Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Ẩn dụ tri nhận trong một số bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.84 KB, 7 trang )

thể con người là vật
chứa có thể được định vị bên trong hay bên
ngoài. Hình như Hoàng Phủ Ngọc Tường
chưa có ý thức khai thác đặc trưng này, cho
nên những mô tả của ông không có khác
biệt gì nhiều so với không gian tinh thần
của người Việt.
5. Ẩn dụ tri nhận là lĩnh vực khá mới
mẻ trong ngành ngôn ngữ. Tuy vậy, đây là
lĩnh vực phát triển mạnh mẽ vượt ra ngoài
phạm trù văn chương. Ẩn dụ tri nhận là sự
mở rộng tri thức, cung cấp sự hiểu biết về
một đối tượng này thông qua sự hiểu biết
về một đối tượng khác. Bằng cách đó, con
người tạo ra cho mình sự hiểu biết về một
đối tượng khác đã biết. Phạm vi hành chức
của ẩn dụ rất rộng: trong văn học, nghệ
thuật và hầu hết các lĩnh vực đời sống
thường nhật. Ẩn dụ không chỉ là phương
tiện và cách thức biểu hiện của ngôn ngữ
mà nó còn là phương thức tư duy. Nó là
một quá trình thao tác của tư duy dẫn đến
tri nhận thế giới, tạo ra nền tảng tri thức
mới dựa trên nền tảng những cái đã biết.
Xuất phát từ phương thức ẩn dụ mà
con người có thể nhận biết thế giới, gồm
thế giới vật chất, thế giới tinh thần, thế giới
cảm xúc. Ẩn dụ gắn liền với đặc trưng văn
hóa của người bản ngữ.
99



ẨN DỤ TRI NHẬN TRONG MỘT SỐ BÚT KÝ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

nhận mặt thay thế cho con người, rừng cây
là con người, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
rất nhiều lần đề cập đến bộ mặt của rừng
cây. Hay như đã nói, từ ẩn dụ gần gũi vật
chất là gần gũi con người, Hoàng phủ
Ngọc Tường đã đề cập đến giá trị truyền
thống của chiếc nón bài thơ Huế; nón bài
thơ Huế chính là con người Huế.
- Tổng hợp, đây là phương thức thông
qua các ẩn dụ thường qui, cùng một lúc
khai thác nhiều loại ẩn dụ như: ẩn dụ chi
tiết hóa, ẩn dụ mở rộng nghĩa, ẩn dụ tra
vấn, thậm chí kết hợp với các hoán dụ,
nhân hoá, so sánh. Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã sử dụng một cách uyển chuyển tất cả
các phương thức trên, chính điều này đã
làm nên tính chất trí tuệ trong bút ký của
ông và cũng chính điều này, từ phía người
đọc, việc nhận hiểu và lý giải tác phẩm của
ông một cách thấu đáo quả là điều không
dễ dàng.
Như vậy, xét cả trên bình diện các ẩn
dụ thường quy khái quát và cả những ẩn dụ
mang tính sáng tạo cá nhân, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đều sử dụng một cách đa
dạng phong phú, bằng cách kết hợp nhiều
loại ẩn dụ khác nhau. Rất tiếc, do điều kiện

hạn chế của một bài báo ngắn, chúng tôi
chưa có dịp khảo sát kỹ, chưa phân loại
một cách chi tiết, mà ở đây chỉ có tính chất
đặt vấn đề cho những nghiên cứu tiếp theo.

viết ngắn này, chúng tôi khảo sát các ẩn dụ
tri nhận về con người và thiên nhiên trong
các truyện ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường
theo quan niệm ẩn dụ tri nhận của Lakoff
và Johnson. Bên cạnh đó, những khám phá
mới về những đặc điểm của các yếu tố
ngôn ngữ trên bình diện ẩn dụ trong ký của
ông cũng được nhìn nhận và đánh giá lại.
Có thể thấy, bản chất thiên nhiên và
con người Huế đã được Hoàng Phủ Ngọc
Tường mô tả một cách tài hoa. Nói khái
quát, từ ẩn dụ thiên nhiên và con người,
thậm chí là sông Hương và nói rộng ra là
bối cảnh Huế, là con người Huế. Phải gắn
bó máu thịt với Huế như thế nào mới có
được những trang viết sâu nặng, mới có thể
miêu tả, khắc họa sinh động được như thế.
Zotan Kovecses có lý khi cho rằng,
mọi sáng tạo có tính cá nhân của nhà văn
đều dựa vào không gian tinh thần bản ngữ.
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không phải
là ngoại lệ, ông thường xây dựng ẩn dụ
thông qua các phương thức khai thác sau:
- Chi tiết hóa, tức thông qua một số ẩn
dụ tri nhận có tính khái quát, nhà văn đã cụ

thể hóa các ẩn dụ ấy bằng những cảm nhận
riêng của mình, ví dụ: xuất phát từ ẩn dụ:
đời người là cỏ cây, đời người là một năm,
nói rõ hơn, các mùa xuân, hạ, thu, đông
được ánh xạ như cuộc đời của một con
người, mùa xuân là tuổi trẻ, mùa đông là
tuổi già xế bóng, ánh sáng là sự sống, bóng
tối là cái chết. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
mô tả một cách chi tiết con người Huế
thông qua cây cỏ như thế nào. Các mùa
Xuân, Hạ, Thu, Đông và những biểu hiện
của con người Huế như thế nào và cuối
cùng thời gian là quy luật của tạo hóa với
những dấu ấn và đặc điểm được miêu tả
qua không gian, thời gian Huế như thế nào.
- Mở rộng nghĩa, phương thức này cho
thấy sự chuyển nghĩa không những dựa
vào ẩn dụ tri nhận mà còn dựa vào cả hoán
dụ tri nhận. Ví dụ: Xuất phát từ cách tri

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập,
tập 2 – Bút ký, Nxb Trẻ.
2. Kövecses Z. (2005), Metaphor in Culture
Universality and Variation, Cambridge
University Press, Cambrige.
3. Lakoff G and Johnson M. (1980, 2003),
Metaphors we live by, The university of
Chicago, The United States of American.
4. Lakoff G. and Johnson M. (1989), More than

cool reason: A field guide to poetic metaphor,
The university of Chicago, Chicago.

100


ĐẬU THÀNH VINH

5. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng Văn hoá
– Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb
Từ điển Bách khoa.

nhận”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, (1, 2),
tr.2-15.
10. Trịnh Sâm (2014), “Miền ý niệm sông nước
trong tri nhận của người Nam Bộ” trong
“Ngôn ngữ học Việt Nam trong bối cảnh đổi
mới và hội nhập”, kỷ yếu Hội thảo quốc tế,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Sharifian F. (2011), Cultural conceptualization,
John Benjamins publishing company,
Amsterdam/Philadelphia.
7. Trịnh Sâm (2011), “Miền ý niệm sông nước
trong tri nhận của người Việt”, Tạp chí
Ngôn ngữ, (12), tr.1-15.

11. Trịnh Sâm (2014), “Một vài nhận xét về ý
niệm “Tim””, Tạp chí Từ điển học và bách
khoa thư số 4.


8. Trịnh Sâm (2011), “Dòng sông và cuộc đời”,
Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, (10), tr.31-34.

12. Trịnh Sâm, (2015), “Hình thức và nội dung
trong tri nhận luận” (một vài ghi nhận), Tạp
chí ngôn ngữ số 7.

9. Trịnh Sâm (2013), “Phong cách ngôn ngữ Hồ
Chí Minh, nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri

Ngày nhận bài: 28/6/2015

Biên tập xong: 15/9/2015

101

Duyệt đăng: 20/9/2015



×