KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
PHÂN CẤP QUẢN LÝ, KHAI THÁC CÔNG TRÌNH THỦY LỢI VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG: MỘT TI ẾP CẬN DỰA TRÊN NHẬN
THỨC CẤP CỘNG ĐỒNG
Nguyễn Đức Việt, Nguyễn Văn Tỉnh,
Lê Văn Chính
Tổng cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Tóm tắt: Phân cấp quản lý, khai thác công trình thủy lợi là cần thiết để xác định rõ vai trò, trách
nhiệm giữa khu vực Nhà nước (các cấp) và khu vực Tư nhân; đây cũng là cơ sở thúc đẩy xã hội hóa
công tác thủy lợi. Tuy nhiên, với các căn cứ phân cấp hiện có như loại hình công trình, quy mô công
trình, mức độ phức tạp của công trình, địa giới hành chính hoặc diện tích tưới tiêu là khá cứng nhắc
và chưa phù hợp để áp dụng cho những vùng đặc thù như đồng bằng sông Cửu Long, chủ yếu tưới,
tiêu tự chảy trên hệ thống lớn và còn có tính mở. Bài báo giới thiệu một phương pháp tiếp cận mới,
theo hướng “từ dưới lên”, dựa trên cơ sở là nhận thức cấp cộng đồng để phân cấp quản lý, khai thác
và bảo vệ công trình thủy lợi. Nguyên tắc nhận thức cấp cộng đồng (được hiểu là khu vực Tư nhân)
đến đâu thì Nhà nước rút dần vai trò đến đó, đây cũng phù hợp với cơ chế thị trường trong sản xuất
nông nghiệp hàng hóa có sử dụng dịch vụ thủy lợi của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Từ khóa: phân cấp công trình thủy lợi, quản lý vận hành, công trình thủy lợi, hệ thống tưới
tiêu, nhận thức cấp cộng đồng.
Summary: Decentralize the management and exploitation of irrigation works is necessary to
clearly define the roles and responsibilities between the State sector and Private sector; which is
also a basis for promoting socialization of irrigation works. However, with the existing types of
decentralization such as type of works, size of works, complexity of works, administrative
boundaries or irrigated area is quite rigid and inappropriate to apply to specific regions as the
Mekong Delta, irrigation is mainly distributed by gravity over large-scale systems and without
border. The paper introduce a new methodological approach, towards "bottom-up", based on
the community-level awareness to implement decentralize the management and exploitation of
irrigation works. Principle is community-level awareness (as the Private sector) to where, the
roles of the State to get there, which is appropriate to the market mechanism in agriculture
production used irrigation services in the Mekong Delta.
Keywords: hydraulic works decentralization, operation and management, hydraulic works,
irrigation systems, community-level awareness.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
*
Toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) hiện có: 12 hồ chứa, 160 đập dâng
tạm; 1.414 trạm bơm vừa, lớn và hàng nghìn
trạm bơm nhỏ; 14.322 km kênh trục cấp 1,
28.175 km kênh cấp 2 và 24.686 km kênh
cấp 3 và nội đồng (TCTL, 2013); đặc thù về
hệ thống thủy lợi (HTTL) của vùng là các
công trình thủy lợi (CTTL) nằm xen kẽ trong
mạng lư ới sông ngòi tự nhiên chằng chịt.
Các CTTL trên đảm bảo diện tích tưới thực
tế đạt 1.9 triệu lượt ha, chiếm hơn 70% diện
tích đất nông nghiệp toàn vùng.
Ngày nhận bài: 31/12/2015
Ngày thông qua phản biện: 19/2/2016
Ngày duyệt đăng: 20/4/2016
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 32 - 2016
1
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
Hình 1.1. Bản đồ hệ thống thủy lợi vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nguồn: NĐ.Việt (TCTL) và TN.Thắng (IWE), 2016
Trải qua 70 năm đầu tư và phát triển HTTL
cho các vùng trên cả nước, hiệu quả quản lý
khai thác (QLKT) CTTL hiện vẫn còn thấp,
mức tưới ước đạt 65%; riêng vùng ĐBSCL là
khoảng 55% (TCTL 2014). Đối với vùng
ĐBSCL, nguyên nhân do trong quá trình xây
dựng các Tổ chức quản lý thủy lợi chưa nghiên
cứu sâu, chưa tính đến các điều kiện đặc thù
HTTL của vùng dẫn đến các tổ chức hoạt động
kém hiệu quả, bền vững.
Các HTTL, CTTL vùng ĐBSCL hiện được
quản lý bởi 08 đơn vị QLKTCTTL thuộc khu
vực Nhà nước với tổng số 1.400 cán bộ, công
nhân; ít hơn 10 lần so với vùng ĐBSH (14.779
người), trong khi diện tích được tưới bởi
CTTL lớn gấp 2,7 lần vùng ĐBSH (0,7 triệu
hecta). Trong đó, số cán bộ tại Chi cục thủy lợi
là 400 người; số cán bộ, công nhân tại đơn vị
QLKTCTTL là 1.000 người.
Theo đánh giá hiệu quả hoạt động của các
CTTL trên cả nước (thông qua bộ chỉ số
2
Benchmaking1) do Tổng cục Thủy lợi, Bộ
Nông nghiệp và PTNT thực hiện năm 2014,
thể hiện tại hình 1.2.
Kết quả cho thấy tại ĐBSCL (hoặc vùng Tây
Nam Bộ): 01 cán bộ thủy lợi phụ trách tưới
cho hơn 4.600 ha đất SXNN, thậm chí có tỉnh
hơn 10.000 ha như Vĩnh Long. Những con số
này phản ánh một thực tế là công tác
QLKTCTTL của vùng ĐBSCL hiện còn bỏ
ngỏ do thiếu sự quan tâm trong xây dựng tổ
chức QLKTCTTL của các cấp chính quyền
hoặc nếu có tổ chức thì cũng thiếu nguồn
nhân lực quản lý (tại các công ty, trạm,
huyện, xã).
Tại vùng ĐBSCL, nguyên nhân làm cho hiệu
quả thấp ở các CTTL là do yếu tố thể chế hơn
là yếu tố kỹ thuật (VAWR 2010), lý do là
nguồn lự c của Nhà nước còn có hạn, các Tổ
chức quản lý thủy lợi của Nhà nước mới chỉ
1
Quy ết định số 3511/QĐ-BNN-TCTL ngày 31/8/2015
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 32 - 2016
KHOA HỌC
quản lý được một số CTTL đầu mối (trạm bơm,
cống, bọng ngăn mặn…); từ đầu mối đến mặt
ruộng hiện vẫn tồn tại một khoảng trống trong
CÔNG NGHỆ
công tác quản lý, đặc biệt là hệ thống kênh,
mương nội đồng; rất khó để xác định được chủ
thể quản lý, vận hành và bảo vệ công trình.
Hình 1.2. Biểu đồ thống kê diện tích tưới bình quân do một lao động của
Tổ chức quản lý thủy lợi phụ trách.
Hậu quả, nhiều CTTL tại ĐBSCL không có
chủ thể quản lý gây lãng phí đầu tư, thất thoát
nghiêm trọng nguồn nước tưới. Yêu cầu xây
dựng và kiện toàn các tổ chức quản lý thủy lợi,
đặc biệt là các Tổ chức quản lý, khai thác công
Hình 1.3. Cống điều tiết nước bị bỏ hoang tại
tỉnh Sóc Trăng
Tuy nhiên, vấn đề khó khăn gặp phải khi xây
dựng hoặc kiện toàn một Tổ chức quản lý thủy
lợi vùng ĐBSCL là việc thực hiện phân cấp
QLKTCTTL. M ặc dù tại Thông tư số
65/2009/TT-BNN về “Hướng dẫn tổ chức hoạt
trình thủy lợi (sau đây gọi tắt là Tổ chức quản
lý thủy lợi) liên tỉnh trong vùng như Quản LộPhụng Hiệp, Ô M ôn- Xà No, Bắc Vàm Nao...
ngày càng trở lên cấp thiết.
Hình 1.4. Kênh mương thủy lợi nội đồng tại
tỉnh Cà Mau
động và phân cấp quản lý, khai thác công trình
thủy lợi” có đưa ra một số căn cứ để phân cấp
là diện tích tưới và quy mô công trình. Nhưng
trên thực tế, nếu chỉ sử dụng các căn cứ phân
cấp trên để áp dụng cho nhưng nơi có các
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 32 - 2016
3
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
HTTL đặc thù như vùng ĐBSCL là khá cứng
nhắc và chưa phù hợp, cụ thể là: (i) chưa phù
hợp với đặc thù của các HTTL vùng ĐBSCL;
(ii) chưa tính đến các yếu tố thị trường; (iii)
chưa khuyến khích, thúc đẩy xã hội hóa công
tác thủy lợi (VIWARDA 2013).
Do vậy, ngành khoa học thủy lợi cần có một
nghiên cứu chuyên sâu nhằm tìm kiếm thêm
cơ sở phân cấp QLKTCTTL, làm cơ sở để xây
dựng Tổ chức quản lý thủy lợi vùng ĐBSCL
đáp ứng được các tiêu chí hoạt động: (i) hiệu
quả; (ii) bền vững; (iii) linh hoạt.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Xác định vấn đề còn tồn tại trong quá trình
thực hiện phân cấp QLKTCTTL chưa được
giải quyết, cần tiếp tục nghiên cứu.
- Xây dựng phương pháp luận để thực hiện
phân cấp QLKTCTTL theo quan điểm nhận
thức cấp cộng đồng.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp kế thừa tài liệu: tìm kiếm các
tài liệu dựa trên các từ khóa có liên quan đến
chủ đề nghiên cứu.
- Phân tích tài liệu thu thập được: xem xét
phạm vi, nội dung của các vấn đề mà nghiên
cứu đề cập, kết hợp trích dẫn bằng phần mềm
M endeley.
- Phương pháp tư duy logic, tư duy trừu tượng
và duy vật biện chứng: được sử dụng trong các
phân tích và đánh giá để đưa ra những nhận
định và đề xuất ban đầu.
- Phương pháp chuyên gia: tham vấn những
chuyên gia đầu ngành thuộc lĩnh vực thủy lợi,
KH-XH& NV, triết học, tổ chức nhà nước…
4. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Tại sao cần phân cấp quản lý khai thác công
trình thủy lợi?
Khái niệm Tổ chức quản lý thủy lợi: là một
khối thống nhất, bao gồm các đơn vị, bộ phận4
có thể thuộc khu vực Nhà nước hoặc khu vực
Tư nhân- có mối quan hệ vừa độc lập, vừa phụ
thuộc được chuyên môn hóa, được phân cấp
quản lý, quyền hạn, quyền lợi nhất định; được
bố trí theo từng cấp để cùng thực hiện tốt
nhiệm vụ QLKT, vận hành CTTL một cách
khoa học và hợp lý (ĐN.Hạnh 2015).
Khái niệm phân cấp QLKTCTTL: là cơ sở để
chuyển giao các CTTL được xây dựng bằng
ngân sách Nhà nước cho tổ chức hoặc cá nhân
quản lý, khai thác và bảo vệ, đồng thời quy
định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn của các
cấp, các ngành trong quản lý thủy lợi. Phân
cấp QLKTCTTL đảm bảo sự đồng bộ khép kín
về công tác quản lý, làm tốt chức năng cầu nối
giữa khu vực Nhà nước với các khu vực Tư
nhân về các dịch vụ cung ứng nước tưới liên
quan, giúp người dùng nước sử dụng nước
hiệu quả (TC. Trung 2009).
Để một Tổ chức quản lý thủy lợi hoạt động
hiệu quả, bền vững cần được xây dựng dựa
trên 03 yếu tố chính là: (i) nhiệm vụ- trách
nhiệm; (ii) nhân lực; (iii) tài chính. Trong đó,
thực hiện phân cấp QLKTCTTL hợp lý sẽ xác
định được nhiệm vụ- trách nhiệm phù hợp cho
từng cá nhân/ đơn vị/ bộ phận một cách rõ
ràng, cụ thể trước khi bắt đầu xây dựng một tổ
chức (ISOS 2010). Tiếp theo, căn cứ trên các
nhiệm vụ đó sẽ xác định được nguồn nhân lực,
kèm theo là nguồn tài chính cần thiết và đủ để
thực hiện nhiệm vụ đó.
Điểm chung ở cả tổ chức công ích và tổ chức
sản xuất đó là đều mong muốn đạt được hiệu
quả lợi ích hoạt động và lợi nhuận sản xuất là
cao nhất; như ng với chi phí đầu tư về nhân lực
và tài chính là thấp nhất. Do vậy, để đạt kết
quả mong muốn này việc thực hiện phân công
trách nhiệm phù hợp với năng lực của từng
đơn vị/ bộ phận/ cá nhân trong Tổ chức quản
lý thủy lợi đó là hết sức cần thiết (WB 2008).
M ột số ưu điểm đã được thực tiễn chứng minh
sau khi phân cấp QLKTCTTL để làm cơ sở
thực hiện chuyển giao tưới cho các Tổ chức
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 32 - 2016
KHOA HỌC
quản lý thủy lợi ở các nước trên thế giới là:
- Tổ chức quản lý thủy lợi hoạt động hiệu quả
và bền vững hơn.
- Quản lý nước tưới hiệu quả, bền vững và
công bằng hơn.
- Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả quản lý
CTTL ở địa phương.
- Tự chủ cao hơn, giảm gánh nặng tài chính
đối với Chính phủ.
- Tạo cạnh tranh giữa khu vực Nhà nước và
khu vực Tư nhân để đáp ứng cho nhu cầu của
địa phương.
Chính vì vậy, từ thập niên 1980 đến giữa thập
niên 1990, thống kê có đến 63 nước phát triển
và đang phát triển đã bắt tay vào thực hiện
phân cấp QLKTCTTL (Agrawal và Ribot
1999). Tại Việt Nam, cũng đã có 42/63 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng đề
án phân cấp QLKTCTTL theo hướng dẫn tại
Thông tư số 65/2009/TT-BNNPTNT ngày
12/10/2009 của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
Những căn cứ nào để phân cấp QLKTCTTL?
Các mô hình Tổ chức quản lý thủy lợi trên thế
giới và Việt Nam thường sử dụng một trong
các cơ sở phân cấp QLKTCTTL như sau:
- Loại hình công trình (đầu mối, nội đồng...).
- Quy mô công trình thủy lợi (dung tích, chiều
cao...).
- Mức độ phức tạp của CTTL (vận hành trạm
bơm, kênh, cống...).
- Địa giới hành chính (tỉnh, huyện, xã...).
2
- Đơn vị diện tích tưới (hecta, km …).
Các căn cứ trên nhằm mục đích phân cấp quản
lý CTTL giữa khu vực Nhà nước và khu vực
Tư nhân; nói cách khác là để xác định rõ hơn
ranh giới trách nhiệm giữa 02 khu vực này.
Tại Việt Nam, nội dung về phân cấp
QLKTCTTL đã được quy định trong các Văn
CÔNG NGHỆ
bản pháp luật ngành thủy lợi, bao gồm: Pháp
lệnh Khai thác và bảo vệ CTTL (2001), Nghị
định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của
Chính phủ và Thông tư số 65/2009/TTNNPTNT ngày12/10/2009 của Bộ NN&PTNT
(TT65). Nhằm giảm gánh nặng cho N gân sách
nhà nước và nâng cao hiệu quả công trình tại
TT65 đã hướng dẫn thực hiện phân cấp
QLKTCTTL cho các chủ thể là TCHTDN, hộ
gia đình, cá nhân theo các tiêu chí như sau: (i)
Hồ chứa (≤ 01 triệu m3 hoặc chiều cao đập ≤
12m); (ii) Đập dâng (chiều cao đập ≤ 10m);
(iii) Trạm bơm điện (từ 100- 500ha); (iv) Kênh
mương (diện tích phục vụ ≤ 500ha); (v) Cống
đầu kênh (từ 50- 400ha). Căn cứ phân cấp theo
quy mô công trình, diện tích cũng được áp
dụng tại một số nước có nền nông nghiệp
truyền thống khác trong khu vực Châu Á như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan,
Philippine, Indonexia.
M ột số tồn tại của các căn cứ phân cấp
QLKTCTTL hiện có:
Sau một thời gian, rà soát hiệu quả hoạt động
của các Tổ chức quản lý thủy lợi ở trong và
ngoài nước nhận thấy một số nhược điểm, nổi
cộm là vấn đề xung đột nhiệm vụ, tài chính
giữa Nhà nước và các tổ chức quản lý tưới
thuộc khu vực Tư nhân (Garces-Restrepo et al.
2007; TCTL 2014). Sự đổ vỡ cam kết này của
các bên liên quan thường xuất hiện khi các
CTTL bị xuống cấp, nguyên nhân là:
- Thiếu cơ sở khoa học để thực hiện phân cấp
QLKTCTTL; tại Việt Nam có đến 21/63 tỉnh
chưa thực hiện được phân cấp theo TT65, tập
trung chủ yếu tại các tỉnh có CTTL nhỏ lẻ,
manh mún như vùng Trung du MN phía Bắc
và ĐBSCL.
- Phân công trách nhiệm vận hành, duy tu, bảo
dưỡng CTTL giữa các khu vực Nhà nước và
khu vực Tư nhân còn thiếu rõ ràng, chưa đồng
bộ, chồng chéo, chưa cụ thể và hợp lý; ví dụ
tại Cà M au, Chi cục thủy lợi kiêm luôn chức
năng QLKTCTTL dẫn đến không đủ nguồn
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 32 - 2016
5
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
lực để quản lý và hầu như không vận hành.
- Việc phân cấp quản lý, khai thác CTTL được
căn cứ theo địa giới hành chính gây khó khăn
trong công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng
công trình, nhất là các tuyến kênh đi qua nhiều
đơn vị hành chính huyện, xã.
- Cộng đồng địa phương mặc dù đã được trao
quyền quản lý một số CTTL nhưng không phù
hợp với nhận thức và trình độ của họ.
- Thực tiễn cho thấy phân cấp QLKTCTTL ở
các tỉnh vùng ĐBSCL chủ yếu nhằm xác định
chủ đầu tư khi có dự án nạo vét, nâng cấp (có
nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước) hơn là làm
cơ sở để các cấp chính quyền quan tâm xây
dựng tổ chức quản lý vận hành khai thác hiệu
quả (ĐN Hạnh 2015).
5. QUAN ĐIỂM MỚI TRONG PHÂN CẤP
QLKTCTTL
Khác với quan điểm sử dụng cơ sở phân cấp
như hiện có để xây dựng Tổ chức quản lý thủy
lợi. Các học giả về chính sách và hành chính
công cho rằng: “Phân cấp quản lý có thể được
thiết lập dựa trên hành vi con người theo các
phương pháp tiếp cận khác nhau như nhận
thức, hành động”. Quan điểm sử dụng hành vi
con người, cụ thể là nhận thức con người như
là một cơ sở khoa học để thực hiện phân cấp
QLKTCTTL là mới và chưa có bất kỳ nghiên
cứu chuyên sâu nào ở trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, nhận định các đối tượng sử dụng
nước như (WUs, TCHTDN…) là một phần
không thể thiếu của một HTTL, chính họ hàng
ngày đang tác động trực tiếp đến HTTL thông
qua các biện pháp canh tác nông nghiệp và
thực tiễn thủy lợi của họ (Kielen 1996). Vì
vậy, nhận định rằng việc cung cấp, chia sẻ các
kết quả đánh giá hiện trạng CTTL cho nông
dân và WUs/ TCHTDN về các kiến thức liên
quan đến quản lý, khai thác, vận hành và bảo
dưỡng các CTTL để họ có thể cải thiện nhận
thức của họ kết hợp thêm những kiến thức bản
địa sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
6
của các CTTL hiện có (Guba và Lincoln 1989;
Sagardoy 2007; Ghazouani, et al, 2009;
Chaponnière 2012).
Ngay cả với những loại mô hình Tổ chức quản
lý thủy lợi như “tư nhân hóa HTTL”, “đối tác
công-tư (PPP)” và “quản lý có sự tham gia
(PIM )” cũng phải hiểu là “không phải tất cả
các công trình, các nhiệm vụ quản lý, vận hành
và bảo dưỡng đều được chuyển giao cho cộng
đồng địa phương” (Sneddon & Fox 2007;
Rusten et al. 2007). Như vậy, nó cần dựa trên
kết quả nghiên cứu xã hội học nghiên cứu làm
thế nào để người sử dụng nước (WUs)/
TCHTDN tham gia đến đâu là thực sự có hiệu
quả trong công tác QLKTCTTL (C. Chou; N.
Phirun; Isabelle W.; Phillip H. và Anna T.
2011).
Quan điểm mới sử dụng nhận thức CTTL cấp
cộng đồng như là một căn cứ để thực hiện
phân cấp có thể giúp chuyển đổi từ các giải
pháp kỹ thuật cứng nhắc sang cách kết hợp cùng
các phương pháp xã hội linh hoạt hơn để phân
định lại vai trò tham gia của WUs/ TCHTDN
trong công tác QLKTCTTL. Xác định được
nhận thức CTTL cấp cộng đồng, tức là xác định
được mức độ cao nhất mà WUs/ TCHTDN có
thể tham gia trong chuỗi các hoạt động quản lý,
khai thác và bảo vệ CTTL; giải quyết được
những nhược điểm vốn có của các căn cứ phân
cấp khác như tính phù hợp, linh hoạt và không
yêu cầu tính hệ thống của các công trình từ đầu
mối đến mặt ruộng. Đây có thể sẽ là lời giải cho
bài toán thực hiện phân cấp QLKTCTTL còn
nhiều bất cập tại vùng ĐBSCL.
6. ĐỀ XUẤT THỰC HIỆN PHÂN CẤP
QLKTCTTL THEO QUAN Đ IỂM NHẬN
THỨC CẤP CỘNG ĐỒNG
Qua khảo sát thực tế tại vùng ĐBSCL nhận
thấy: để thực hiện phân cấp QLKTCTTL theo
quan điểm nhận thức chỉ thực sự có ý nghĩa
khi chứng minh được vai trò nhận thức CTTL
cấp cộng đồng thực sự có tác động đến hiệu
quả QLKTCTTL.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 32 - 2016
KHOA HỌC
Như vậy, cần xác định mối tương quan giữa
hiệu quả CTTL cấp cộng đồng và hiệu quả
QLKTCTTL.
Nghiên cứu mối tương quan trên sẽ giúp xác
định chính xác những yếu tố nhận thức nào sẽ
góp phần tạo nên hiệu quả QLKTCTTL nói
riêng và tính bền vững của cả Tổ chức quản lý
thủy lợi nói chung. Trong bối cảnh tái cơ cấu
nền kinh tế, Nhà nước đang khuyến khích các
đơn vị/ doanh nghiệp thuộc khu vực Nhà nước
chuyển đổi từ mô hình bao cấp sang mô hình
CÔNG NGHỆ
mới có khả năng tự chủ hơn về tài chính. Do
vậy, căn cứ theo nhận thức CTTL cấp cộng
đồng đến đâu, Nhà nước sẽ xem xét giao trách
nhiệm đến đó, nhằm phát huy tối đa năng lực
của khu vực Tư nhân.
Sau khi nghiên cứu, phân t ích hiện trạng
thự c t ế vùng Đ BSCL kết hợp phư ơng pháp
thảo luận chuyên gia, đề xuất phư ơng
pháp t hực hiện phân cấp Q LKTCTTL theo
quan điểm nhận thứ c CTTL cấp cộng đồng
như s au:
Hình 6.1. Phương pháp xác định phân cấp QLKTCTTL theo quan điểm nhận thức
TTL cấp cộng đồng
Đánh giá được nhận thức CTTL cấp cộng
đồng thông qua các chỉ số [Quy định các chỉ
số này thuộc nhóm biến độc lập (NT)]. Bên
cạnh đó, nghiên cứu song song để xây dựng
các chỉ số đánh giá hiệu quả QLKTCTTL nội
đồng [Quy định các chỉ số này là nhóm biến
phụ thuộc (HQ)] (Chi tiết Hình 6.1).
Theo đó, sẽ có 02 nhóm chỉ số đánh giá, việc
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 32 - 2016
7
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
phân tích mối quan hệ tương quan giữa hai
nhóm chỉ số “Nhận thức - Hiệu quả” để trả lời
câu hỏi: “Nhận thức về CTTL cấp cộng đồng
có thực sự góp phần vào hiệu quả
QLKTCTTL không?”.
Cần có số liệu điều tra khảo sát, phỏng vấn tại
vùng nghiên cứu.
Bước tiếp theo, xử lý số liệu và bằng các
thuật toán trong phần mềm thống kê SP SS,
sàng lọc được những nhân tố về nhận thức
CTTL cấp cộng đồng có quyết định rõ nét
nhất tới hiệu quả sản xuất. Từ đó, xác định
các điểm nhận thức CTTL góp phần thực hiện
cao nhất hiệu quả sản xuất (nếu nhận thức đó
có hệ số kiểm định Cronbach's Alpha > 0.7);
sau đây gọi tắt là điểm nhận thức hiệu quả.
Tại mỗi điểm nhận thức hiệu quả, đề xuất
phân công trách nhiệm đối với từng loại hình
CTTL cho các đối tượng sử dụng nước đến
đâu là phù hợp nhất; nhiều điểm nhận thức
hiệu quả gọi là “ranh giới trách nhiệm” giữa
khu vực Nhà nước và khu vực Tư nhân. Đảm
bảo nguyên tắc xã hội hóa thủy lợi là: thực
hiện phân công trách nhiệm theo năng lực cao
nhất mà cấp cộng đồng có thể quản lý .
Từ ranh giới trách nhiệm tiến đến đề xuất
phân cấp nhiệm vụ QLKTCTTL theo từng
loại hình CTTL cho cấp cộng đồng tự chủ
quản lý, khai thác và bảo vệ. Những nhiệm vụ
ở trên mức nhận thức của cấp cộng đồng vẫn
sẽ do các đơn vị/ công ty khai thác CTTL
thuộc khu vực Nhà nước thực hiện quản lý.
Qua đó, sẽ có một giả thiết ở tương lai: khi
nhận thức của WUs/ TCHTDN đã cao hơn,
khả năng sẵn sàng tiếp nhận quản lý CTTL
của họ không chỉ dừng lại ở các CTTL nhỏ
(nội đồng) mà có thể đến các CTTL lớn. Khi
đó, việc Chính phủ ban hành một số chính
sách để khuyến khích WUs/ TCHTDN có thể
nhận thêm nhiệm vụ quản lý vận hành CTTL,
thì vai trò và quy mô của khu vực Nhà nước
8
sẽ thu hẹp dần do: (i) phân công bớt nhiệm
vụ QLKT s ang khu vực Tư nhân; (ii) nhiều
Công ty thuộc khu vự c N hà nư ớc s ẵn sàng
chuyển s ang khu vực Tư nhân để hoạt động
theo cơ chế đặt hàng, đấu thầu. Nếu vậy,
đây sẽ là một hướng đi đúng để giảm gánh
nặng cho ngân s ách Nhà nư ớc cho lĩnh vự c
thủy lợi; các mục tiêu xã hội hóa công tác
thủy lợi theo định hướng thị trường và tái
cơ cấu ngành thủy lợi s ẽ nhanh chóng đạt
được mà vẫn đảm bảo được tính hiệu quả,
bền vững của các Tổ chức quản lý thủy lợi
tại vùng ĐBSCL.
7. KẾT LUẬN
Xã hội hóa công tác thủy lợi với xu thế
chuyển giao dần vai trò QLKTCTTL từ khu
vực Nhà nước sang khu vực Tư nhân để thực
hiện nhiệm vụ cung ứng dịch vụ nước tưới đã
và đang được Chính phủ nhiều nước trên thế
giới trong đó có Việt Nam khuyến khích thực
hiện, đặc biệt đối với những khu vực theo
định hướng kinh tế thị trường như vùng
ĐBSCL.
Để xây dựng, kiện toàn, củng cố hệ thống Tổ
chức quản lý thủy lợi vùng Đ BSCL một cách
hiệu quả, bền vững theo định hướng xã hội
hóa, phù hợp xu hướng thị trường và mục tiêu
tái cơ cấu ngành thủy lợi cần phải có thêm
một cơ sở để phân cấp QLKTCTTL bên cạnh
những căn cứ đã có như: (i) loại hình công
trình; (ii) quy mô công trình; (iii) mức độ
phức tạp của công trình; (iv) địa giới hành
chính; (v) đơn vị diện tích thì nhận thức
CTTL cấp cộng đồng là cách tiếp cận mới để
thực hiện phân cấp, đây là một hướng đi mới
cần tiếp tục nghiên cứu.
Đề xuất bước nghiên cứu tiếp theo là xây
dựng các chỉ số cụ thể để đánh giá nhận thức
CTTL và hiệu quả QLKTCTTL cấp cộng
đồng, làm cơ sở xác định mối tương quan
giữa hai nhân tố này./.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 32 - 2016
CHUYỂN GIAO
CÔNG NGHỆ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Bộ Nông nghiệp và PTNT, Đề án nâng cao hiệu quả quản lý khai thác các hệ thống công
trình thuỷ lợi hiện có, 2014.
[2]
Nguyễn Đức Việt. Kết quả khảo sát thực địa các tỉnh Cà M au, Bạc Liêu và Sóc Trăng,
vùng ĐBSCL, 2014.
[3]
Trần Chí Trung. Đề tài: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và đề xuất chính sách phân cấp quản
lý khai thác công trình thuỷ lợi”, Trung tâm tư vấn PIM , 2009.
[4]
Đặng N gọc Hạnh. Đề tài: “Nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức và cơ chế chính sách phù
hợp cho hoạt động quản lý khai thác hệ thống công trình thuỷ lợi vùng ĐBSCL”, Viện
Kinh tế và quản lý thủy lợi, 2015.
[5]
Garces-Restrepo, M uñoz, Vermillion. Irrigation management transfer: worldwide efforts
and results, pp.159–167, 2007.
[6]
CAHRS, C.U.. Self-awareness is key for high-performing, Ithaca, N Y: CAHRS Research
Link No. 11, 2010.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 32 - 2016
9