Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn và vấn đề giáo dục học sinh phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.38 MB, 148 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NÔNG THỊ HUYỀN ANH

THEN TÀY Ở BA BỂ, BẮC KẠN
VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC HỌC SINH PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NÔNG THỊ HUYỀN ANH

THEN TÀY Ở BA BỂ, BẮC KẠN
VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC HỌC SINH PHỔ THÔNG
NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 8 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ MINH THU

THÁI NGUYÊN - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học “Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn và
vấn đề giáo dục học sinh phổ thông” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất cứ
công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn

Nông Thị Huyền Anh

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học, Ban chủ nhiệm, quý thầy, cô giáo khoa Ngữ
văn trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên và quý thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy,
giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Tác giả xin chân thành cảm ơn: Đảng ủy - UBND, phòng Văn hóa thông tin,
phòng Thống kê huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, lãnh đạo, giáo viên, học sinh các trƣờng
THPT Ba Bể, THCS Bành Trạch, PTDTNT Ba Bể và cá nhân các ông (bà) Hoàng
Đức Dục, Dƣơng Quang Thục, Ma Văn Trực, Lộc Thị Nự, Lã Văn Trƣờng, ... đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô hƣớng dẫn: PGS.TS.
Nguyễn Thị Minh Thu, ngƣời đã luôn tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời
gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả cảm ơn tập thể lớp cao học K26 Bắc Kạn chuyên ngành Ngữ văn
trƣờng ĐHSP Thái Nguyên đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập và thực hiện
luận văn.

Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, ngƣời thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả để hoàn thành luận văn này.

Tác giả

Nông Thị Huyền Anh

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 8
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................................... 9
6. Những đóng góp của luận văn ................................................................................ 10
7. Bố cục của luận văn ................................................................................................ 10
NỘI DUNG ................................................................................................................ 11
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI TÀY, THEN TÀY Ở BA BỂ, BẮC
KẠN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN .................................................................. 11
1.1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội, đời sống văn hóa của ngƣời Tày ở Ba
Bể, Bắc Kạn ................................................................................................................ 11
1.1.1. Điều kiện tự nhiên............................................................................................. 11
1.1.2. Đặc điểm lịch sử ............................................................................................... 14
1.1.3. Đời sống văn hóa - xã hội ................................................................................. 17

1.2. Khái quát về Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn........................................................... 23
1.2.1. Khái niệm, nguồn gốc ....................................................................................... 23
1.2.2. Quá trình phát triển ........................................................................................... 28
1.2.3. Phân loại ........................................................................................................... 29
1.2.4. Diễn xƣớng Then Tày ....................................................................................... 31
1.3. Vai trò của văn hóa, văn học trong việc giáo dục học sinh ................................. 37
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................... 40
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA THEN TÀY Ở BA BỂ,
BẮC KẠN .................................................................................................................. 41

iii


2.1. Nội dung của Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn ......................................................... 41
2.1.1. Then Tày phản ánh đời sống của ngƣời Tày .................................................... 41
2.1.2. Then ca ngợi phẩm chất tốt và phê phán những thói xấu ................................. 48
2.2. Nghệ thuật Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn ............................................................. 61
2.2.1. Thể thơ .............................................................................................................. 61
2.2.2. Ngôn ngữ .......................................................................................................... 66
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................................... 73
Chƣơng 3: THEN TÀY Ở BA BỂ, BẮC KẠN VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
HỌC SINH PHỔ THÔNG ....................................................................................... 74
3.1. Thực trạng giáo dục học sinh phổ thông ở Ba Bể qua Then Tày ........................ 74
3.1.1. Kết quả khảo sát ................................................................................................ 74
3.1.2. Những mặt tích cực........................................................................................... 81
3.1.3. Một số hạn chế .................................................................................................. 82
3.2. Đề xuất hoạt động giáo dục Then Tày cho học sinh phổ thông ở huyện Ba
Bể, tỉnh Bắc Kạn ......................................................................................................... 83
3.2.1. Cơ sở, nguyên tắc, quy trình ............................................................................. 83
3.2.2. Đề xuất hoạt động giáo dục: Thành lập “Câu lạc bộ hát Then và đàn

Tính” ở trƣờng THPT Ba Bể ...................................................................................... 87
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................................... 92
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 97
PHỤ LỤC

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí do khoa học
Đất nƣớc Việt Nam với 54 dân tộc anh em đã rất tự hào vì vốn văn hóa truyền
thống vô cùng phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc mang trong mình những giá trị văn
hóa, phong tục, tập quán,… riêng không thể trộn lẫn. Dân tộc Tày cũng đã có những
giá trị vật chất, tinh thần mang đậm bản sắc của dân tộc mình. Đó chính là sắc áo
chàm, nếp nhà sàn, những câu hát Sli, hát Lƣợn, hát Then,…vô cùng đặc sắc. Trong
đó, Then là một di sản vô cùng quý giá phản ánh đời sống tín ngƣỡng, đời sống hiện
thực, tâm tƣ, tình cảm của dân tộc Tày. Trong đời sống xã hội của ngƣời Tày từ xƣa
tới nay, Then Tày vẫn luôn đƣợc ngƣời dân tộc Tày gìn giữ, phát triển. Then đƣợc sử
dụng trong rất nhiều hoạt động nhƣ trong các nghi lễ cầu cúng chữa bệnh, giải hạn,
đầy tháng, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, lễ hội lồng tồng, văn nghệ, vui chơi,… Song vì
nhiều nguyên nhân mà Then Tày chƣa đƣợc phổ biến rộng rãi. Nguy cơ một kho tàng
văn hóa dân tộc quý giá của dân tộc Tày bị mai một dần là không thể tránh khỏi trong
thời đại xã hội hiện nay. Bởi vậy, việc bảo tồn và phát triển các làn điệu Then Tày là
một việc làm rất cần thiết không chỉ của các cấp chính quyền, địa phƣơng mà còn của
chính những ngƣời dân.
Tỉnh Bắc Kạn là một tỉnh phía Đông Bắc nƣớc ta, nơi có số ngƣời dân tộc Tày
chiếm đa số, cũng đƣợc đánh giá là một cái nôi của những khúc hát Then. Then của
ngƣời Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn hiện còn đƣợc bảo tồn khá phong phú qua nhiều

hình thức nhƣ ghi chép bằng chữ viết Tày, thông qua hoạt động nghi lễ, thờ cúng, lễ
hội, hoạt động ca hát,…
Xét từ góc độ văn học, lời Then là di sản văn học dân gian rất tiêu biểu của
dân tộc Tày. Việc nghiên cứu về Then Tày hiện đại ở Ba Bể và vấn đề giáo dục học
sinh phổ thông ở huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn chính là tìm hiểu sâu sắc về di sản văn
học dân gian đó của tộc ngƣời Tày ở một địa bàn văn hóa tiêu biểu và mối liên hệ
giữa di sản văn hóa đó với vấn đề giáo dục học sinh ở các trƣờng phổ thông trong địa
bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, để từ đó nâng cao ý thức bảo tồn và phát triển Then
Tày hiện đại nói riêng, các loại hình nghệ thuật dân gian dân tộc thiểu số nói chung ở
học sinh phổ thông của huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.

1


1.2. Lí do thực tiễn
Qua một thời gian tìm hiểu về Then Tày, chúng tôi nhận thấy bên cạnh Then
Tày nói chung, Then Tày của tỉnh Bắc Kạn cũng luôn giữ vị trí, quan trọng trong đời
sống tinh thần của ngƣời dân. Bởi thế mà cũng đã nhận đƣợc sự quan tâm nhất định
của những cá nhân, tổ chức tìm hiểu, nghiên cứu. Một số nhà nghiên cứu dân gian đã
cố công sƣu tầm và biên soạn thành công trình khoa học có giá trị. Trong đó, Then
Tày ở Ba Bể hiện nay lại càng đƣợc Đảng và chính quyền quan tâm sâu sắc, đã và
đang thực hiện nhiều hoạt động thiết thực để bảo tồn và phát huy thể tài văn hóa phi
vật thể có giá trị này. Bên cạnh đó, nhiều nghệ nhân hát Then cũng rất có ý thức trong
việc lƣu truyền, phát triển Then Tày nhƣ: sƣu tầm Then cổ, đặt lời Then lời mới,
truyền dạy cho các thế hệ kế cận, sinh hoạt trong những câu lạc bộ hát Then đàn tính,
…. Đó cũng chính là một hình thức rất hữu ích để có thể lƣu giữ đƣợc những giá trị
văn hóa dân gian của dân tộc. Vì vậy phong trào hát Then ở huyện Ba Bể, tỉnh Bắc
Kạn tƣơng đối phát triển, đặc biệt là Then lời mới. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy
rằng, cho tới hiện nay vẫn chƣa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về
nội dung và nghệ thuật của loại hình Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn một cách chuyên

biệt, có tính hệ thống và vấn đề đƣa Then Tày vào việc giáo dục học sinh ở các
trƣờng phổ thông, để từ đây những giá trị văn hóa phi vật thể phong phú của ngƣời
Tày đƣợc phát triển sâu rộng hơn, có sự lan tỏa rộng rãi hơn.
Bên cạnh đó, tác giả luận văn lại là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn
ở huyện Ba Bể, ngƣời dân tộc Tày, sinh ra trên chính quê hƣơng Bắc Kạn. Bởi vậy
mà hoạt động nghiên cứu Then Tày ở huyện Ba Bể, Bắc Kạn còn có ý nghĩa thiết
thực hơn là sẽ phục vụ trực tiếp cho bản thân trong phần giảng dạy văn học địa
phƣơng theo chƣơng trình Giáo dục phổ thông mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Hơn nữa, qua việc tìm hiểu về Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn, chúng tôi hi vọng
có thể góp một phần nhỏ bé của mình trong việc khẳng định, giữ gìn và phát huy tốt
hơn nữa những giá trị văn hóa quý báu của dân tộc Tày tại địa phƣơng nơi mình sinh
sống và làm việc.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn
và vấn đề giáo dục học sinh phổ thông làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.

2


2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về Then Tày nói chung
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nƣớc đã có sự quan tâm đặc biệt tới
việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa, văn học của các dân tộc trên khắp dải đất
hình chữ S. Đặc biệt, trong thời kì xã hội đang đứng trƣớc xu thế hiện đại hóa, hội nhập
thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
đang có nguy cơ mai một dần thì vấn đề gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống của các dân tộc nói chung, của dân tộc Tày nói riêng là một vấn đề rất
cần thiết. Là một thể loại trong kho tàng văn hóa, văn học dân gian của dân tộc Tày, từ
lâu hát Then đã nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, sƣu tầm. Then Tày ở
Việt Nam rất phong phú nhƣng nhắc đến Then Tày, các nhà sƣu tầm, nghiên cứu và
những ngƣời yêu thích Then nghĩ ngay đến vùng Việt Bắc - nơi từ lâu đƣợc coi là cái

nôi của văn hóa, văn học dân gian Tày. Then phát triển hầu hết ở các tỉnh thuộc vùng
Việt Bắc nhƣ Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn và Bắc Kạn. Làn điệu
Then của ngƣời Tày ở vùng Việt Bắc trong đó có Bắc Kạn đã góp phần không nhỏ
trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Giai đoạn trƣớc năm 1945, có thể do hoạt động nghiên cứu, phê bình văn học
chƣa phát triển nên hầu nhƣ không có những công trình sƣu tầm, nghiên cứu cụ thể
về loại hình Then. Nhƣng từ sau năm 1945, đã xuất hiện một số công trình nghiên
cứu về Then và có xu thế tăng dần cả về số lƣợng và chất lƣợng.
Trƣớc tiên cần kể tới cuốn Lời hát Then của tác giả Dƣơng Kim Bội. Đây có
thể coi là cuốn sách đầu đề cập tới lời hát Then ở dạng nguyên bản tiếng Tày. Trong
cuốn sách này, tác giả đã định nghĩa “Then là loại hình văn học - nghệ thuật tổng
hợp, vì diễn xƣớng Then gồm có đàn, hát, múa và trang trí” [3, tr.59]. Ngoài ra, công
trình này cũng tìm hiểu về những khía cạnh khác của Then nhƣ mặt văn nghệ, làn
điệu âm nhạc và các động tác múa sử dụng trong Then. Theo quan điểm của tác giả
Dƣơng Kim Bội, các bài hát Then có nội dung chủ yếu là thể hiện lòng lạc quan, tin
tƣởng vào cuộc sống bình dị của nhân dân lao động. Cuốn sách cũng đã góp phần nào
trong việc khẳng định vai trò và giá trị của hát Then đối với đời sống của ngƣời dân
tộc Tày. Ta có thể nhận thấy đây là một công trình nghiên cứu có giá trị về văn học

3


dân gian. Tuy vậy, trong cuốn sách này, tác giả cũng mới trích dịch đƣợc một phần
nhỏ trong phần phụ lục chứ chƣa chú ý dịch sang tiếng phổ thông đƣợc nhiều. Mặt
khác, công trình nghiên cứu này còn chƣa bao quát đƣợc giá trị phần lời của Then
Tày cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
Trong cuốn Mấy vấn đề về Then Việt Bắc - một công trình nghiên cứu có tập
hợp những bài viết về Then ở phạm vi rộng và nhiều khía cạnh - của nhiều tác giả, ta
có thể thấy đƣợc nhiều khía cạnh của Then đƣợc đề cập tới trong các bài viết nhƣ
nguồn gốc, loại hình, nghệ thuật diễn xƣớng, tín ngƣỡng, hiện thực sinh hoạt, ….

Trong đó, bài viết của nhà nghiên cứu Lê Chí Quế với tiêu đề Bước đầu tìm hiểu
những yếu tố hiện thực sinh hoạt và yếu tố tín ngưỡng nghi lễ đã có những nhận
định khá sâu sắc. Tác giả đã khẳng định về mối liên hệ giữa hai yếu tố hiện thực sinh
hoạt và tín ngƣỡng ở trong Then: “hiện thực sinh hoạt và tín ngƣỡng là hai yếu tố
quan trọng trong hát Then” [23, tr.112].
Ở cuốn Lễ cầu tự của người Tày ở Cao Bằng của tác giả Triệu Thị Mai, quan
điểm thể hiện sự tin tƣởng ở thế giới thần linh trong việc chữa bệnh và cầu tự của ngƣời
Tày dù trong đời sống ngày nay khoa học đã phát triển đƣợc nêu ra rất rõ [20, tr.79].
Còn ở cuốn Then Tày của nhà Nghiên cứu Nguyễn Thị Yên cũng đã giúp
ngƣời đọc có đƣợc cái nhìn khá toàn diện về Then Tày. Tác giả đã có sự khái quát,
nhìn nhận, đánh giá về Then, đã mô tả diễn biến của một buổi lễ Then cấp sắc với đầy
đủ các bƣớc, đoạn, chƣơng trong Then cấp sắc qua lễ cấp sắc cho ông Nguyễn Văn
Ngời trú tại bản Phú Nà, xã Tự Do, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Ngoài những công trình đã kể ở trên, còn có những công trình nghiên cứu khác
về Then đã đƣợc xuất bản nhƣ:
- Nông Quốc Thắng (1977), Quá trình chuyển hóa của Then và các yếu tố hiện
thực trong Then, Tạp chí văn học số 3.
- Dƣơng Kim Bội (1987), “Những yếu tố dân ca, ca dao trong lời Then” (Tày,
Nùng), Tạp chí Dân tộc học (số 2, tr.14-21)
- Hoàng Tuấn Cƣ, Vi Quốc Đinh, Nông Văn Tƣ, Hoàng Hạc (1994), Then
bách điểu, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
- Lục Văn Pảo (1996), Bộ Then tứ Bách, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

4


- Triều Ân, Hoàng Hƣng, Dƣơng Nhật Thanh, Nông Đức Thịnh (2000), Then
Tày, những khúc hát, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
- Nông Thị Nhình (2000), Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày, Nùng, Dao
Lạng Sơn, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

- Hà Đình Thành (2000), “Then của ngƣời Tày - Nùng với tín ngƣỡng tôn giáo
dân gian”, Tạp chí văn hóa nghệ thuật (số 5, tr 35 - 39).
- Ngô Đức Thịnh (2002), “Then - một hình thức Shaman của Dân tộc Tày ở
Việt Nam”, Tạp chí văn hóa dân gian.
- Lƣơng Thị Đại (2014), Hát Then lên chợ mƣờng trời (Khắp Then pay ỉn
dƣơng cƣơi), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội;
- Hoàng Thu Trang (2017), Biểu tƣợng trong Then Tày, Luận văn Thạc sĩ,
ĐHSP Thái Nguyên.
Những cuốn sách kể trên đƣợc đánh giá là những công trình nghiên cứu, sƣu
tầm khá công phu và giá trị về phần Then nghi lễ của ngƣời Tày. Các tác giả đã quan
tâm nghiên cứu các hình thức sinh hoạt tín ngƣỡng trong Then Tày, đời sống của các
ông Then, bà Then, và nhất là vai trò của Then đối với đời sống tâm linh của đồng
bào dân tộc Tày. Những công trình này cũng có sƣu tầm đƣợc khá phong phú những
khúc hát then hành lễ, có kèm lời giới thiệu về giá trị nội dung, nghệ thuật và những
đặc điểm nghi lễ gắn liền với khúc hát Then.
Qua một số công trình nghiên cứu đã thống kê ở trên, có thể nhận ra đƣợc bản
chất của Then. Then có sự hòa quyện thống nhất giữa hai yếu tố loại hình văn nghệ
dân gian và tín ngƣỡng dân gian. Chính sự kết hợp ấy đã tạo ra nét đặc sắc rất riêng
cho loại hình nghệ thuật này. Và nhƣ vậy, những công trình nghiên cứu đó cũng đã
góp phần khá quan trọng trong việc giới thiệu cũng nhƣ nghiên cứu về Then.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về Then Tày ở Bắc Kạn và Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn
Trong 7 dân tộc anh em sinh sống ở Bắc Kạn, ngƣời Tày chiếm đa số với
52,6%. Then đƣợc coi nhƣ một thể tài diễn xƣớng dân gian đặc trƣng của ngƣời Tày ở
Bắc Kạn. Ngày 13 tháng 12 năm 2019, tại phiên họp Ủy ban Liên chính phủ Công ƣớc
2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 14 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học
và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại Bogotá, Colombia, di sản thực hành

5



Then của ngƣời Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam chính thức đƣợc UNESCO ghi danh tại
Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Việc UNESCO vinh danh
hát Then là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân lại là một điều vô cùng có ý nghĩa, đã
góp phần khẳng định đƣợc giá trị của hát Then trong nền văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc của ngƣời Tày nói riêng, của dân tộc Việt nói chung. Tuy nhiên, hiện nay các công
trình khoa học nghiên cứu về Then Tày ở Bắc Kạn vẫn còn rất ít ỏi.
Trong khóa luận tốt nghiệp thạc sĩ của mình, tác giả Hà Thị Tầm đã nghiên
cứu về Then Tày ở Chợ Mới, Bắc Kạn. Ở đó, tác giả đã có nghiên cứu khá sâu sắc về
khía cạnh nội dung và nghệ thuật của Then Tày lƣu truyền ở vùng huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn. Tác giả khóa luận cũng đã chỉ ra điểm riêng biệt trong nội dung Then
Tày vùng Chợ Mới: “Ngoài điểm giống với các dân tộc khác là thờ cúng tổ tiên thì
điểm khác biệt trong tín ngƣỡng của những ngƣời làm nghề Then là họ thờ cúng tổ
sƣ. Dòng Then khu vực Chợ Mới, Bắc Kạn khi đi hành nghề phải mang theo bức
tranh thờ tổ sƣ gia truyền của gia đình để treo trƣớc đàn cúng biểu thị sức mạnh và
binh lực của tổ sƣ - tổ tiên luôn luôn đi theo trợ giúp cho họ. Qua Then, ngƣời đọc
còn hình dung ra một bức tranh hiện thực sinh động về cuộc sống của ngƣời Tày
trong quá khứ” [41, tr. 78].
Cũng trong khóa luận tốt nghiệp cử nhân văn hóa của mình, tác giả Vũ Thị
Nhung đã nghiên cứu về Then cầu an của ngƣời Tày ở Dƣơng Quang, Bắc Kạn.
Trong khóa luận, tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng của Then cầu an đối với đời sống
xã hội của ngƣời dân tộc Tày ở một địa phƣơng cụ thể là xã Dƣơng Quang, Bắc Kạn.
Ngoài ra, công trình cũng có đề cập tới các giá trị về mặt văn học, xã hội và nghệ
thuật của Then cầu an [29, tr. 59]. Công trình cũng phần nào góp công vào việc giữ
gìn, bảo tồn loại hình Then cầu an nói riêng, bản sắc văn hóa của dân tộc Tày ở địa
phƣơng nói chung.
Về Then Tày của huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, những ngƣời đặc biệt có công
sƣu tầm, biên soạn là các tác giả Dƣơng Thục (Ở Tiểu khu 7, thị trấn Chợ Rã, huyện
Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn), Nguyễn Trung Trực (ở xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc
Kạn), Hoàng Đức Dục (Ở xã Mỹ Phƣơng, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn), anh Lã Văn
Trƣờng (ở xã Cao Thƣợng, Ba Bể, Bắc Kạn), cô Lộc Thị Nự (ở Tiểu khu 3, thị trấn


6


Chợ Rã, Ba Bể, Bắc Kạn). Ông Hoàng Đức Dục là một nghệ nhân hát then đã đƣợc
Bộ văn hóa thông tin công nhận, đồng thời Quyền là Pháp thƣ tự pháp Phong (ngƣời
đƣợc cấp sắc để chuyên hát Then nghi lễ). Ông Dƣơng Thục là một cán bộ phòng
Văn hóa thông tin và thể thao huyện Ba Bể đã nghỉ hƣu - một nghệ nhân hát then,
đồng thời là ngƣời sáng tạo ra cây đàn tính 12 dây độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Bản
thân nghệ nhân Dƣơng Thục đã sáng tác đƣợc 31 bài Then Tày lời mới và ngoài ra
còn sƣu tầm đƣợc nhiều bài Then của các tác giả khác vẫn đƣợc lƣu truyền ở Ba Bể,
Bắc Kạn. Nghệ nhân Mã Văn Trực (nghệ danh là Trung Trực) cũng là cựu cán bộ của
phòng Văn hóa thông tin và thể thao huyện Ba Bể, vì đam mê với hát Then và sáng
tạo đàn tính nên đã nghỉ việc để chuyên tâm chăm lo cho Câu lạc bộ hát Then đàn
tính ở Bản Hon (xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn) và sáng tạo ra những
cây đàn tính phục vụ nhu cầu của nhân dân. Anh Lã Văn Trƣờng là một ngƣời đặc
biệt có niềm đam mê về Then Tày, hiện anh còn lƣu giữ đƣợc 1 cuốn viết tay với hơn
trăm bài thơ Tày do chính ông ngoại của anh là cố nhà thơ Triệu Sinh sáng tác và bản
thân anh đã sử dụng chính những lời thơ Tày đó để hát Then không chỉ để lƣu giữ
đƣợc tài sản tinh thần quý giá của gia đình mà còn góp phần làm cho loại hình văn
nghệ dân gian đặc trƣng của dân tộc Tày trở nên phong phú hơn cả về giá trị nội dung
và nghệ thuật. Cô Lộc Thị Nự cũng là một trong những ngƣời có niềm yêu thích đối
với loại hình Then Tày, cô cũng đã sáng tác đƣợc 03 bài hát Then và sƣu tầm đƣợc
một số bài Then khác về Ba Bể, Bắc Kạn. Những tác giả đƣợc kể trên đã có rất nhiều
công lao đối với việc lƣu truyền, bảo tồn, phát huy Then Tày ở địa bàn huyện Ba Bể.
Họ đã sƣu tầm đƣợc khá nhiều bài then lời cổ, sáng tác đƣợc nhiều bài Then lời mới
phục vụ hoạt động giải trí, hoạt động du lịch ở địa phƣơng. Tuy nhiên, hiện các sáng
tác của các tác giả vẫn chƣa đƣợc tập hợp thành hệ thống và chƣa đƣợc biên soạn
thành sách để lƣu truyền, phổ biến rộng rãi. Những văn bản hiện các tác giả lƣu giữ
đƣợc là rất có giá trị đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân

tộc Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn. Tuy nhiên, xét ở góc độ văn học thì những sáng tác của
các tác giả kể trên cũng còn chƣa đƣợc quan tâm nhiều tới giá trị nội dung và nghệ
thuật của những lời hát Then mà mới chỉ đƣợc quan tâm ở hình thức diễn xƣớng
trong những môi trƣờng diễn xƣớng cụ thể.

7


Sau khi tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy thực tế đã có không ít công trình nghiên
cứu về Then. Những công trình nghiên cứu đó nghiên cứu Then chủ yếu ở phƣơng
diện tín ngƣỡng hay ở góc độ nghệ thuật. Mặc dù có những nhà khoa học đã nghiên
cứu, đánh giá cụ thể về hình thức Then cầu an hoặc Then cấp sắc ở trong hệ thống
Then Tày nói chung song vẫn chƣa có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu về
Then Tày Ba Bể, Bắc Kạn cùng vấn đề giáo dục học sinh phổ thông. Đó chính là
những gợi ý và cũng là cơ sở để chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này có mục đích hƣớng tới cái nhìn toàn diện và chân thực nhất về
mảng Then lời mới của ngƣời Tày ở địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn trên cơ sở hệ
thống hóa các văn bản. Từ đó, đề xuất hoạt động thành lập “Câu lạc bộ Hát Then và đàn
Tính ở trƣờng THPT Ba Bể” nhằm góp phần bảo tồn, phát triển một hình thức sinh
hoạt văn hóa, nghệ thuật dân gian tốt đẹp của dân tộc Tày trong các trƣờng phổ thông
trên địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu một số vấn đề lí luận và thực tế liên quan đến đề tài.
Sƣu tầm, tập hợp, tìm hiểu các lời hát Then Tày lời mới với một số loại hình
văn hóa nghệ thuật, tập tục, tín ngƣỡng có liên quan đến đề tài hiện đang lƣu truyền
trong đời sống dân gian.
Khảo sát, thống kê, phân tích, lí giải lời Then Tày lời mới và một số vấn đề có
liên quan đến giá trị nội dung, nghệ thuật đặc trƣng của nó.

Khảo sát, thống kê, đánh giá về thực trạng, ý nghĩa của Then Tày với vấn đề
giáo dục học sinh phổ thông ở huyện Ba Bể, Bắc Kạn, từ đó, đề xuất hoạt động đƣa
Then Tày vào giáo dục học sinh phổ thông qua hình thức Câu lạc bộ.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng chủ yếu của luận văn là những bài Then Tày lời mới đƣợc sƣu tầm,
lƣu truyền ở Ba Bể, Bắc Kạn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu:

8


Các văn bản Then Tày do các nghệ nhân Dƣơng Thục, Mã Văn Trực, Lã Văn
Trƣờng, cô Lộc Thị Nự sáng tác và sƣu tầm đƣợc ghi chép lại, hiện vẫn chƣa đƣợc
công bố, xuất bản. Cụ thể: nghệ nhân Dƣơng Thục có 33 bài, nghệ nhân Mã Văn
Trực có 03 bài, cô Lộc Thị Nự có 03 bài, anh Lã Văn Trƣờng sƣu tầm đƣợc 126 bài
do ông ngoại là cố nhà thơ Triệu Sinh sáng tác.
Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Trong điều kiện và khuôn khổ một luận văn Thạc sĩ, chúng tôi chủ yếu đi sâu tìm
hiểu những giá trị tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật trong lời hát Then Tày lời mới ở
Ba Bể, Bắc Kạn cùng với việc đề xuất hoạt động đƣa Then Tày vào giáo dục học sinh ở
các trƣờng phổ thông trên địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp cụ thể sau:
Phƣơng pháp điền dã văn học, văn hóa dân gian: Chúng tôi đã đến gặp trực
tiếp các nghệ nhân hát Then, những ngƣời có hiểu biết nhiều, chuyên sƣu tầm và sáng
tác lời Then Tày ở địa bàn huyện Ba Bể để sƣu tầm tƣ liệu phục vụ cho đề tài. Chúng
tôi cũng tiến hành khảo sát thực trạng của hoạt động hát Then ở Ba Bể, Bắc Kạn, nhu
cầu của học sinh phổ thông về Then Tày, tạo cơ sở tốt cho việc đƣa ra những giải

pháp hữu ích; thu thập đƣợc những số liệu chính xác về các bài Then Tày ở Ba Bể,
thống kê đƣợc một số phƣơng diện về nghệ thuật của Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn.
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở tổng hợp, phân loại tƣ liệu điền
dã chúng tôi sử dụng phƣơng pháp này để tiến hành phân tích những điểm nổi bật về
giá trị nội dung và nghệ thuật của Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn. Sau khi đã phân tích,
chúng tôi đƣa ra những nhận xét tổng hợp, đánh giá sâu sắc về cả phƣơng diện nội
dung, nghệ thuật của Then Tày ở Ba Bể, đánh giá thực trạng, nhu cầu của học sinh ở
một số trƣờng phổ thông đối với Then Tày Ba Bể.
Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng phƣơng
pháp này để chúng tôi làm nổi bật đƣợc những nét đặc sắc của Then Tày ở Ba Bể,
Bắc Kạn.
Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Then Tày ở Ba Bể vốn gắn liền với đời
sống của ngƣời dân, không tách rời hoạt động diễn xƣớng trong dân gian, bởi vậy, khi
tiếp cận Then Tày Ba Bể, chúng tôi tiếp cận ở nhiều phƣơng diện, nhiều lĩnh vực,

9


nhiều ngành khoa học khác nhau nhƣ âm nhạc, nghệ thuật, lịch sử, văn hóa, văn học,
du lịch,… để có đƣợc những hiểu biết đầy đủ, khoa học nhất vể Then Tày ở Ba Bể,
Bắc Kạn.
6. Những đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống những giá trị cơ
bản về nội dung và nghệ thuật trong lời hát Then Tày lời mới ở Ba Bể, Bắc Kạn.
Trong quá trình điền dã, khảo sát, nghiên cứu, tác giả luận văn đã thu thập
đƣợc một số lƣợng đáng kể những bài Then Tày lời mới hiện đƣợc lƣu truyền trong
đời sống dân gian ở Ba Bể, Bắc Kạn.
Khảo sát thực tế trên là cơ sở khoa học để tác giả luận văn bƣớc đầu đề xuất
hƣớng bảo tồn và phát huy giữ gìn nét đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc Tày nói chung
trong đó có dân tộc Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận
văn đƣợc trình bày trong ba chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về ngƣời Tày, Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn và một số
vấn đề lí luận
Chƣơng 2: Nội dung và nghệ thuật của Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn
Chƣơng 3: Then Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn với vấn đề giáo dục học sinh phổ thông

10


NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI TÀY, THEN TÀY Ở BA BỂ, BẮC KẠN
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
1.1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội, đời sống văn hóa của ngƣời Tày ở Ba Bể,
Bắc Kạn
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Ba Bể là một huyện miền núi thuộc tỉnh Bắc Kạn. Huyện đƣợc đổi tên từ
huyện Chợ Rã cũ vào ngày 6 tháng 11 năm 1984, khi đó thuộc tỉnh Cao Bằng.
Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Bắc Kạn đƣợc tái lập từ tỉnh Bắc Thái, huyện Ba Bể
đƣợc chuyển từ tỉnh Cao Bằng về tỉnh Bắc Kạn quản lí. Huyện nằm ở phía tây bắc
tỉnh Bắc Kạn, phía bắc và đông bắc giáp huyện Pắc Nặm, phía tây giáp huyện Na
Hang (Tuyên Quang), tây nam là huyện Chợ Đồn, phía nam là huyện Bạch
Thông và Ngân Sơn ở phía đông. Huyện có diện tích 684,09 km². Huyện lị là thị trấn
Chợ Rã nằm trên quốc lộ 279, cách thành phố Bắc Kạn khoảng 50 km về hƣớng tây
bắc. Ngoài trục đƣờng chính là quốc lộ 279, còn có các con đƣờng tỉnh lộ 254 đi về
huyện Chợ Đồn, tỉnh lộ 201 đi về huyện Bạch Thông ở phía nam và đƣờng liên tỉnh
212 sang Cao Bằng ở phía bắc.
Huyện có 15 đơn vị hành chính, gồm 14 xã và 01 thị trấn với 200 thôn bản.

Dân số toàn huyện có gần 48.325 ngƣời (Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày
01/4/2019 của Kho dữ liệu điện tử dân cƣ, Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
tỉnh Bắc Kạn), trong đó có: dân tộc Kinh là 2506 ngƣời (5,2%), dân tộc Tày là 27.255
ngƣời (56,4%), dân tộc Nùng là 2309 ngƣời (4,8%), dân tộc Mông là 3821 ngƣời
(7,9%), dân tộc Dao là 12.284 ngƣời (25,4%), dân tộc Sán Chay và dân tộc khác là
150 ngƣời (0,3%). Nhƣ vậy ở huyện Ba Bể, có tới 94,8% là ngƣời dân tộc thiểu số,
trong đó ngƣời dân tộc Tày chiếm số lƣợng đông hơn cả với 56,4%.
Địa hình
Huyện Ba Bể chủ yếu là đất lâm nghiệp chiếm trên 80%, đất nông nghiệp
chiếm 10%. Huyện có địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi sông, suối, núi nên giao
thông đi lại còn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các thôn bản vùng cao. Ở đây chủ yếu

11


là núi cao xen lẫn những khối núi đá vôi hiểm trở, phân lớp dầy, trong quá trình
cacxtơ tạo thành những hình dạng kỳ thú, đặc trƣng là dãy núi Phja Bjooc có độ
cao 1.578m, là mái nhà của 03 huyện: Ba Bể, Chợ Đồn, Bạch Thông.
Cùng với đó, trên địa bàn huyện có 2 con sông là sông Năng và sông Chợ
Lùng chảy qua. Sông Năng bắt nguồn từ dãy núi cao Phja Giạ (thuộc huyện Bảo Lạc,
tỉnh Cao Bằng) chảy vào địa phận huyện Ba Bể từ xã Bành Trạch theo hƣớng Đông Tây; sông Chợ Lùng bắt nguồn từ phía Nam huyện Ba Bể theo hƣờng Đông Nam Tây Bắc sau đó đổ vào hồ Ba Bể rồi thông ra sông Năng; cánh cung sông Gâm chạy
dài theo hƣớng Đông Bắc - Tây Nam, xuyên suốt địa giới của huyện với nhiều ngọn
núi cao trùng điệp đã tạo nên địa hình hiểm trở rất đặc trƣng của huyện Ba Bể.
Ngoài ra, trên địa bàn Ba Bể có nhiều tuyến giao thông chạy qua nhƣ: Quốc lộ
279, tỉnh lộ 201, 254… Hiện nay, 14/14 xã ở Ba Bể có đƣờng ô tô về đến trung tâm xã.
Khí hậu
Nhiệt độ trung bình năm từ 21oC - 23oC, là vùng khuất gió mùa đông bắc,
nhƣng lại đón gió mùa Tây Nam nên ở Ba Bể thƣờng mƣa nhiều, lƣợng mƣa trung
bình hơn 1.600 mm và có thảm thực vật phong phú. Vùng hồ Ba Bể và sƣờn núi Phja
Bjoóc gần nhƣ mát mẻ quanh năm. Tuy nhiên đôi khi thời tiết cũng rất khắc nghiệt.

Mùa đông ở Ba Bể thƣờng có sƣơng muối, băng giá hoặc có những đợt mƣa phùn,
gió bấc kéo dài không có lợi cho sự sinh trƣởng của động, thực vật, ảnh hƣởng tới
hoạt động, sức khoẻ con ngƣời. Mùa mƣa, nhiều xã ven sông Năng thƣờng bị ngập
lụt nên ảnh hƣởng tới hoạt động sản xuất nông nghiệp đáng kể. Nhƣng bởi nằm trong
khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, ở độ cao từ 500 - 1000m so với mặt biển, Ba Bể
có đủ nhiệt độ, nắng, mƣa... thích hợp cho sự phát triển của động vật, thực vật, thuận
lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp vốn là nghề chủ yếu của địa phƣơng, đặc biệt
rất thích hợp để ngƣời dân nơi đây trồng cây bầu - loại cây vừa để cung cấp thức ăn
cho nhân dân vừa cho quả để những nghệ nhân nơi đây sử dụng tạo nên những cây
đàn tính phục vụ hoạt động nghi lễ, hoạt động văn nghệ, du lịch ở địa phƣơng.
Sông ngòi
Ba Bể có nhiều sông, suối, lòng sông suối thƣờng sâu, để có nƣớc tƣới cho
đồng ruộng, nhất là các chân ruộng bậc thang, đồng bào các dân tộc có nhiều kinh

12


nghiệm làm mƣơng, phai, bắc máng, làm guồng nƣớc. Đồng bào còn lợi dụng sức
nƣớc để phục vụ sản xuất, đời sống nhƣ cối giã gạo, máy bật bông, làm thuỷ điện mi
ni, xuôi mảng... Với đặc điểm về sông ngòi nhƣ vậy rất thuận lợi để phát triển nông
nghiệp, giao thông đƣờng thủy. Đƣờng thuỷ sông Năng phối hợp với các đƣờng bộ
tạo nên hệ thống giao thông tƣơng đối thuận lợi thông thƣơng giữa các huyện Ba Bể,
huyện Chợ Đồn, Na Hang (Tuyên Quang). Hơn nữa dòng sông Năng với động
Puông, thác Đầu Đẳng cũng đã góp phần không nhỏ để huyện Ba Bể phát triển tiềm
năng du lịch. Nhiều du khách vừa ngồi thuyền xuôi sông Năng ngắm cảnh, vừa đƣợc
lắng nghe những chàng trai, cô gái dân tộc Tày bản địa gảy đàn tính, hát Then với âm
điệu réo rắt, chạm tới trái tim, để rồi đi xa mà vẫn nhớ mãi.
Tài nguyên thiên nhiên
Ở Ba Bể tập trung nhiều loại khoáng sản nhƣ: Vàng gốc (nguyên sinh) và
vàng sa khoáng, khoáng sắt và sắt - mangan, đá vôi biến chất thành đá hoa nhƣ

xung quanh hồ Ba Bể, sắt, mangan ở Bản Nùng. Ngoài ra còn có đá quý ở Bản
Đuống, Bản Vàng…
Đất Ba bể có thể trồng nhiều loại cây thƣơng phẩm có giá trị kinh tế cao
nhƣ: hồng không hạt, hoa lily, ngô, đậu tƣơng, trúc. Hiện tại, Ba Bể đã phát
triển đƣợc hơn 1.000 ha mơ, mận, dứa. Đất đai ở Ba Bể cũng thích hợp cho việc chăn
nuôi đại gia súc nhƣ: trâu, bò, dê.
Núi đá xen lẫn núi đất chiếm phần lớn diện tích đất đai tự nhiên. Rừng có
nhiều gỗ quý (đinh, lim, nghiến, táu…) cùng nhiều cây dƣợc liệu và nhiều loại chim
muông, thú rừng nhƣ phƣợng hoàng, công, trĩ, hƣơu, nai, sơn dƣơng, khỉ, lợn rừng,
kỳ đà…
Do kiến tạo địa chất, sự bồi đắp của các con sông, suối đã tạo cho Ba Bể
những bồn địa, những thung lũng lòng máng, lòng chảo, đất đai khá màu mỡ thích
hợp với việc trồng lúa, ngô, các loại rau, đậu, cây công nghiệp (mía, bông và cây ăn
quả (cam, quýt, chuối, hồng).
Đặc biệt, Vƣờn Quốc gia Ba Bể là một di sản thiên nhiên quý giá với hệ thống
rừng nguyên sinh trên núi đá vôi có tới 417 loài thực vật và 299 loài động vật có
xƣơng sống. Nhiều loài động vật quý vẫn còn lƣu giữ đƣợc nhƣ phƣợng hoàng đất, gà

13


lôi, vọc mũi hếch… Trong hồ vẫn còn 49 loài cá nƣớc ngọt, trong đó có một số loài
cá quý hiếm nhƣ cá chép kính, cá rầm xanh, cá chiên…
Cùng với đó, hồ Ba Bể rộng gần 500ha gắn liền với dòng sông Năng và hệ
thống hang động, thác nƣớc thiên nhiên kì vĩ trở thành khu danh lam thắng cảnh nổi
tiếng ở khu vực miền núi phía Bắc. Những năm gần đây, hoạt động du lịch ở Ba Bể
phát triển mạnh, thu hút đƣợc rất nhiều lƣợt khách du lịch trong và ngoài nƣớc đến
thƣởng ngoạn cảnh trí. Điều đó cũng tạo ra cơ hội thuận lợi để những đoàn văn nghệ
dân tộc phát huy đƣợc năng lực sở trƣờng của mình, đem những làn điệu then, lƣợn,
phong slƣ,… của dân tộc đến với nhiều nơi trên đất nƣớc Việt Nam và bạn bè thế

giới. Cũng nhờ thế mà Then Tày càng đƣợc chú ý gìn giữ, phát triển mạnh mẽ hơn.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử
Theo các tài liệu sƣu tầm, trong lịch sử phát triển, huyện Ba Bể cũng đã trải
qua nhiều bƣớc thăng trầm. Thời Lý, huyện Ba Bể ngày nay thuộc đất huyện Vĩnh
Thông; thời Lê, nằm ở châu Bạch Thông thuộc phủ Thông Hoá. Thị trấn Chợ Rã là
huyện lị Ba Bể, đồng bào địa phƣơng gọi là Chợ Slo. Tên gọi Chợ Rã xuất hiện sớm
trong lịch sử, đƣợc nêu trong Dƣ địa chí của Nguyễn Trãi và sau đó nêu ở Đại Nam
nhất thống chí, trong mục Thái Nguyên thổ sản.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), tỉnh Thái Nguyên đƣợc thành lập, địa bàn
Chợ Rã thuộc đất Thái Nguyên. Trong những năm từ 1884 đến 1888, thực dân Pháp
lần lƣợt đem quân đánh chiếm các tỉnh Việt Bắc. Sau khi hoàn thành công cuộc chinh
phục và bình định căn bản khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc, để thống trị và bóc lột
nhân dân các dân tộc miền núi đạt ý đồ của Pháp, ngày 11/4/1900, toàn quyền Đông
Dƣơng ra nghị định tách một phần đất thuộc tỉnh Thái Nguyên thành lập tỉnh Bắc
Kạn gồm 4 châu: Bạch Thông, Chợ Rã, Thông Hoá (sau đổi thành Na Rì) và Cảm
Hoá (sau đổi thành Ngân Sơn).
Ngày 25/6/1901, thực dân Pháp sáp nhập địa giới tổng Yên Đĩnh, huyện Phú
Lƣơng (Thái Nguyên) vào châu Bạch Thông (Bắc Kạn). Đến ngày 08/6/1916, thực
dân Pháp lại tách một số tổng thuộc châu Bạch Thông và châu Chợ Rã để thành lập
châu Chợ Đồn. Do vậy, trƣớc năm 1901, trong sự phân chia địa giới, địa phận Ba Bể
có cả một số địa phƣơng châu Chợ Đồn. Trong thời thuộc Pháp, châu Chợ Rã chiếm
khoảng 115km2.

14


Năm 1942, phong trào Việt Minh đƣợc củng cố và mở rộng căn cứ ở Cao Bắc - Lạng, đồng thời mở con đƣờng Nam tiến, các xã phía Đông Chợ Rã (Hà Hiệu,
Bành Trạch, Phúc Lộc…) phát triển mạnh mẽ phong trào Việt Minh. Năm 1943, các
đoàn Nam tiến và Tây tiến đều xuất phát từ Nguyên Bình tiến qua Chợ Rã xây dựng
cơ sở Việt Minh trong đồng bào các dân tộc. Điều đó cho thấy, Châu Chợ Rã là một

địa phƣơng của tỉnh Bắc Kạn sớm có phong trào Việt Minh rộng lớn trong đồng bào
các dân tộc.
Ngày 30/03/1945, UBND lâm thời châu Chợ Rã đƣợc thành lập, đây là
chính quyền cách mạng cấp huyện đầu tiên trong cao trào khởi nghĩa kháng Nhật
cứu nƣớc 1945.
Từ tháng 4/1945 đến 20/8/1945, lực lƣợng vũ trang nhân dân các dân tộc châu
Chợ Rã đã 3 lần đánh bại quân đội phát xít Nhật tấn công muốn chiếm lại Chợ Rã để
chốt giữ sâu trong vùng giải phóng của ta.
Trong thời kỳ vận động cách mạng Tháng Tám, Ba Bể cũng là một trong
những huyện có cơ sở và phong trào cách mạng sớm, là huyện thành lập đƣợc chính
quyền cách mạng cấp huyện đầu tiên của tỉnh Bắc Kạn. Ba Bể đã đập tan các cuộc
tiến công của phát xít Nhật vào vùng giải phóng, giữ vững chính quyền cách mạng,
bảo vệ an toàn cuộc hành trình của lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Cao Bằng qua Ba Bể về
Tân Trào để chỉ đạo cuộc chuẩn bị tổng khởi nghĩa kịp thời cơ.
Trong suốt cuộc kháng chiến bùng nổ, Đảng bộ Ba Bể ra đời đã lãnh đạo nhân
dân thực hiện thắng lợi công cuộc kháng chiến kiến quốc của Đảng, bảo vệ và giải
phóng quê hƣơng, đập tan các cuộc hành quân xâm lƣợc của thực dân Pháp, góp phần
vào giải phóng Bắc Kạn. Ba Bể đã thể hiện đƣợc vai trò là hậu phƣơng kháng chiến
vững chắc. Đảng bộ Ba Bể đã cùng nhân dân các dân tộc tiến hành cuộc vận động
tiễu phỉ, củng cố chính quyền, đẩy mạnh sản xuất, phát triển văn hoá giáo dục, ra sức
đóng góp sức ngƣời, sức của cho cuộc kháng chiến của dân tộc đi đến thắng lợi.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lƣợng võ trang và nhân dân các
dân tộc châu Chợ Rã đã góp phần đánh bại quân Pháp tiến công căn cứ địa Việt Bắc,
bảo vệ các cơ quan Trung ƣơng và tỉnh, góp phần xứng đáng vào chiến thắng Việt
Bắc mùa đông năm 1947.

15


Một thành tích nổi bật nữa của Chợ Rã là đã đấu tranh chống phỉ suốt 6 năm,

làm tan rã hoàn toàn nạn thổ phỉ vào tháng 11/1953.
Đến năm 1965, do yêu cầu của sự nghiệp chống Mỹ cứu nƣớc, hai tỉnh Bắc
Kạn và Thái Nguyên đƣợc hợp nhất. Ngày 21/4/1965, Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội
nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nay là nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
ra Nghị định số 103/NĐ-TVQH thành lập tỉnh Bắc Thái trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh
Thái Nguyên và Bắc Kạn. Ba Bể trở thành huyện của tỉnh Bắc Thái.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Chợ Rã đã tích cực chống chiến tranh phá hoại
của đến quốc Mỹ, làm tốt nhiệm vụ hậu phƣơng lớn đối với tiền tuyến lớn.
Năm 1978, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, để có hậu phƣơng cho tỉnh
Cao Bằng, ngày 29/12, theo đề nghị của Hội đồng nhân dân hai tỉnh Cao Lạng và Bắc
Thái, kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khoá VI nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quyết nghị sáp nhập hai huyện Ngân Sơn và Chợ Rã của Bắc Thái vào tỉnh Cao Bằng.
Ba Bể thuộc tỉnh Cao Bằng. Ngày 6 tháng 11 năm 1984, huyện Chợ Rã đổi tên thành
huyện Ba Bể.
Năm 1997, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân các dân tộc trong công cuộc
xây dựng, đổi mới đất nƣớc, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc vì mục
tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, ngày 01/01, Quốc hội quyết định tái thành lập tỉnh Bắc
Kạn, huyện Ba Bể và Ngân Sơn trở lại thuộc tỉnh Bắc Kạn.
Ngày 28/5/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 56/NĐ-CP về việc thành lập
huyện Pác Nặm trên cơ sở tách huyện Ba Bể. Theo đó đã tách 10 xã của huyện Ba
Bể: An Thắng, Bằng Thành, Bộc Bố Cao Tân, Cổ Linh, Công Bằng, Giáo Hiệu,
Nghiên Loan, Nhạn Môn, Xuân La để thành lập huyện Pác Nặm. Huyện Ba Bể còn
lại thị trấn Chợ Rã và 15 xã: Bành Trạch, Cao Thƣợng, Cao Trĩ, Chu Hƣơng, Địa
Linh, Đồng Phúc, Hà Hiệu, Hoàng Trĩ, Khang Ninh, Mỹ Phƣơng, Nam Mẫu, Phúc
Lộc, Quảng Khê, Thƣợng Giáo, Yến Dƣơng.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số xã Cao Trĩ
vào xã Thƣợng Giáo thành xã Thƣợng Giáo. Nhƣ vậy, hiện nay, huyện Ba Bể có 1 thị
trấn và 14 xã: Bành Trạch, Cao Thƣợng, Chu Hƣơng, Địa Linh, Đồng Phúc, Hà Hiệu,
Hoàng Trĩ, Khang Ninh, Mỹ Phƣơng, Nam Mẫu, Phúc Lộc, Quảng Khê, Thƣợng
Giáo, Yến Dƣơng.


16


1.1.3. Đời sống văn hóa - xã hội
Về đời sống văn hóa - xã hội, cũng nhƣ ngƣời Tày ở các địa phƣơng khác,
ngƣời Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn có một đời sống rất phong phú, đa dạng, giàu bản sắc cả
về vật chất lẫn tinh thần.
Đầu tiên, phải kể đến không gian sinh hoạt và văn hóa của đồng bào dân Tày.
Nếu đời sống văn hóa của ngƣời Êđê ở Tây Nguyên gắn với ngôi nhà rông thì với
đồng bào ngƣời Tày nói chung, đồng bào Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn nói riêng chính là
ngôi nhà sàn. Từ ngày xƣa, đồng bào Tày đã thƣờng cƣ trú ở khu vực đồi núi, hay ở
bên cạnh bờ sông, khe suối, thung lũng, lại có nhiều nguyên liệu tại chỗ nhƣ các loại
gỗ quý, gianh, tre, mai, nứa, lá cọ, … bởi vậy mà họ đã biết tận dụng nguồn nguyên
vật liệu dựng căn nhà sàn để vừa thuận lợi trong sinh hoạt, vừa có thể tránh đƣợc
những thú dữ, sử dụng đƣợc vào nhiều mục đích khác nhau. Căn nhà sàn của ngƣời
Tày có kiến trúc khá độc đáo, chủ yếu đƣợc làm bằng nguyên liệu có sẵn trong tự
nhiên. Cấu tạo của căn nhà sàn gồm có mặt sàn, gầm sàn, các khoang nhà đƣợc ghép
lại với nhau bởi các hàng cột. Đầu nhà có cầu thang để lên xuống (có thể làm bằng gỗ
hoặc đẽo từ thân cây bƣơng). Tùy vào điều kiện, sở thích của từng gia chủ hoặc từng
địa phƣơng mà kiến trúc của nhà sàn cũng có đôi chút khác nhau. Ví dụ nhƣ nhà sàn
nhỏ nhất loại một gian chỉ có 12 cột đƣợc chia làm 3 vì, 4 hàng cột, 3 gian nhỏ và 9 ô
vuông; nhà sàn to loại một gian thì có 36 cột đƣợc chia thành 6 vì, 6 hàng cột và 25 ô
vuông; nhà sàn to loại hai gian thì có tới 42 cột đƣợc chia thành 6 vì, 7 hàng cột và có
30 ô….vv. Không gian mặt sàn gồm có nhiều khoang nhà chính là không gian sinh
hoạt của cả gia đình. Hai bên đầu nhà còn có không gian để rửa ráy, chuẩn bị vật
dụng sinh hoạt. Không gian phía dƣới gầm sàn, ngƣời Tày tận dụng vào những mục
đích khác nhƣ để dụng cụ lao động, nuôi, nhốt gia súc, gia cầm, … Ngƣời Tày cũng
có ý thức quan tâm tới việc lựa chọn hƣớng nhà. Có thể nhận thấy, hầu nhƣ các căn
nhà sàn đều dựa lƣng vào núi, mặt trƣớc căn nhà thƣờng hƣớng về phía đƣờng đi,

ruộng vƣờn, sông suối - nơi có không gian thoáng đãng.
Trong đời sống hiện đại ngày nay, nhiều gia đình đã dỡ bỏ căn nhà sàn để thay
thế bằng những căn nhà xây, nhà cấp bốn, song cũng còn rất nhiều gia đình lại lựa
chọn gắn bó với nhà sàn. Hơn nữa họ cũng đã biết sửa chữa, tôn tạo để căn nhà sàn

17


trở nên đẹp hơn, có giá trị thẩm mĩ cao hơn. Đặc biệt, những căn nhà sàn ở khu vực
hồ Ba Bể đã đƣợc các cấp chính quyền của tỉnh Bắc Kạn, huyện Ba Bể đầu tƣ tôn tạo
để còn phục vụ cho cả hoạt động du lịch của địa phƣơng. Những căn nhà sàn đó
ngoài là không gian sinh hoạt trong gia đình thì còn gắn với những hoạt động khác
của đồng bào ngƣời Tày nhƣ sinh hoạt nghi lễ, phong tục tập quán, diễn xƣớng Then,
… Bởi vậy mà căn nhà sàn là một trong những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân
tộc Tày nói chung, của vùng huyện Ba Bể nói riêng.
Về trang phục truyền thống của ngƣời Tày ở Ba Bể, Bắc Kạn, cũng nhƣ các
dân tộc khác, ngƣời Tày cũng có bộ trang phục mang đặc trƣng riêng của dân tộc
mình. Đó là áo chàm. Sắc áo chàm của ngƣời Tày đã đi vào trong trang thơ của Tố
Hữu ở bài thơ Việt Bắc đầy cảm xúc:
Áo chàm đƣa buổi phân li,
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
Không ai biết bộ trang phục chàm của ngƣời Tày có từ bao giờ, chỉ biết rằng nó
đã có từ rất xƣa. Chất liệu chủ yếu làm nên bộ trang phục của ngƣời Tày là vải sợi
bông tự dệt đƣợc nhuộm chàm. Xƣa, ngƣời Tày cũng tự trồng cây bông để làm ra sợi,
dệt thành vải may váy áo. Tuy nhiên qua thời gian, nghề trồng bông cũng đã không còn
phát triển nữa. Thay vào đó, họ đã mua vải tấm ở dƣới xuôi mang lên bán về cắt, may
(hoặc khâu tay) thành váy, áo, khăn đội đầu hoặc những vật dụng khác nhƣ mặt chăn,
mặt địu, đẫy, …. Điểm đặc biệt ở bộ trang phục ngƣời Tày không phải ở kiểu dáng hay
màu sắc sặc sỡ nhƣ trang phục các dân tộc khác mà là lối dùng màu chàm đồng nhất
trên bộ trang phục. Còn màu ngũ sắc, ngƣời Tày chỉ sử dụng để tạo hoa văn ở mặt

chăn, mặt địu là chính. Một công đoạn rất quan trọng để tạo nên nét riêng trong bộ
trang phục đó là nhuộm chàm. Công đoạn tạo chàm để nhuộm cũng rất kì công, đòi hỏi
những bàn tay khéo léo, tỉ mỉ và kiên trì của những ngƣời phụ nữ dân tộc Tày. Chàm là
một loại cây thân gỗ mọc trên núi rừng vùng Việt Bắc, gắn liền với một truyền thuyết
nói tới sự ra đời của cây chàm mà ngƣời Tày ở vùng Ba Bể vẫn lƣu truyền:
Thuở ấy có một cô gái con nhà nghèo, mồ côi cha từ nhỏ mà mẹ lại mù lòa.
Nàng phải đi làm thuê, làm mƣớn tần tảo mới có bữa cơm, bữa cháo qua ngày. Khi
nàng lớn lên thì ngƣời mẹ thân yêu cũng qua đời, để lại một mình nàng cô đơn giữa

18


cuộc đời. Một hôm, có một chàng trai ăn mặc rách rƣới đến nhà nàng xin ăn. Vì nhà
nghèo không có gì cho kẻ ăn mày, nàng mời khách vào nhà ngồi đợi rồi ra đi cắt bộ tóc
dài của mình để đổi lấy đồ ăn về cho kẻ ăn mày cùng ăn. Thời gian trôi qua, bỗng một
hôm có đám về hỏi nàng. Bà mối cho biết, ngƣời đến hỏi nàng làm vợ chính là chàng
ăn mày nọ. Sau bữa cơm nàng cho ăn, chàng biết nàng đã cắt bộ tóc dài của mình để
đổi lấy bữa ăn cho chàng, nên chàng cảm phục tình cảm của nàng. Nàng nhận lời và họ
chung sống bên nhau hạnh phúc. Bỗng đất nƣớc bị giặc Hung nô xâm lƣợc, là phận
trai, chàng phải đeo gƣơm, giáo lên đƣờng đánh giặc giữ nƣớc, một mình nàng ở nhà
quán xuyến mọi việc gia đình. Chiến tranh kéo dài, biết bao mùa hoa đã nở, biết bao
mùa chim én đã làm tổ mà nàng vẫn mong ngóng chồng trở về trong sự cô đơn, mệt
mỏi. Thế rồi nàng quyết định theo hƣớng chiến trận ra đi tìm chồng. Nàng đi không
biết qua bao nhiêu bản, bao nhiêu núi, xuyên qua bao nhiêu rừng già… Sự nhớ nhung,
mệt mỏi khiến nàng ngủ thiếp đi và ra đi mãi mãi. Dân làng biết rất cảm phục tấm lòng
chung thủy của nàng, định chôn cất nàng đến nơi nàng yên nghỉ thì thấy mọc lên một
cây lạ với mùi thơm kì lạ. Dân làng hiểu rằng, cây lạ đó là hiện thân phần xác của nàng,
mùi thơm từ cây đó tỏa ra là hiện thân của lòng chung thủy của nàng. Cây đó chính là
cây chàm mà ngày nay đồng bào dùng để nhuộm quần áo mặc.
Ngƣời Tày đã sử dụng vỏ cây chàm để ngâm nƣớc cho ra màu xanh đen, sau

đó đổ thêm vôi vào nƣớc chàm, khoắng lên để cho bột chàm lắng xuống dƣới đáy
chậu mới đổ lớp nƣớc trong bên trên đi. Tiếp đó, họ lấy một lƣợng tro bếp vừa phải
trộn với bột chàm, khoắng cho nƣớc chàm lên men đỏ. Nhƣ vậy là họ đã tạo ra đƣợc
chất chàm. Công đoạn tiếp theo, họ sẽ nhúng vải xuống để nhuộm rồi phơi khô, hôm
sau tiếp tục lặp lại công đoạn đó cho tới khi vải lên màu xanh đen là đƣợc. Màu chàm
trầm tĩnh cũng thể hiện đƣợc sâu sắc nét đẹp tâm hồn bình dị của những con ngƣời
dân tộc Tày chân chất, cần cù, chịu thƣơng chịu khó. Bộ trang phục chàm của ngƣời
Tày xƣa đƣợc sử dụng hàng ngày, nhƣng ngày nay chỉ còn đƣợc sử dụng vào những
dịp quan trọng nhƣ lễ, tết, những dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Đặc biệt, khi diễn
xƣớng Then thì bao giờ ngƣời Tày cũng sẽ mặc áo chàm. Bởi thế, bộ trang phục áo
chàm cũng là một trong những nét văn hóa rất độc đáo, đặc sắc và có ý nghĩa của
ngƣời Tày nói chung, ngƣời Tày ở huyện Ba Bể nói riêng.

19


×