
Ở đây, chúng tôi tập trung tìm hiểu tác
phẩm Đoạn đầu đài (ĐĐĐ), hệ thống nhân
vật có thể được sơ đồ hóa như sau:

87


Bazarbai sâu rượu, vô liêm sỉ…
Ingar - Maria - Guliumcan: Hình tượng
những nhân vật nữ mang vẻ đẹp của sự
nâng đỡ và tái sinh điều thiện bằng “Nữ
tính vĩnh hằng”.
Vợ Pilat - Tursun: là những người vợ
hiểu biết và can ngăn chồng mình làm điều
ác, song họ đều thất bại.
Những bộ ba nhân vật này không chỉ
được xây dựng trong diện mạo và chức
năng như nhau, mà đặc biệt hơn, nhân vật
trong câu chuyện hiện tại còn mang đầy đủ
hình mẫu, sống bằng những ám ảnh và đam
mê của nhân vật folklore. Tiêu biểu nhất là
trường hợp Jesu và Apdi: Apdi mang tất cả
lý tưởng điều thiện và bi kịch thập giá của
Jesu. Cuộc đời và số phận Apdi như là hậu
sinh của Chúa Kito, sau 2000 năm, anh vẫn
mang đầy đủ những phẩm tính và bi kịch
ấy. Ngay tên anh, “cái tên lạ lùng theo kiểu
Cựu ước”. Là con của một trợ tế, và học
trong chủng viện, từ khi anh biết cuộc đời
thì “Anh đã thầm gánh chịu nỗi đau khổ
của người trên vai mình tới mức òa lên
khóc nức nở khi đọc đến đoạn Giuda phản
bội Người trong vườn Hepximania! (ĐĐĐ,
tr. 89). Tính chất cộng thông ấy trở nên cực

kỳ rõ nét khi Apdi và Chúa Jesu cùng sống

Sơ đồ nhân vật trong tác phẩm Đoạn
đầu đài
Trong sơ đồ trên, chúng ta thấy
không gian tác phẩm mở rộng từ đồng cỏ
Moiuncumu rộng lớn đến cuộc sống tập thể
hóa nông nghiệp ở một nông trang gần hồ
Isuckul, và không gian Jerusalem trong
huyền thoại Thánh kinh; thời gian tâm
tưởng của nhân vật kéo dài đến gần 2000
năm, và đặc biệt, tác giả đã xây dựng nhiều
bộ ba nhân vật tương ứng về tính cách, số
phận và chức năng như Apdi - Jesu Boston; Grisan, Caldalov - Pilat, Kaipha Corcobaev, Bazaibai; Ingar - Maria Guliumcan; Vợ Pilat - Tursun.
Apdi - Jesu - Boston đều là những con
người biểu tượng cho điều thiện ở những
thời đại khác nhau, họ đều nỗ lực đấu tranh
với cái xấu cái ác, với kẻ thù, và họ đều
phải bước lên đoạn đầu đài của mình.
Grisan, Caldalov - Pilat, Kaipha Corcobaev, Bazaibai: là những bộ ba nhân
vật đối cực với những nhân vật chính diện,
họ biểu tượng cho cái xấu, cái ác trong xã
hội, ví như Grisan (chân thọt) được miêu tả
như là kẻ chống Chúa; Caldalov là kẻ “tháo
vát” suy thoái; Pilat độc ác và kiêu ngạo,
Corcobaev lẻo mép, sách vở và ngu dốt;
88


và chết trong một niềm thống khổ: lý tưởng

và bi kịch. Biên giới không gian và thời
gian được nhà văn chú ý, nhưng là sự chú ý
trong ý thức mờ hóa, hoặc đồng nhất: trước
ngày họ lên đoạn đầu đài của mình, đều là
một ngày nóng nực, oi bức, ngột ngạt,
“những đám mây giông đã trở nên dày đặc
và xám xịt…” (ĐĐĐ, tr. 165), và đều là
Ngày thứ Sáu, ngày chân lý và điều thiện
bị chôn vùi. Trong lúc Apdi đang chịu cơn
đau đớn của nhục hình (bị bọn tìm kiếm
anasa đánh đập dã man, và bị đẩy ra khỏi
toa tàu đang chạy với tốc độ khủng khiếp),
một mình giữa thảo nguyên mênh mông
trong cơn mưa đêm xối xả, ý nghĩ của anh
hướng về con người bị đưa lên núi Sọ:
“Thưa thầy, con đây! Con phải làm gì để
cứu được thầy?”. Chính những ý nghĩ đó,
khả năng sống trong sự trải nghiệm cùng
một cảm giác với Chúa Jesu, bị ngăn cách
hàng ngàn năm lịch sử đó, nhà văn gọi là
“tính tương đồng lịch sử” (ĐĐĐ, tr.203).
Tại sao có sự trùng khít, sự tương ứng
tuyệt diệu đó? Theo chúng tôi hiểu, đó là
một vòng tuần hoàn của lịch sử, huyền
thoại về Jesu đang tái sinh trong bi kịch
của Apdi: bi kịch của cái thiện trong thời
hiện đại. Họ là những con người bi kịch và
sống trọn vẹn với bi kịch của mình bằng sự
hòa nhập với tinh thần trong ký ức, trong
cảm hứng đó, nhà văn khẳng định: “cái

thiện và cái ác được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác trong sự vô cùng tận của
ký ức, trong sự vô cùng tận của thời gian
không gian…” (ĐĐĐ, tr.203).
Trong câu chuyện “Sáu người và người
thứ bảy” Sandro chia sẻ thế giới tinh thần
và chia sẻ cái chết với “kẻ thù giai cấp” thì
cái chết của Apdi trên đồng cỏ Moiuncumu
trong trận săn bắn sơn dương đẫm máu vì
anh khước từ phủ nhận niềm tin vào Chúa
và anh muốn chia sẻ niềm tin ấy với tất cả

mọi người. Sandro tự tử như là hình ảnh
một kiểu mẫu cho sự kết thúc của Boston:
sau khi giết kẻ khiêu khích mình, Bazarbai,
anh nhận thấy rằng trong mình cũng không
còn nhân tính. Sandro giết người với lý do
“chính đáng” là Guram là kẻ thù giai cấp
và trong phần ba của tác phẩm, sau 60 năm
nội chiến, Bazarbai vẫn tuyên bố Boston là
“một kulăc”, “một kẻ chống lại chính
quyền” (ĐĐĐ, tr.306), nhưng tình thế đã
thay đổi, Boston đã nổ súng. Máu đã đổ từ
ngày đầu của lịch sử Xô viết biểu tượng
bằng việc giết người và tự tử của Sandro,
và hôm nay chu kỳ bạo lực ấy đã trở thành
một vòng tròn hoàn hảo: “…máu đã đổ
trong cơn xoáy lốc luẩn quẩn… và một lần
nữa anh làm đổ máu để trả thù cho máu đã
đổ” (ĐĐĐ, tr.81). Điều này gợi ta nhớ đến

nhan đề đầu tiên mà Aitmatov dự định đặt
cho tác phẩm là Vòng luẩn quẩn (8) những bi kịch đồng dạng như là sợi chỉ
xuyên qua mọi thời đại và đi tới số phận
mỗi con người.
Tính chất bi kịch là đặc điểm chung
của nhân vật trung tâm, khởi đi từ nhân vật
folklore những bi kịch ấy được đúc rút,
chiêm nghiệm và phóng chiếu theo những
chiều kích khác nhau (Jesu bị hành hình và
nỗi đau đớn của Apdi trên đồi Golgotha
của mình, sự sụp đổ của Boston…) thì đều
hội tụ trong một mô hình có tính nhân quả,
và con người hiện đại học được điều gì tự
trong những mô hình ấy? Tính chất song
trùng của nhân vật dựa trên cơ sở sự tương
đồng và ý tưởng của nhà văn khi xây dựng
những mô hình đồng dạng để bạn đọc có
thể tìm ra những dụ ngôn trong câu chuyện
quá khứ, để trả lời cho những vấn đề hiện
đại đang được đặt ra. Điều này cũng được
nhà nghiên cứu N. Potarov khẳng định: “…
thể loại đa dạng, cứ đan quyện vào nhau rất
sâu khiến ý tưởng này hòa nhập vào ý
89


tưởng khá, làm sáng chói lên một ý tưởng
mới(9)”. Tính chất này gần như bao trùm
các yếu tố thi pháp khác như không gian,
thời gian, tính chất tương ứng về cốt truyện

và chủ đề,… trong hầu hết tiểu thuyết
Aitmatov, song rõ nhất là ở thi pháp xây
dựng nhân vật.
3. KẾT LUẬN
Kết cấu cốt truyện độc đáo, hòa quyện
trong huyền thoại, tái huyền thoại và đặc
biệt là dung chứa trong không thời gian
vĩnh cửu, vô thủy vô chung là hành trình
tái diễn muôn đời. Bằng folklore, văn học
tự “giữ ấm” cho mình và lưu lại lịch sử đã
bị đánh mất (lãng quên) của dân tộc, như
huyết mạch con người vẫn âm thầm lưu

chuyển trải qua bao thế hệ; và cũng chính
folklore đã tạo ra dáng nét tuyệt mỹ, kiến
trúc đa tầng trong thế giới nghệ thuật
Aitmatov. Khởi đi từ những yếu tố,
folklore đã trở thành phương thức tư duy,
cách “giải hiện thực” độc đáo, đánh dấu sự
trưởng thành và chín muồi trong tư tưởng
cũng như phong cách sáng tạo của
Chinghiz Aitmatov. Nhắc lại những câu
chuyện, mà đặc biệt là những sai lầm trong
quá khứ, nhà văn đã tìm ra lời giải đáp
thông minh cho những vấn đề cấp bách
trong đời sống xã hội thời kỳ Xô viết, và
chúng ta hôm nay, đã học được điều gì từ
Lịch sử?

Chú thích:

1 Mai Thị Thơm (2009). Hoa Nghiêm suối nguồn văn học Phật giáo thời Trần. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb
Phương Đông, tr.185.
2 Mai Thị Thơm (2009). Sđ d, tr.189.
3 Đoàn Trung Còn (1995). Các tông phái đạo Phật. Huế: Nxb Thuận Hóa, tr.57.
4 Quark là một hạt cơ bản sơ cấp, và là một thành phần cơ bản trong cấu tạo của vật chất. Các quark là
những hạt cơ bản duy nhất trong mô hình chuẩn của vật lý hạt đều tham gia vào bốn tương tác cơ bản
(điện từ, hấp dẫn, mạnh, và yếu).
5 Nhiều tác giả (2004). Từ điển văn học (bộ mới). Hà Nội: Nxb Thế giới, tr.324.
6 Bản ngã song trùng, hoặc những bộ ba nhân vật: Nó được gợi ý (hay gợi hứng) bởi những tấm gương, bởi
mặt nước phẳng lặng hay những người sinh đôi…, Cái song trùng (the double), như là “mẫu gốc” của
nhân vật song trùng, đã tồn tại từ lâu trong các nền văn hóa nghệ thuật nhân loại. Đó là sự thể hiện các
con vật, sự vật theo nguyên lí cặp đôi, thể hiện tính lưỡng diện, sự tồn tại song song không thể thiếu nhau
của các đối cực… Tôn giáo truyền thống thường quan niệm “linh hồn là bản trùng của chủ thể sống, có
thể tách rời thể xác khi chủ thể chết, hoặc trong giấc mộng hoặc do một thao tác ma thuật, và có thể thác
sinh vào chính thể xác đó hay vào một thể xác khác. Như vậy, hình ảnh con người tự hình dung về mình
là một hình ảnh nhân đôi”, Jean Chevalier, Alain Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Sđd,
tr. 826.
7 Trong Kinh thánh, phần Truyện các vua, Apdi là quan tổng quản, đã cứu với 100 tiên tri của Chúa (người
Do Thái), thoát khỏi sự sát hại của Gie-sa-ben, [Các vua 18:4].
8 Ch Aitmatov, Cái giá là cuộc sống, (Vũ Hồng Hà dịch) 09:55 | 17/09/2013.
9 N. Potarov, Thế giới của con người và con người trong thế giới, in chung tác phẩm Và một ngày dài hơn
thế kỷ, tr. V.

90


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Aitmatov C. (Phạm Mạnh Hùng dịch, 1982), Con tàu trắng, Vĩnh biệt Gunxarư!,

Con chó khoang chạy ven bờ biển,: Nxb Tác phẩm Mới, Hà Nội.

2.

Aitmatov C. (Lê Khánh Trường - Nguyễn Đức Dương dịch, 1986). Và một ngày dài
hơn thế kỷ,: Nxb Trẻ, TP. HCM.

3.

Aitmatov C. (Vũ Việt dịch, 1989), Đoạn đầu đài, Nxb Tác phẩm Mới, Hà Nội.

4.

Fritjof Capra (Nguyễn Tường Bách dịch, 2001), Đạo của vật lý, Nxb Trẻ, TP. HCM.

5.

Đoàn Trung Còn (1995), Các tông phái đạo Phật, Nxb Thuận Hóa, Huế.

6.

Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.

7.

Mai Thị Thơm (2009), Hoa Nghiêm suối nguồn văn học Phật giáo thời Trần,
Nxb Phương Đông, TP.HCM.

*


Biên tập xong: 01/3/2015

Ngày nhận bài: 27/10/2014

91

Duyệt đăng: 20/3/2015



×