Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần Duy Phiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.87 KB, 9 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 11 (36) - Tháng 1/2016

Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn
của Trần Duy Phiên
Ecological ideas in the short stories of Tran Duy Phien
TS. Nguyễn Thị Tịnh Thy
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Ph.D. Nguyen Thi Tinh Thy
The University of Hue – University of Education
Tóm tắt
Từ thập niên 90, nhà văn Trần Duy Phiên đã sáng tác nhiều tác phẩm mang đậm tư tưởng sinh thái. Đây
là một hiện tượng khá đặc biệt trong đời sống văn học Việt Nam đương đại, thể hiện sự nhạy cảm của
nhà văn đối với một vấn nạn mang tính tồn cầu – vấn nạn mơi trường. Từ góc nhìn sinh thái, bài viết sẽ
làm rõ tư tưởng sinh thái của Trần Duy Phiên qua bộ ba truyện ngắn viết về cơn trùng là Kiến và người,
Mối và người, Nhện và người. Điều đó biểu hiện ở việc coi trọng trí tuệ của tự nhiên, sức mạnh của tự
nhiên từ những sinh vật nhỏ nhoi nhất; lên án các hành vi tước đoạt tự nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái
và cảnh báo nhân loại về các nguy cơ sinh thái.
Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần Duy Phiên được chuyển tải qua nghệ thuật viết truyện
độc đáo từ nhan đề, nhân vật, khơng gian cho đến ngơn ngữ, giọng điệu… Tất cả tạo nên một sự ám ảnh
rợn người khiến độc giả khơng thể khơng có cái nhìn khác đi về thế giới quanh ta.
Từ khóa: tư tưởng sinh thái, tự nhiên, giải cấu trúc, nghệ thuật tự sự, diễn ngơn…
Abstract
Since the 1990s, writer Tran Duy Phien has written several works with ecological ideas. This is a rather
special phenomenon in Vietnamese contemporary literature, which expresses the sensitivity of the
writer about a global problem – environmental issue. From an ecological perspective, the ecological
thought of Tran Duy Phien will be clarified through the three short stories about insects, “Ant and
humans”, “Termite and humans”, “Spider and humans”. This is expressed in appreciating these works
highlight the natural leverness and might, the strength of nature from which is shown in the tiniest
creatures; raising the voice against the behavior of natural deprivation, breaking the ecological balance


and warning mankind about ecological risks.
Ecological ideas in the short stories of Tran Duy Phien were conveyed through the unique of writing,
from the title, characters, and space to language, rhyme, etc. All of these features creat a frightening
obsession which made the readers have other ideas about our world.
Keywords: ecological ideas, natural, deconstruction, narrative technique, discourse…

1. Từ thập niên 90 của thế kỉ XX, nhà
văn Trần Duy Phiên đã sáng tác nhiều tác
phẩm mang đậm tư tưởng sinh thái. Đây là

một hiện tượng khá đặc biệt trong đời sống
văn học Việt Nam đương đại, thể hiện sự
nhạy cảm của nhà văn đối với một vấn nạn
3


mang tính toàn cầu – vấn nạn môi trường.
Trong bộ ba truyện ngắn viết về côn trùng
là Kiến và người, Mối và người, Nhện và
người; nhà văn đã “lấy chủ nghĩa chỉnh thể
sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích
chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm giá trị
cao nhất để khảo sát và biểu hiện mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên và truy tìm
nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh thái”
[15]. Có thể nói, chùm truyện ngắn này là
những tác phẩm văn học sinh thái hiếm hoi
góp phần khỏa lấp mảng trống của dòng
văn học này trong văn học Việt Nam thời
kì đổi mới và hội nhập quốc tế.

2. Mối quan hệ giữa con người và môi
trường, con người và tự nhiên đã được đề
cập đến trong văn chương từ thời cổ đại.
Đến thời trung đại, thiên nhiên trở thành
một trong những cảm hứng và nguyên tắc
cấu tứ quan trọng của thơ ca. Thời hiện đại
cũng vậy, thiên nhiên hiện hữu trong
không gian nghệ thuật trở thành một yếu tố
quan trọng của thi pháp học. Trong tâm
thức của nhân loại nói chung, người
phương Đông và đặc biệt là giới tao nhân
mặc khách nói riêng, thiên nhiên là người
bạn lớn, người mẹ vĩ đại luôn tương giao,
tương thông, tương cảm với con người, là
bến bờ nương tựa và gột rửa linh hồn, là
nơi lánh ẩn và di dưỡng tinh thần của họ.
Tuy vậy, trong văn học quá khứ, dù nhà
văn có trân trọng, có yêu thiên nhiên thiết
tha đến mấy, miêu tả thiên nhiên đẹp đẽ,
thơ mộng và hùng vĩ đến mấy cũng chỉ để
tỏ cái tình, cái tài, cái trí, cái chí của người
cầm bút. Thiên nhiên chỉ là khách thể của
văn chương, là phương tiện nghệ thuật để
nhà văn “tải đạo”, “ngôn chí”. Các nhà văn
thời xưa thường lấy tự nhiên làm phương
tiện, công cụ, thủ pháp, ký hiệu, đối
tượng… để trữ tình, thể hiện, ẩn dụ, ám
chỉ, tượng trưng cho thế giới nội tâm và đặt

trưng nhân cách của con người. Các nhà

văn sinh thái phản đối sự đối xử thuần lợi
ích, thuần công cụ đối với tự nhiên như thế.
Đặc trưng hạt nhân của văn học sinh thái là
kiên quyết bài trừ những thái độ công cụ
hóa và phương pháp hóa đối với tự nhiên.
Đặc trưng hạt nhân này giúp chúng ta có
thể vạch một ranh giới rõ ràng trong việc
miêu tả tự nhiên giữa tác phẩm văn học
sinh thái và tác phẩm phi sinh thái. Từ góc
nhìn sinh thái, tham luận sẽ làm rõ tư
tưởng sinh thái của nhà văn Trần Duy
Phiên trong Kiến và người, Mối và người,
Nhện và người ở những bình diện sau: giải
cấu trúc quan niệm “nhân loại trung tâm”,
phê phán sự bóc lột tự nhiên và cảnh báo
nhân loại về nguy cơ sinh thái, lí giải mạch
ngầm văn bản và nghệ thuật tự sự.
2.1. Giải cấu trúc quan niệm “nhân loại
trung tâm”
Trong quan hệ với tự nhiên, nhân loại
đã từng trải qua nhiều cảm thức. Đó là sự sợ
hãi và sùng kính tự nhiên ở thời cổ đại, sự
thân thiện và chan hòa với tự nhiên ở thời
trung đại, sự xem thường và cưỡng đoạt tự
nhiên ở thời hiện đại. Sau các phong trào
Phục hưng, Khai sáng và đặc biệt là với sự
tiến bộ của khoa học kĩ thuật thế kỉ XX,
nhân loại tự cho mình có đặc quyền chinh
phục và tước đoạt tự nhiên. Lí luận hiện đại
cho rằng, toàn bộ thế giới được kiến tạo

xung quanh một hạt nhân, một trung tâm
duy nhất, ấy là chủ thể - con người. Người
ta cho rằng “con người là trung tâm của thế
giới”, “con người là tinh hoa của muôn
loài”, và coi việc chinh phục tự nhiên là một
phương thức khẳng định sức mạnh và địa vị
của con người trong vũ trụ. Các nhân vật
chính trong Kiến và người, Mối và người,
Nhện và người cũng vậy.
Mở đầu Kiến và người, người kể
chuyện khẳng định: “Quá nửa đời, bố cháu
4


không chịu thua ai”. Dưới mắt của người
vợ và đàn con, ông là người “cuồng nhiệt,
cực đoan”. Ông quyết định bán nhà ở thị
xã, dắt díu vợ con lên cao nguyên đốn cây,
vỡ đất. Chỉ vụ mùa đầu tiên, thành quả lao
động đã có, “bố cháu vui, say khướt. Bố
huênh hoang kỳ công tạo dựng cơ ngơi”.
Cậu Bảy trong Mối và người cũng
khiến những thanh niên trí thức đến tham
quan trang trại của cậu thán phục. Tốt
nghiệp kĩ sư năm hai ba tuổi, đẹp trai, lịch
lãm, đàn giỏi hát hay. Bị vợ bỏ, cậu lên cao
nguyên lập trang trại nuôi gà. Trại gà của
cậu Bảy có đến hai mươi ngàn con. Quy
trình khép kín, chế biến thức ăn, chăm sóc,
chủng ngừa, nhặt trứng, giao nhận hàng

hóa... chỉ cần hai người là cậu Bảy và già
Nu. Một chủ, một tớ. Giờ đâu, việc đó.
Người nào, việc nấy. “Quan trọng thứ nhất:
ăn uống. Thứ hai: nghỉ ngơi. Thứ ba: khai
thác thiên nhiên”. Khai thác như thế nào?
Tương kế tựu kế. Mối là loài côn trùng
“đặc sản” của cao nguyên. Sau mỗi đêm
mưa, chúng lao vào bóng đèn như những
con thiêu thân. Đèn được thắp sáng khắp
trang trại, hai mươi ngàn con gà đều mập
lên nhờ ăn mối mỗi đêm. Mùa mưa ở cao
nguyên kéo dài cả nửa năm. Vậy là hai
mươi ngàn con gà có một lượng thức ăn bổ
béo cả nửa năm mà cậu Bảy khỏi cần tốn
tiền của và công sức để lo cho chúng.
“Rừng nuôi mối. Mối nuôi gà. Gà nuôi
cậu”. Mọi việc đâu ra đó, thu nhập ổn định,
lối sống phong lưu. Tất cả là nhờ vào trí
tuệ của cậu Bảy. Bốn người khách của cậu
Bảy, trong đó có một kỹ sư chăn nuôi, đều
trầm trồ thán phục. Đối với họ, cậu Bảy là
“bậc kì tài kinh tế”.
Trần Việt Chiến trong Nhện và người
là “con ngựa chiến”. “Ai cũng thừa nhận
như thế, kể cả những người không ưa anh”.
Thuở măng non, Chiến là thần đồng. Lên

tiểu học, Chiến tỏa sáng như một ánh sao.
Lên trung học, Chiến là học sinh giỏi cấp
quốc gia. “Thi vào đại học, Chiến đỗ thủ

khoa cùng lúc hai trường. Bốn năm sau,
Chiến hoàn tất văn bằng kỹ sư điện toán
với thứ hạng cao nhất. Nhà trường giữ anh
lại làm cán bộ phụ giảng một thời gian rồi
gửi đi du học. Bốn năm sau, Chiến mang
về văn bằng tiến sĩ hạng tối ưu. Ngoài
chuyện khoa bảng, Chiến còn được trời
phú cho một số năng khiếu khác - hát hay,
vẽ giỏi và hùng biện”. Là người hoàn hảo
như thế, anh nghĩ mình sẽ dễ dàng thắng
con nhện cái mang bọc trứng chui vào tá
túc trong mùng của mình. Anh cố giam cho
nó chết đói. Việc đó đối với anh dễ như
một trò chơi mà không cần động thủ.
Tuy nhiên, các nhân vật của Trần Duy
Phiên đều bại trận trước những con côn
trùng bé nhỏ. Kiến, mối, nhện đều khiến họ
phải thất bại, kinh hãi, lao đao. Ngay khi
dương dương tự đắc về cơ ngơi mình vừa
tạo dựng, người đàn ông “không chịu thua
ai” (Kiến và người) đã phải đối đầu với đàn
kiến khổng lồ trả thù vì lãnh địa của chúng
bị xâm phạm. “Đàn kiến rải quân khắp
nơi”, ngoài vườn rẫy, quanh miệng giếng,
trên trần nhà, dưới mặt đất... “Kiến đặc như
mè đen”, dày như trấu, rải đều như cát.
Ông hạ quyết tâm: “- Tao sẽ tận diệt nhà
nó không sót một mống!”. Nhưng bọn kiến
có những tính năng hơn cả người, “di
chuyển tứ phía, biết len lách và tập trung

mục tiêu...”. Gia đình ông bị bao vây, cô
lập. Người của công ty Bảo vệ vật nuôi cây
trồng của tỉnh đến giải cứu nhưng không
thể vượt qua bức tường kiến. Cả gia đình
đơn độc tìm kế thoát thân trong nỗi kinh
hoàng tột độ. Người đàn ông dẫn vợ con
băng qua trận địa kiến chạy ra quốc lộ.
Trước khi tháo chạy, với đòn trả thù “cá
chết thì lưới rách”, ông đã châm lửa đốt
5


ngôi nhà của mình, biến cơ ngơi mà ông tự
hào thành tro bụi cùng với lũ kiến.
Cậu Bảy thông minh (Mối và người)
và các vị khách luôn ngưỡng mộ, thán phục
cách chăn nuôi của cậu cũng không ngờ có
hôm lại rơi vào tình huống oái oăm. Sau
buổi tiệc chia tay, mọi người say ngủ, lúc
tỉnh dậy họ mới phát hiện trên mình không
có một mảnh vải che thân. Đêm qua, mối
đã “tập kích nghiến sạch, không còn một
sợi chỉ”. Áo quần, giường chiếu, tủ kệ,
vách nhà, vật dụng, hành trang... của chủ
lẫn khách đều tất tật hóa thành mùn bủn.
“Chứng tích còn lại gồm nút, quai kim loại,
những phần bằng gỗ cứng hoặc nhựa…”.
Mọi người hoảng loạn, các cô gái xấu hổ
bỏ chạy vào rừng, các chàng trai thu mình
trong nhà. Tình thế thật đáng cười ra nước

mắt. Bọn mối – những con mồi bé nhỏ đã
thể hiện sức mạnh của mình. Chúng khiến
cho con người khôn ngoan và mạnh mẽ bị
vô hiệu hóa hoàn toàn.
Con ngựa chiến Trần Việt Chiến
(Nhện và người) thích thú với ý nghĩ mình
đang giam hãm, đang nắm quyền sinh,
quyền sát con nhện bé nhỏ. Trước chuyến
công tác xa, anh tấn kĩ bốn góc mùng, hi
vọng ngày trở về sẽ nhìn thấy xác nhện.
Nhưng không, con nhện không những
không chết mà còn đẻ một bọc trứng.
Chiến bực bội muốn bứt tung mạng nhện,
bóp nát bọc trứng. Nhưng khi đưa tay lên
mạng nhện, anh phát hiện có một lỗ thủng
ở góc mùng phía sau những sợi tơ nhện
mảnh mai. Muỗi bị sa vào cái bẫy đó, và
nhện không bị đói. Xưa nay đã đặt bẫy thì
phải có mồi nhử. “Nhưng mồi đâu mà nhử?
- Anh hỏi rồi nhìn xuống người mình. Hèn
gì! - Chiến giật mình”. Hóa ra, vị tiến sĩ
kiêu ngạo này đã trở thành con mồi lớn để
nhện ta nhử lũ muỗi vào và có của ăn của
để. Phát hiện này là một đòn knock out đối

với Chiến.
Có một sự đảo lộn vị trí rất ghê gớm
giữa chủ thể và khách thể trong ba truyện
ngắn trên. Con người – đều là những người
“không chịu thua ai”, “kì tài”, “ngựa chiến”

– đã bị đánh bại bởi những sinh vật bé nhỏ
bậc nhất trong thế giới tự nhiên. Nếu xem
con người là chủ thể, là trung tâm, có quyền
uy và sức mạnh tối thượng như quan niệm
xưa nay thì đã xảy ra “cái chết của chủ
thể”, sự “lệch tâm” và “tản quyền” của con
người. Quan niệm con người là trung tâm
của vũ trụ, là chủ nhân của hành tinh này, là
động vật bậc cao nhất và có độc quyền
thống trị tất thảy là một “đại tự sự” cần phải
được xóa bỏ. Trong cuộc đối đầu với con
người, những côn trùng trong Kiến và
người, Mối và người, Nhện và người, đã
phải khiến những con người ngang bạt phải
kính sợ tự nhiên. Họ sợ sức mạnh, sợ trí
tuệ, sợ cơn cuồng nộ của tự nhiên bởi “tự
nhiên là trung tâm”, nhân loại chỉ là một
phần của thế giới tự nhiên – “nhân loại phi
trung tâm”. Nhà văn Trần Duy Phiên đã
giải cấu trúc quan niệm “nhân loại trung
tâm” đầy thâm thúy như thế.
2.2. Lên án sự bóc lột tự nhiên và
cảnh báo nguy cơ sinh thái
Từ việc coi trọng trí tuệ của tự nhiên,
sức mạnh của tự nhiên từ những sinh vật
nhỏ nhoi nhất; chùm truyện ngắn của Trần
Duy Phiên đã lên án các hành vi tước đoạt
tự nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái và cảnh
báo nhân loại về các nguy cơ sinh thái.
Người mẹ trong Kiến và người cứ rối

bời với câu hỏi: “Nhà mình trước đây chắc
có thâm thù chi với kiến?”. Và bà đã nhận
ra nguyên nhân của thảm họa kiến: “Đất
rừng của chúng, đâu phải của mình”.
Người bố thì cực đoan hơn, ông giải thích:
“Vì năm nay ta được mùa... Hễ có của là có
đứa dòm”. Vậy là hai người có hai quan
6


điểm khác nhau khi nhìn về mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên, mà cụ thể là
gia đình họ và đàn kiến. Người vợ cho
mình là kẻ xâm phạm, là tội đồ; người
chồng thì ngược lại, cho mình là kẻ bị xâm
phạm, là nạn nhân. Thậm chí, trong cách
nhân hóa đầy hằn học của ông, có thể thấy
ông đã áp đặt định kiến về thế giới loài
người cho loài vật. Từ nhận thức khác
nhau, hành động của hai người tất yếu sẽ
khác. Người vợ van xin: “- Phải cúng vái,
cầu đảo ông ơi!... Chúng đông mà mình thì
ít, phải nhịn may ra”. Người chồng thì
hung hăng: “Ông sẽ không chừa cho một
mống nối nòi!”. Một bên muốn nhượng bộ,
một bên muốn tấn công hủy diệt. Và cuối
cùng, người “không chịu thua ai” buộc
phải chịu thua kiến. Từ chỗ nghênh ngang,
hiếu thắng, ông sợ hãi, lo lắng, bật khóc,
tháo chạy, điên dại. Sau khi đốt nhà, đốt

luôn cả lũ kiến, cả gia đình tả tơi chạy về
thị xã. “Thắng một trận lớn, tan hoang cửa
nhà”. Mất mát không chỉ dừng ở đó. Người
mẹ chết. Theo lời người kể chuyện:
“Người ta nói mẹ cháu chết vì bị bệnh sốt
xuất huyết, nhưng cháu không tin... Mẹ
cháu chết vì nọc kiến. Ba lần bị kiến phủ,
đủ lượng độc khiến tim mẹ cháu thôi đập”.
Người bố trở thành “người điên đáng kính
nhất thị xã”. “Hai đứa em nhỏ cháu – một
trai, một gái đang ăn xin ở hai đầu cửa chợ
thị xã. Chúng xin vừa đủ ăn và nuôi bố”.
Người kể chuyện và một đứa em gái lớn thì
lang thang, phiêu bạt. Và kiến trở thành nỗi
ám ảnh suốt đời đối với cậu.
Cách thức lợi dụng và bóc lột tự nhiên
của con người trong Mối và người thật đơn
giản, thật nhẹ nhàng mà hiệu quả thì không
nhỏ chút nào. Cậu Bảy rất am hiểu tự
nhiên. Và cậu vận dụng sự hiểu biết đó để
thu lợi cho mình. “Cậu không khai chiến
với đồng loại... Cậu hướng cuộc chiến đấu

của mình vào thiên nhiên. Khai thác về cho
mình và đồng loại”. Chỉ cần đầu tư một lần
thắp sáng trại gà bằng điện, cậu có thể
điềm nhiên thu lợi suốt đời, vì cậu biết
“bao giờ đất không cây thì rừng hết mối”.
Mối thay khoảng bốn mươi phần trăm thức
ăn cho gà. Và tham vọng của cậu không

dừng lại ở đó. Cậu “đang nghĩ cách tăng
lượng thu vào mùa mưa, trữ qua mùa khô.
Gà có mối quanh năm. Lượng thức ăn chế
biến sẽ giảm hơn nữa”. Nhưng dù đa tài, đa
trí, đa mưu; cậu Bảy không thể lường trước
được khả năng tấn công phục thù của đàn
mối. Mối trở thành một thảm họa sinh thái,
và sẽ là nguy cơ sinh thái mà cậu sẽ phải
gánh chịu trong tương lai. Già Nu hối hận:
“Đất này nguyên là giang sơn của mối. Ông
Bảy đặt trại, cho máy ủi bằng, cày nát ụ
đống mồ mả tổ tiên nhà chúng. Đã thế, ông
còn dùng đèn nhử chúng để làm mồi nuôi
gà. Ngày ấy ông Bảy nghe tôi chọn cuộc
đất bên kia, làm sao có cái họa hôm nay”.
Người đàn ông trong Kiến và người
phát điên, cậu Bảy trong Mối và người thì
lại rất tỉnh táo. Lực lượng của mối rất đông
qua cuộc tập kích càng cho cậu thêm hy
vọng, vì qua đó có thể thấy nguồn thức ăn
cho gà vẫn còn rất dồi dào. Cậu Bảy tuyên
bố: “Cuộc chiến đấu đang tiếp diễn và còn
lâu mới kết thúc. Quá trình chiến đấu có
khi được khi mất nhưng tính sổ đến nay
chúng tôi vẫn thắng”. Tuy nhiên, sự tự tin
đó chỉ có ở cậu Bảy. Người kể chuyện
khẳng định trận này con người “đại bại” và
e sợ “rồi một ngày thiên nhiên sẽ khai thác
trở lại”. Cô bạn của anh cũng dự báo:
“Chúng nó sẽ biến sản nghiệp này ra gò đất

bùn”. Nỗi lo sợ xuất phát từ sự trải nghiệm
kinh hoàng tác động đến nhận thức của các
nhân vật, buộc họ phải thay đổi thái độ và
cách ứng xử với tự nhiên để tránh đi những
thảm họa sinh thái trong tương lai.
7


Kết cục đầy bi kịch trong Kiến và
người, bi hài kịch trong Mối và người là
tiếng nói lên án sự bóc lột tự nhiên và cảnh
báo nguy cơ sinh thái mà các tác phẩm của
Trần Duy Phiên chuyển tải đến người đọc.
Để cất lên tiếng nói ấy, nhà văn phải có một
tầng sâu trong nhận thức với triết lý về tự
nhiên và tư duy sinh thái. Điều đó tạo nên
mạch ngầm của văn bản. Và mạch ngầm ấy
được thể hiện thông qua nghệ thuật tự sự
mang “dấu vân tay” của nhà văn.
2.3. Mạch ngầm văn bản và nghệ thuật
tự sự
Cả ba truyện ngắn Kiến và người, Mối
và người, Nhện và người đều thể hiện trí
tuệ, nhận thức và cách ứng xử của con
người đối với thế giới tự nhiên. Các nhân
vật đều tự tin vào trí tuệ, năng lực của
mình. Đặc biệt là năng lực chiến thắng tự
nhiên. Người bố trong Kiến và người xem
thường tự nhiên, cho mình có quyền xâm
lấn và tiêu diệt tự nhiên nếu tự nhiên cản

trở đến đời sống của mình. Cậu Bảy trong
Mối và người lại coi trọng tự nhiên, nhưng
cụ thể là coi trọng món lợi kếch xù và vô
tận mà mình có thể khai thác, cưỡng đoạt
từ tự nhiên. Trần Việt Chiến trong Nhện và
người thì nghĩ rằng tự nhiên là “đồ ngu” so
với loài người. Tất cả các nhân vật đều mắc
sai lầm về nhận thức. Sai lầm trong nhận
thức chính là nguyên nhân của nguy cơ
sinh thái. Soi chiếu bằng triết học Lão
Trang, chúng ta có thể hiểu hơn ẩn ý của
nhà văn trong mạch ngầm văn bản.
Triết học Lão Trang, mà rõ nhất là
Đạo đức kinh của Lão Tử từng chủ trương
coi thường trí tuệ. Lão Tử kịch liệt phủ
nhận cái gọi là “tri thức”, “trí tuệ”: “Trí tuệ
xuất, hữu đại ngụy” (Trí tuệ xuất hiện, sinh
ra vô vàn điều giả dối - 智慧出, 有大伪 Đạo đức kinh, chương 18). Theo Lão Tử,
càng biết nhiều, người ta càng ham muốn

nhiều, có nhiều khả năng thỏa mãn dục
vọng và không “tri túc”. Lão Tử luôn
không tán thành với “tính năng động”, với
cái gọi là “văn minh”. Ông cho rằng “tính
năng động” của con người đã bị xã hội làm
cho méo mó đi, khuyên con người hãy từ
bỏ xã hội đầy giả dối, ưu tư, phiền muộn,
quay về với tự nhiên. Theo ông, không có
trí tuệ nào của con người có thể sánh kịp
với “trí tuệ của tự nhiên”. Trí tuệ của con

người là thứ trí tuệ xuất phát từ dục vọng.
Dục vọng khiến con người “làm” (vi) rất
nhiều, “làm” vì “tư dục”. Đó là một trong
những mầm mống của loạn. Vì vậy mà Lão
Tử chủ trương “vô vi”, phản đối “hữu vi”,
nhưng ông chỉ phản đối “làm” những gì
trái với tự nhiên để hướng tới “làm” những
gì thuận theo tự nhiên. Đạt được điều đó,
con người mới có trí tuệ cao nhất, bởi vì
“trí tuệ cao nhất là nhận thức và hành động
hợp với đạo tự nhiên” [5].
Từ triết học Lão Trang, có thể thấy các
nhân vật trong ba truyện ngắn trên đều
không có trí tuệ đích thực. Sai lầm nghiêm
trọng của họ là ở quan niệm “nhân loại
trung tâm”, là tạo nên mặt trái của văn minh
từ sự không “tri túc”. Sai lầm đó đã khiến
“con ngựa chiến” Trần Việt Chiến ngã
ngựa, khiến người “không chịu thua ai” phải
tan cửa nát nhà, khiến “bậc kì tài” phải/sẽ
tiêu tan sự nghiệp. Vì vậy, chỉ có thể thông
qua việc giải cấu trúc triệt để “chủ nghĩa
nhân loại trung tâm” mới làm giảm đi sự
nguy hại đối với tự nhiên và đồng thời cũng
là sự nguy hại đối với nhân loại.
Các nhà sinh thái học cho rằng mỗi
hành vi, phẩm chất, thành quả của con
người đều phải được xem xét trong mối
quan hệ với tự nhiên, trong thái độ đối với
tự nhiên. Như vậy, tự nhiên trở thành thước

đo giá trị của con người. Từ góc nhìn này,
có thể trả lời được thắc mắc của các nhân
8


vật trong Mối và người về việc vì sao một
thanh niên hoàn hảo như cậu Bảy mà lại bị
vợ bỏ. Trong khi vợ của cậu chỉ là “một
người con gái bình thường, nhan sắc tầm
tầm”. Theo các nhà sinh thái học, sự áp
bức của con người đối với tự nhiên bao giờ
cũng liên quan và đi kèm với sự áp bức của
con người đối với con người trong xã hội.
Sinh thái học độ sâu (deep ecology) cho
rằng nguồn gốc của nguy cơ sinh thái là do
con người và tự nhiên bị phân làm hai, sinh
thái học chủ nghĩa nữ quyền (eco –
feminism) cho rằng thảm họa sinh thái xuất
phát từ “chủ nghĩa nam giới trung tâm”,
sinh thái học xã hội (cocial ecology) cho
rằng nguồn gốc của mọi đổ vỡ của giới tự
nhiên là do các vấn đề chính trị có liên
quan đến thể chế của tư bản chủ nghĩa.
Hiểu được điều nay, ta sẽ hiểu được vì sao
người con gái “tầm tầm” ấy lại tự nguyện
chia tay với người chồng “kì tài”. Nguyên
nhân xã hội của nguy cơ sinh thái, những
bất ổn trong quan hệ giữa con người với tự
nhiên, con người với con người trong Mối
và người, Kiến và người, Nhện và người

đều có thể giải mã được từ cách hiểu này.
Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn
của Trần Duy Phiên được chuyển tải qua
nghệ thuật tự sự độc đáo từ nhan đề, người
kể chuyện, không gian cho đến ngôn ngữ,
giọng điệu… Tất cả tạo nên một sự ám ảnh
rợn người khiến độc giả không thể không
có cái nhìn khác đi về thế giới quanh ta.
Cả ba tác phẩm đều có cùng một cấu
trúc nhan đề theo kiểu “A và B”: kiến và
người, mối và người, nhện và người. Ngắn
gọn, đơn giản nhưng các nhan đề đều hàm
chứa tư duy sinh thái. Về mặt ngữ pháp,
quan hệ từ “và” có vai trò kết nối hai yếu
tố đẳng lập. Về mặt ngữ nghĩa ngữ dụng,
với mục đích nhấn mạnh một yếu tố trong
giao tiếp, người sử dụng có thể đặt yếu tố

đó lên trước. “Kiến”, “mối” và “nhện”
được đặt ngang hàng với “người”. Hơn
nữa, chúng nằm ở vị trí ưu tiên, trước con
người. Vậy nên, qua nhan đề, có thể thấy
thái độ tôn trọng tự nhiên của nhà văn. So
sánh với Ông già và biển cả của Ernest
Hemingway – tác phẩm ngợi ca trí tuệ, ý
chí và sức mạnh của con người, có thể thấy
sự khác biệt rất lớn. Ông già và biển cả
(The Old Man and the Sea) cũng có cấu
trúc ngữ pháp như các truyện của Trần Duy
Phiên, nhưng “ông già” (The Old Man)

đứng trước, “biển cả” (the Sea) đứng sau.
Sắp xếp vị trí như thế không phải nhằm
mục đích đề cao tự nhiên.
Kiến và người, Mối và người được kể
ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong
của người kể chuyện trải nghiệm. Đó là
những “cái tôi” thức tỉnh, phản tỉnh sau
một phen kinh hoàng từ hiểm họa của tự
nhiên. Hình thức kể này càng làm tăng độ
xác tín của câu chuyện, tác động mạnh đến
nhận thức của người đọc về sức mạnh của
tự nhiên. Nhện và người lại được kể ở ngôi
thứ ba với hai kiểu điểm nhìn. Đầu truyện,
người kể chuyện “thượng đế” khẳng định
và chứng minh chất “ngựa chiến” của Trần
Việt Chiến từ điểm nhìn bên ngoài, rất
khách quan. Từ khi Chiến phát hiện ra con
nhện trở đi, điểm nhìn tự sự được dịch
chuyển vào bên trong nhân vật. Anh quan
sát con nhện và chờ đợi nó chết mòn từ sự
giam hãm của anh. Con nhện vẫn ngày qua
ngày “an nhiên”, “ngang nhiên tồn tại”, “lì
lợm sống” và còn“đẻ”. Chiến thì từ “rủa
thầm”, “thích chí”, “ngứa mắt”, “chờ đợi”,
“hong hóng”, “nôn nao”, “háo hức”, “hả
hê”, đến “giật mình”. Điểm nhìn bên trong
cho thấy từng bước nhận thức và tỉnh ngộ
của Chiến. “Tính ác” và khí chất ngạo mạn
trong anh tiêu tan, chỉ còn sự kính sợ tự
nhiên chiếm ngự.

9


Bút pháp đòn bẫy là một “trò chơi”
độc đáo trong nghệ thuật tự sự của cả ba
truyện ngắn. Các truyện đều mở đầu bằng
sự tán dương giá trị của con người. Người
đọc sẽ chờ đợi những chiến công của họ.
Nhưng thật bất ngờ, họ thảm bại trước
những sinh vật nhỏ nhoi nhất. Chúng lật đổ
giá trị người một cách ngoạn mục theo kiểu
“châu chấu đá xe”, gây cho người trong
cuộc nỗi khiếp sợ, thán phục và ám ảnh rất
lớn. Bút pháp đòn bẫy đã làm nên những
cuộc tấn phong và hạ bệ đầy trớ trêu và sâu
cay đối với con người, giá trị người.
Ngôn ngữ và giọng điệu tự sự cũng là
những tín hiệu thẩm mỹ đắc dụng trong
việc chuyển tải tư tưởng sinh thái. Ngôn
ngữ kể, tả và bình luận của cả ba truyện
ngắn đều rất đa biến, giàu hình ảnh. Ngôn
ngữ của Kiến và người rất giàu chất cảm
giác. Kiến bò lên rần rần, đeo bám, bao
phủ, châm đốt con người. Kiến hiện diện
khắp nơi, đặc quánh trong không gian, ken
dày trong thời gian của quá khứ, hiện tại và
tương lai. Mối và người gây ấn tượng rùng
rợn bởi sự miêu tả với những hình ảnh
ngập ngụa mục bủn do đàn mối tàn phá.
Ngôn ngữ bình luận của các nhân vật lại

gợi mở nhiều quan niệm sống, quan niệm
ứng xử với môi trường tự nhiên. Nhện và
người hấp dẫn bởi thứ ngôn ngữ kể linh
hoạt, tươi tắn, hài hước để cuối cùng “lật
tẩy” những hạn chế, hạn định, hạn tri của
con người trong thế giới kỳ thú này.
Trong Kiến và người, Mối và người có
sự đối thoại giữa các nhân vật tạo nên chất
đa thanh, đa giọng điệu cho tác phẩm.
M.Bakhtin từng khẳng định: “Tất cả đều là
phương tiện, đối thoại là mục đích. Một
tiếng nói không kết thúc gì hết và không
giải quyết gì hết. Hai tiếng nói là cái tối
thiểu của sự sống, cái tối thiểu của tồn tại”
[1, tr.235]. Nhện và người cũng có đối

thoại, nhưng là đối thoại trong độc thoại
của nhân vật chính – “vi đối thoại”. Đối
thoại của ba tác phẩm không đơn thuần
dừng ở cấp độ đối đáp mà thực chất là thể
hiện sự đối lập về lập trường tư tưởng của
nhân vật. Mỗi lời của họ đều xuất phát từ
tư tưởng và là sự phát ngôn cho tư tưởng
của mình. Khi diễn tả tư tưởng nghĩa là đối
thoại đã đạt đến tầm của những diễn ngôn.
Vì vậy trên thực chất, đối thoại trong Kiến
và người, Mối và người, Nhện và người là
diễn ngôn của tư tưởng sinh thái. Sức lan
tỏa, sức lay động, sức thuyết phục của các
tác phẩm có được chính là nhờ diễn ngôn

mang tầm thời đại, tầm nhân loại này.
3. Văn chương sinh thái đề cao thế
giới tự nhiên không phải để phủ định một
cách triệt để địa vị và tác dụng của con
người mà chỉ hi vọng hạn chế những dục
vọng quá lớn của con người cùng những
suy nghĩ và hành động phi lí, phi nhân của
họ đối với tự nhiên. Bộ ba truyện ngắn
Kiến và người, Mối và người, Nhện và
người của Trần Duy Phiên cũng vậy. Có
thể thấy ước vọng đó trong tư tưởng sinh
thái được biểu hiện qua nhiều yếu tố nghệ
thuật từ đề tài, nhan đề, nội dung đến nghệ
thuật tự sự của các tác phẩm.
Với Kiến và người, Mối và người,
Nhện và người, nhà văn Trần Duy Phiên đã
mang đến cho người đọc những tác phẩm
văn chương sinh thái đích thực. Trong bối
cảnh văn học nước ta gần như đang bàng
quan trước những tổn thất do thiên tai,
những hành động tàn phá môi trường mà
cả dân tộc và nhân loại đang phải đối mặt
và gánh chịu, những tác phẩm trên của
Trần Duy Phiên thật cần thiết và có ý
nghĩa. Chúng đáp ứng được tính tất yếu và
tính cấp thiết, đáp ứng yêu cầu thời đại,
tâm thức thời đại, thể hiện sự gắn bó thiết
thực đời sống văn chương với đời sống xã
10



Karen Thornber, Những tương lai của phê
bình sinh thái và văn học (Hải Ngọc dịch),
/>8. Trần Duy Phiên (1990), “Kiến và người”, Tạp
chí Đất Quảng, (số 64, tháng 9-10/1990).
9. Trần Duy Phiên (1992), “Mối và người”,
Tạp chí Cửa Việt, (số13, tháng 5/1992).
10. Trần Duy Phiên (2012), “Nhện và người”,
Tạp chí Sông Hương, (số 284, tháng 10/2012).
11. Lão Tử (2012), (Nguyễn Hiến Lê dịch), Đạo
đức kinh, Nxb Tổng hợp TP. HCM.
12. Trang Tử (2011), (Nguyễn Hiến Lê dịch),
Nam hoa kinh, Nxb Văn Hóa - Thông Tin.

hội, phát huy trách nhiệm của nhà văn
trong việc bảo vệ môi trường và ngăn chặn
các nguy cơ sinh thái.

7.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.


6.

Bakhtin M. (1993), Những vấn đề thi pháp
Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử dịch), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
Cheryll Glotfelty, What is ecocriticism?,
/>l-library/intro/defining/glotfelty/
Cheryll Glotfelty & Harold Frommed
(1996), The
Ecocriticism
Reader:
Landmarks in Literary Ecology, Athens:
The University of Georgia Press.
Đỗ Văn Hiểu (2012), “Phê bình sinh thái –
khuynh hướng văn học mang tính cách tân”,
Tạp chí Sông Hương, (số 285, tháng 11/2012).
Lại Quốc Khánh, Quan niệm về “trí tuệ”
trong triết học Trung Quốc thời kỳ Tiên Tần
truy cập tại />Karen Thornber, Ecocriticism (Tài liệu
thuyết trình tại Viện Văn học, 2011)

Ngày nhận bài: 11/05/2015

13. 刘文良, 生态批评的后现代特征, http://www.
doc88.com/p876105351337.html
14. 王诺, 生态批评:发展与渊源, http://www.
cnki.com.cn/Article/CJFDTotalWYYJ20020
3004.htm (文艺研究,2002第3期).
15. 袁霞, 生态批评:定义, 发展趋向及在中国

的接受, />aspx?issueID=159&articleID=3117

Biên tập xong: 15/01/2016

11

Duyệt đăng: 20/01/2016



×