Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu đến thủy sản và đề xuất giải pháp thích ứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.15 KB, 62 trang )

DỰ BÁO TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU ĐẾN THỦY SẢN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI
PHÁP THÍCH ỨNG
TS. Cao Lệ Quyên
Viện Kinh tế và Quy hoạch Thuỷ sản

1. Mở đầu
Ngành thủy sản (nghề cá) nước ta chiếm vị trí đặc biệt quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khơng chỉ
góp phần bảo đảm nguồn cung thực phẩm trong nước, mà còn
tạo ra sinh kế cho hàng triệu gia đình nơng, ngư dân và góp
phần quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu. Năm 2017, tổng sản
lượng thủy sản Việt Nam đạt hơn 7,28 triệu tấn, trong đó, khai
thác thuỷ sản đạt gần 3,42 triệu tấn, nuôi trồng đạt trên 3,86
triệu tấn, toàn ngành tạo việc làm cho khoảng hơn 3 triệu lao
động với gần 50% là lao động nữ, đem lại giá trị xuất khẩu đạt
khoảng 8,39 tỷ USD, trong đó, ni trồng thủy sản chiếm tới
73% tổng giá trị xuất khẩu (Tổng cục Thủy sản, 2017).
Với đặc điểm đa dạng về loại hình và quy mơ sản xuất, phụ
thuộc nhiều vào điều kiện môi trường, nguồn lực tự nhiên (khí
hậu, đất, nước, đa dạng sinh học…), thuỷ sản nhìn chung chịu
tác động mạnh mẽ bởi điều kiện tự nhiên và các yếu tố mơi
trường, trong đó có biến đổi khí hậu (BĐKH). Các hiện tượng
BĐKH như nước biển dâng (NBD), thay đổi nhiệt độ và lượng
mưa, bão lũ, áp thấp nhiệt đới trên biển, sóng lớn, triều cường,
3


các hiện tượng thời tiết cực đoan khác… có thể ảnh hưởng đến
ngành ở dạng đơn lẻ hay kết hợp, trực tiếp hay gián tiếp, gây ra
nhiều thiệt hại về kinh tế, xã hội cho cộng đồng ngư dân, người


nuôi cũng như mơi trường sinh thái có liên quan đến thuỷ sản.
Thời gian qua, đã có một số nghiên cứu đánh giá về tác động
của BĐKH đến thuỷ sản để đề xuất các giải pháp thích ứng. Tuy
nhiên, các đánh giá này vẫn tản mạn cho một số đối tượng nuôi
chủ lực tại một số vùng như nuôi cá tra tại vùng ĐBSCL, nuôi
trồng thuỷ sản tại vùng ven biển Bắc bộ, Bắc Trung bộ hoặc
nuôi tôm nước lợ tại một số tỉnh như Thanh Hoá, Nam Định...
mà chưa bao quát hết toàn bộ các lĩnh vực sản xuất của lĩnh vực
thuỷ sản trên phạm vi quốc gia. Các nghiên cứu cũng mới chỉ
được thực hiện dựa trên kịch bản BĐKH và NBD cũ, được Bộ
Tài nguyên và Môi trường ban hành năm 2012, chưa xem xét
đến các dự báo về tác động của BĐKH đến tình hình thuỷ sản
tồn cầu trong các nghiên cứu quốc tế như Ban Liên Chính phủ
về BĐKH (IPCC) mới được ban hành gần đây (Báo cáo Cập
nhật lần thứ 5 – AR5-2014). Bởi vậy, việc cập nhật lại một số
kết quả đánh giá này theo kịch bản BĐKH mới được Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành năm 2016 (Kịch bản BĐKH
2016) là việc làm cần thiết. Dựa trên kết quả đánh giá này, việc
đề xuất và cập nhật lại các giải pháp thích ứng với BĐKH ở quy
mô tổng thể của ngành thuỷ sản cũng cần được thực hiện tương
ứng kèm theo, nhằm cung cấp thông tin đầu vào cho việc định
hướng phát triển và chỉ đạo sản xuất của các cơ quan quản lý
trong ngành thuỷ sản.

4


2. Tác động của BĐKH đến thủy sản toàn cầu trong Báo
cáo cập nhật lần thứ 5 của Ban Liên Chính phủ về BĐKH
(IPCC) (AR5-2014)

Báo cáo tổng hợp lần thứ 5 của Uỷ ban Liên Chính phủ về
BĐKH (IPCC) được công bố năm 2014 (AR5-2014) dựa trên
nhiều dữ liệu độc lập, từ những quan trắc của hệ thống khí hậu
hiện nay cùng với số liệu lưu trữ cổ khí hậu, đến những kết quả
nghiên cứu của các q trình khí hậu và các mơ hình dự báo khí
hậu. AR5-2014 cũng được xây dựng dựa trên nền Báo cáo đánh
giá lần thứ 04 của IPCC (AR4), có kết hợp những phát hiện mới
của các nhóm nghiên cứu trong thời gian gần đây và Báo cáo đặc
biệt của IPCC về quản lý rủi ro thiên tai và thảm hoạ (SREX).
Trong báo cáo AR5-2014 (IPCC, 2014), để diễn tả các kịch
bản phát triển kinh tế xã hội toàn cầu, các tác giả sử dụng thuật
ngữ RCPs (Representative Concentration Pathways) tạm dịch là
"Các con đường dẫn đến nồng độ đại diện", tức là các con đường
phát triển kinh tế xã hội đưa đến việc trái đất tích tụ các nồng độ
khí nhà kính khác nhau và nhận được lượng bức xạ nhiệt tương
ứng. Có bốn RCPs được mơ tả để dự đốn khí hậu trái đất trong
tương lai đến năm 2100. Trong đó, RCP2.6 là nhóm kịch bản
phát triển thuộc loại thấp, nhiệt lượng bức xạ mặt đất nhận ít hơn
3 watt cho một 1m2 (3W/m2); RCP8.5 là nhóm kịch bản thuộc
loại cao mà bức xạ mặt đất nhận được sẽ lớn hơn 8,5 W/m2 và
tiếp tục tăng sau kỳ dự đoán; RCP6.0 và RCP4.5, hai nhóm kịch
bản ổn định trung gian trong đó cưỡng bức bức xạ được ổn định
ở mức khoảng 6 W/m2 và 4,5 W/m2. Nồng độ khí nhà kính qui
đổi thành khí CO2 cho từng RCP là: 475 ppm cho RCP2.6; 630
5


ppm/RCP4.5; 800 ppm/RCP6.0; và 1313 ppm/RCP8.5.
Ngoài ra, AR5-2014 (IPCC, 2014) còn sử dụng phương pháp
chuyên gia trong đánh giá. Giá trị của sự tin cậy dựa vào loại, số

lượng, chất lượng và tính nhất quán của bằng chứng (ví dụ các dữ
liệu, hiểu biết cơ chế, lý thuyết, mơ hình, đánh giá chuyên gia).
Báo cáo lần thứ 5 (AR5-2014) của IPCC (2014) cho thấy,
bằng chứng về những tác động của biến đổi khí hậu được quan
sát là mạnh nhất và toàn diện nhất ở các hệ thống tự nhiên. Ở
nhiều vùng, thay đổi lượng mưa hoặc băng tan đang làm thay đổi
hệ thống thuỷ văn, ảnh hưởng đến tài nguyên nước về mặt số
lượng và chất lượng. Các nghiên cứu với độ tin cậy cao cho thấy,
nhiều loài sinh vật trên cạn, trong thuỷ vực nước ngọt và sinh vật
biển đã thay đổi phạm vi phân bố về mặt địa lý, tập tính hoạt
động theo mùa, mơ hình di cư, sự phong phú về quần đàn và mối
tương tác giữa các lồi nhằm đáp ứng với sự thay đổi khí hậu
đang diễn ra.
Với các hệ sinh thái biển: Dựa trên các nghiên cứu khoa học
sẵn có tại các châu lục và khu vực khác nhau, báo cáo lần thứ 5
của IPCC (2014) cho thấy: hầu hết các hệ sinh thái biển, đại
dương và nguồn lợi thuỷ sản kèm theo đều bị các tác động đáng
kể do ảnh hưởng của BĐKH với mức độ tin cậy cao, như hệ sinh
thái ở 2 vùng cực, khu vực Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Nam Mỹ, châu
Âu, châu Á, châu Đại dương, châu Phi. Các tác động tiêu cực
thường gặp hơn các tác động tích cực (với độ tin cậy cao). Báo
cáo cũng khẳng định, một số tác động của axit hóa đại dương đối
với sinh vật biển phần lớn có nguyên nhân từ hoạt động phát
triển của con người.
6


Báo cáo lần thứ 5 của IPCC (2014) cũng cho rằng, đại dương
toàn cầu sẽ tiếp tục ấm lên trong thế kỷ 21, với sự ấm lên mạnh
nhất được dự báo ở bề mặt nước biển các vùng biển nhiệt đới và

cận nhiệt đới của bán cầu Bắc. Nhiều loài sinh vật đang và sẽ
phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng do thay đổi khí hậu trong
và sau thế kỷ 21, đặc biệt là khi thay đổi khí hậu tương tác với
các yếu tố tác động khác. Các loài sinh vật biển sẽ phải đối mặt
với mức ôxy thấp hơn và mức độ axit hóa đại dương cao hơn (với
độ tin cậy cao), và nhiều rủi ro khác có liên quan đến sự gia tăng
nhiệt độ cực đại của đại dương (với độ tin cậy trung bình). Rạn
san hơ và các hệ sinh thái vùng cực sẽ dễ bị tổn thương hơn và có
sự thay đổi về cấu trúc, như sự thay thế của các lồi san hơ, hoặc
bị tẩy trắng hoặc bị chết, giảm độ phủ dẫn đến làm mất các hệ
sinh thái biển quan trọng của các loài thuỷ sinh (với độ tin cậy
cao). Các vùng biển với mức ôxy thấp sẽ dần dần mở rộng ra ở
Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương, đẩy mạnh
q trình phân tầng nước (ví dụ như phân tầng nhiệt) (với độ tin
cậy cao) và hạn chế môi trường sống của cá, dẫn đến suy giảm
sản lượng đánh bắt thuỷ sản (với độ tin cậy trung bình).
Acid hố đại dương cũng là hậu quả của quá trình tăng phát
thải, thể hiện qua xu hướng giảm pH trong nước biển. Cụ thể, độ
pH nước biển trong giai đoạn tham chiếu (giai đoạn 1986-2005)
là 8,11. Mức pH này và nhiệt độ bề mặt nước biển (SST) được dự
báo lần lượt sẽ giảm (pH) và tăng tương ứng (SST) trên bề mặt
đại dương theo các kịch bản BĐKH toàn cầu như sau: mức giảm
pH nằm trong khoảng từ 0,06 đến 0,07 (tăng 15-17% độ axit) và
tăng 1,0 độ C về nhiệt độ bề mặt nước biển (SST) đối với kịch
7


bản RCP2.6; pH giảm 0,14 đến 0,15 (tăng 38 đến 41% độ axit)
và tăng 1,8 độ C đối với kịch bản RCP4.5; pH giảm 0,20 đến
0,21 (tăng 58-62% độ axit) và tăng 2,2 độ C cho kịch bản

RCP6.0; và pH giảm 0,30 đến 0,32 (tăng 100 đến 109% độ axit)
và tăng 3,7 độ C cho kịch bản cao nhất RCP 8.5. Dự báo, với
mức thay đổi pH và nhiệt độ bề mặt nước biển trong 2 kịch bản
RCP 2.6 và RCP 4.5 thì khoảng 20-50% rạn san hơ, động vật da
gai và nhuyễn thể bắt đầu bị ảnh hưởng; còn với mức thay đổi
lớn hơn trong 2 kịch bản cao hơn cịn lại là RCP 6.0 và 8.5 thì
hầu hết các loài sinh vật biển nhạy cảm và các rạn san hô ở vùng
nước ấm đều bị ảnh hưởng với mức suy giảm nghiêm trọng.
Các hệ sinh thái biển, đặc biệt là các rạn san hô và các hệ sinh
thái vùng cực, có nguy cơ bị rủi ro cao do axit hóa đại dương
(mức độ tin cậy từ trung bình đến cao). Axit hóa đại dương có tác
động đến sinh lý học, hành vi và mức độ biến động quần đàn của
các sinh vật. Tác động đối với từng loài và số lượng các lồi bị
ảnh hưởng trong các nhóm loài sẽ tăng dần từ kịch bản RCP4.5
đến kịch bản RCP8.5. Các lồi có vỏ canxi như động vật thân
mềm và san hơ có tính nhạy cảm cao hơn động vật giáp xác (với
độ tin cậy cao) và các loài cá (độ tin cậy thấp). Cả các rạn san hô
ở vùng nước ấm và vùng nước lạnh đều bị ảnh hưởng tiêu cực.
Hiện tượng axit hóa đại dương kết hợp cùng với những thay đổi
tồn cầu khác (ví dụ như sự nóng lên tồn cầu, mức ơxy hồ tan
trong nước suy giảm) và với sự thay đổi mang tính địa phương
(như ô nhiễm môi trường nước, phú dưỡng nước tại những vùng
nhất định) sẽ dẫn tới các tác động tương tác với nhau, mang tính
phức tạp và khuếch đại rộng lớn hơn đối với các loài và hệ sinh
8


thái biển (độ tin cậy cao). Đặc biệt là với các lồi có vỏ canxi, khi
acid hố đại dương kết hợp với tăng nhiệt độ bề mặt nước biển sẽ
làm giảm khả năng chống chịu của các loài này với nhiệt độ.

Thay đổi các điều kiện đại dương như thời điểm tảo nở hoa,
thay đổi trong chuỗi thức ăn tự nhiên, thay đổi trong các mối
quan hệ giữa con mồi và địch hại cũng như mơ hình quần đàn cá
sẽ dẫn đến các thay đổi về năng suất cá biển trong tương lai. Do
nhiệt độ bề mặt nước biển tăng nên nếu chưa xét đến các yếu tố
khác (như ô nhiễm môi trường, tác động của con người trong
đánh bắt thuỷ sản,…), dự báo đến năm 2050, tổng năng suất sơ
cấp (sinh khối tảo) trên các vùng biển có thể tăng thêm khoảng
0,7-8,1%, nhưng sẽ có sự khác biệt lớn giữa các vùng khác nhau,
ví dụ: năng suất sơ cấp sẽ giảm ở các vùng biển vĩ độ thấp (gần
xích đạo) do nhiệt độ biển tăng vượt quá ngưỡng thích nghi của
các loài thực vật thủy sinh. Điều này sẽ dẫn đến sự phân mảnh,
gián đoạn và giảm sự kết nối giữa các hệ sinh thái biển và có thể
dẫn đến sự sụt giảm chung về sản lượng thủy sản trong trung hạn,
tuy nhiên, tác động này đối với nghề cá là không rõ ràng.
Đối với các hệ thống ven biển và các khu vực thấp trũng ven
biển cũng sẽ nằm trong phạm vi rủi ro do mực nước biển dâng và
rủi ro này sẽ tiếp tục tồn tại hàng thế kỷ ngay cả khi nhiệt độ
trung bình tồn cầu được ổn định (độ tin cậy cao).
Biến đổi khí hậu cũng có thể sẽ làm suy yếu tình hình an ninh
lương thực và thực phẩm. Do thay đổi khí hậu, dự báo vào giữa
thế kỷ 21 trở đi, sẽ có sự thay đổi về phân bố của nguồn lợi hải
sản trên toàn cầu và đa dạng sinh học biển ở các vùng biển nhạy
cảm sẽ bị giảm thiểu, thách thức mục tiêu duy trì năng suất thủy
9


sản bền vững và các dịch vụ hệ sinh thái biển khác (với độ tin
cậy cao). Sản lượng khai thác thủy sản trên tồn cầu sẽ có sự biến
động lớn tại các vùng biển. Dựa trên các điều kiện đặc điểm của

đại dương và mơ hình khí hậu đơn lẻ theo kịch bản nhiệt độ bề
mặt nước biển tăng từ trung bình đến cao (chưa xét đến tác động
do đánh bắt thuỷ sản quá mức hoặc axit hóa đại dương), báo cáo
lần thứ 5 (AR5-2014) của IPCC (2014) so sánh sản lượng khai
thác hải sản tối đa (của 1000 loài thủy sản được khai thác phổ
biến) giữa các vùng biển toàn cầu trong giai đoạn 10 năm 20512060 so với giai đoạn 2001-2010 cho thấy, phần lớn các vùng
biển ven xích đạo và vùng Nam cực có sự suy giảm sản lượng
đánh bắt thủy sản ở mức 1-5%, 21-50% và thậm chí ở mức cao
trên 50%.
Do nhiệt độ nước biển tăng nên sự phân bố của các lồi thuỷ
sinh có xu hướng thay đổi theo hướng di cư lên các vùng vĩ độ
cao hơn, nơi có nhiệt độ mát hơn, thường là hướng về 2 cực. Các
loài thuỷ sinh trong nước ngọt cũng thay đổi tập tính mùa vụ, mơ
hình di cư, mức độ phong phú quần đàn và sự tương tác giữa các
loài với nhau. Cấu trúc của các hệ sinh thái thuỷ sinh cũng có sự
thay đổi.
Trong bản đồ dự báo của IPCC (2014) trong Báo cáo AR52014, vùng biển Việt Nam thể hiện xu hướng giảm về sản lượng
đánh bắt cực đại trong giai đoạn 10 năm 2051-2060 so với giai
đoạn 2001-2010 ở khu vực vịnh Bắc bộ, vùng biển Tây Nam bộ
và vùng vịnh Thái Lan ở mức giảm 6-20% và xu hướng tăng nhẹ
sản lượng đánh bắt ở khu vực biển miền Trung khoảng 20-49%.
Tuy nhiên, kết quả tính tốn này của IPCC chưa xét đến tác động
10


từ đánh bắt quá mức và axit hóa đại dương nên cần được các
quốc gia nghiên cứu sâu thêm cho phù hợp với bối cảnh KTXH
của quốc gia mình.
Như vậy, có thể thấy tác động của BĐKH đến thuỷ sản trên
toàn cầu được đề cập chưa nhiều trong báo cáo lần thứ 5 của

IPCC (2014). Báo cáo mới chủ yếu phân tích và đưa ra các nhận
định, dự báo về ảnh hưởng của sự tăng nhiệt độ bề mặt nước biển
và acid hoá đại dương đến các hệ sinh thái biển và nguồn lợi thuỷ
sản phổ biến như giáp xác, da gai, và hệ sinh thái rạn san hô. Các
dự báo chủ yếu mang tính định tính chung, chưa có các định
lượng cụ thể. Tác động của BĐKH đến phát triển ni trồng thuỷ
sản trên tồn cầu hầu như chưa được phân tích, đánh giá trong
AR5-2014 của IPCC (2014).
3. Tác động của BĐKH đến thuỷ sản tại Việt Nam
Năm 2016, Bộ Tài Nguyên và Môi trường đã thực hiện cập
nhật và ban hành Kịch bản BĐKH và NBD quốc gia mới (tạm
gọi là Kịch bản BĐKH và NBD năm 2016). Kịch bản “mới” năm
2016 đã kế thừa cách tiếp cận của IPCC trong AR5-2014 để xây
dựng 04 kịch bản BĐKH quốc gia dựa trên các phương án phát
triển kinh tế xã hội khác nhau trong giai đoạn đến năm 2100, bao
gồm: Kịch bản RCP2.6 là nhóm kịch bản phát triển thuộc loại
thấp; Kịch bản RCP8.5 là nhóm kịch bản thuộc loại cao; và hai
kịch bản RCP6.0 và RCP4.5 là hai nhóm kịch bản ổn định trung
gian nằm ở giữa hai kịch bản thấp và cao.
Trong 04 kịch bản BĐKH năm 2016 này, các yếu tố BĐKH
chính có thể gây ảnh hưởng đến phát triển thuỷ sản (MONRE,
2016) được xác định như sau:
11


- Nhiệt độ: miền Bắc tăng 1,9 – 2,4oC, miền Nam tăng 1,7 –
1,9oC (Kịch bản RCP4.5); tăng 3,3 – 4,0oC tại miền Bắc, tăng 3,0
–3,5oC tại miền Nam (Kịch bản RCP8.5);
- Lượng mưa: tăng 5 – 15% (Kịch bản RCP4.5); tăng trên
20% tại một số vùng (Kịch bản RCP8.5);

- NBD và xâm nhập mặn: ảnh hưởng tới diện tích nuôi nước
ngọt và nuôi nước lợ tại các vùng ven biển.
- Các hiện tượng cực đoan, như:
+ Số lượng các cơn bão lớn có xu hướng tăng;
+ Số ngày nóng trong năm (>35oC) có xu hướng tăng, đặc biệt
tại Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ và phía Nam;
+ Hạn hán có thể gây tác động nặng nề hơn tại một số vùng do
sự gia tăng nhiệt độ và giảm lượng mưa trong mùa khô.
Ảnh hưởng của các yếu tố BĐKH này đến lĩnh vực nuôi trồng
thuỷ sản tại Việt Nam được phân tích, đánh giá như sau:
3.1. Tác động của sự thay đổi nhiệt độ
Nhiệt độ là một trong hai yếu tố vật lý đặc trưng của thủy vực
có liên quan chặt chẽ đến BĐKH và có ảnh hưởng lớn tới sự sinh
trưởng và phát triển của đối tượng thủy sản nuôi. Biên độ biến
đổi của nhiệt độ nước nhỏ hơn so với trên cạn song vô cùng quan
trọng đối với thủy sinh vật do phạm vi chống chịu với nhiệt độ
của thủy sinh vật nhỏ hơn so với sinh vật trên cạn (Ngơ Đăng
Nghĩa, 2008). Vai trị của nhiệt độ nước đối với thủy sinh vật và
nuôi trồng thủy sản (NTTS) đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
Nhiệt độ có ảnh hưởng tới tốc độ trao đổi chất, nhịp độ sinh sản
và phát triển của thủy sinh vật. Trong giới hạn sinh thái, tốc độ
12


trao đổi chất của sinh vật tăng khi nhiệt độ tăng, ngược lại, tốc độ
đó giảm khi nhiệt độ giảm. Nhiệt độ là yếu tố giới hạn, tác động
mạnh đến đời sống thủy sinh vật vì chúng là các sinh vật biến
nhiệt. Khoảng thích hợp của nhiệt độ đối với hệ động vật nhiệt
đới là từ 14-15oC đến 32-35oC. Mỗi lồi khác nhau có biên độ
thích hợp khác nhau. Đối với cá rô phi vằn từ 20-32oC; đối với

tôm sú, nhiệt độ thích hợp ở các giai đoạn phát triển khác nhau
đã được Staples và Heales (1991), Fast & Boyd (1992) và Bùi
Quang Tề (2003) nghiên cứu: Tơm sú có khả năng chịu được
ngưỡng nhiệt độ cao tới 35oC nhưng ở nhiệt độ thấp 12oC tơm
chết và nhiệt độ thích hợp từ 28-32oC. Kết quả nghiên cứu ở
miền Bắc cho thấy, nhiệt độ từ 30oC-35oC tôm lớn nhanh, sau 90
ngày đạt trung bình 15,7 g/con. Vụ Đơng với nhiệt độ 17oC-25oC
tôm lớn chậm, sau 90 ngày chỉ đạt 4,2 g/con (Bùi Quang Tề,
2003).
Thơng qua áp dụng mơ hình kinh tế lượng, theo nghiên cứu
của Cao Lệ Quyên (2016), số lượng ngày nắng nóng trên 35°C có
ảnh hưởng tiêu cực tới sản lượng tơm ni và ảnh hưởng này có
thể kéo dài tới ba năm sau. Kết quả nghiên cứu tại Thanh Hố
cho thấy, khi khơng có các giải pháp thích ứng, nếu số ngày nắng
nóng trên 35°C trong năm tăng 01 ngày sẽ làm cho sản lượng
tôm nuôi năm sau giảm 0,4%, hai năm sau giảm 0,6% và ba năm
sau tiếp tục giảm 0,4%. Điều này có thể giải thích là do nắng
nóng kéo dài đã làm tơm bị giảm khả năng miễn dịch, giảm ăn,
dễ bị mắc bệnh, giảm tốc độ lớn và thậm chí có thể bị chết hàng
loạt (nếu người ni khơng thực hiện giải pháp thích ứng nào).
Bên cạnh yếu tố số lượng ngày nắng nóng trên 35°C, nghiên cứu
13


của Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015) cũng cho thấy, yếu tố
về nhiệt độ trung bình năm (trong phạm vi giới hạn dưới 35 độ
C) cũng gây ảnh hưởng tiêu cực tới sản lượng nuôi trồng thuỷ
sản của khu vực 10 tỉnh Bắc bộ. Khi nhiệt độ trung bình năm
tăng lên 1°C sẽ làm giảm sản lượng nuôi trồng khoảng 5,94%
(Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự, 2015).

Nghiên cứu của Kam và các cộng sự (2010) thơng qua phân
tích, dự báo chi phí và lợi ích của các giải pháp thích ứng với
BĐKH cho ni trồng thuỷ sản của khu vực ĐBSCL cũng cho
thấy, khi khơng có giải pháp thích ứng thì thu nhập từ ni của
hộ ni tơm nước lợ của ĐBSCL có thể giảm 130 tr.đồng/ha ni
vào năm 2020 và 950 tr.đồng/ha ni vào năm 2050; cịn thu
nhập từ ni của hộ ni cá tra tại đây có thể giảm 3 tỷ đồng/ha
nuôi vào năm 2050 (Kam và các cộng sự, 2010).
Cũng áp dụng phương pháp tiếp cận kinh tế học với hàm
thống kê, Đặng Kiều Nhân và cộng sự (2010) đã nghiên cứu ảnh
hưởng của sự thay đổi nhiệt độ đến sản lượng tôm nuôi tại khu
vực ĐBSCL. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở giới hạn từ 30oC trở
lên, khi nhiệt độ tăng lên 1oC thì năng suất tơm ni sẽ giảm
khoảng 0,09-0,16 tấn/ha diện tích nuôi tại ĐBSCL (Đặng Kiều
Nhân và cộng sự, 2010). Kết quả nghiên cứu này của Đặng Kiều
Nhân và cộng sự (2010) mới chỉ được thực hiện dựa trên kịch
bản BĐKH được ban bành năm 2009, mà chưa được cập nhật
theo kịch bản BĐKH mới được ban hành năm 2016. Để cập nhật
theo kịch bản BĐKH mới được ban hành năm 2016 để xem xét
tác động của yếu tố nhiệt độ tăng đến năng suất và sản lượng tôm
nuôi tại vùng ĐBSCL, sẽ cần phải xây dựng các giả thiết nghiên
14


cứu khác nhau như giả định là yếu tố về KHCN và kỹ thuật trong
nuôi tôm không thay đổi, cơ quan quản lý và người dân nuôi tôm
tại khu vực ĐBSCL cũng sẽ khơng áp dụng các giải pháp thích
ứng nào trong ni tơm để thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ tác
động của BĐKH và các yếu tố tác động khác của BĐKH như
thay đổi lượng mưa, NBD và các hiện tượng khí hậu cực đoan

cũng được giả định là sẽ không thay đổi tác động đến nuôi tôm.
Khi đó, với kịch bản thay đổi nhiệt độ trung bình của khu vực
ĐBSCL đến năm 2030 vào khoảng 1,3-1,4 độ C (kịch bản RCP
4.5) và 1,8-1,90C (kịch bản RCP 8.5) (MONRE, 2016) và diện
tích ni tơm của khu vực ĐBSCL được quy hoạch đến năm
2030 là 695.000 ha (VIFEP, 2017) (chiếm khoảng 85% diện tích
ni tơm của cả nước), thì sản lượng tơm ni của khu vực
ĐBSCL có thể bị thiệt hại khoảng 7,04 – 13,5% so với sản lượng
tôm nuôi kỳ vọng (kịch bản RCP 4.5) và 9,7 – 18,3% (kịch bản
RCP 8.5) khi khơng có giải pháp thích ứng nào được thực hiện và
giả định các yếu tố đầu vào khác của hoạt động nuôi tôm không
thay đổi (như công nghệ, kỹ thuật nuôi, vốn đầu tư,…). Tuy
nhiên, do số lượng giả định cho việc tính tốn mức thiệt hại trên
theo cách tiếp cận của (Đặng Kiều Nhân và cộng sự, 2010) là
tương đối lớn (đặc biệt là việc giữ nguyên các yếu tố đầu vào
khác của hoạt động nuôi tôm không thay đổi như công nghệ, kỹ
thuật nuôi, vốn đầu tư,…) và một số yếu tố BĐKH khác như sự
thay đổi về lượng mưa, NBD và thời tiết cực đoan vẫn chưa được
xem xét trong tính tốn này nên mức độ tin cậy của tính tốn dự
báo trên về thiệt hại của sản lượng tôm nuôi tại ĐBSCL đến năm
2030 là tương đối thấp. Cần có thêm các nghiên cứu sâu hơn nữa
với sự xem xét toàn diện các yếu tố tác động đến sản lượng tôm
15


nuôi tại ĐBSCL để nâng cao mức độ tin cậy của dự báo thiệt hại
thì mới có thể sử dụng các kết quả dự báo này trong việc hoạch
định các chính sách và quy hoạch phát triển.
Đối với lĩnh vực khai thác thuỷ sản, thơng qua các mơ hình
kinh tế lượng, các tác giả Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự

(2015), Nguyễn Viết Thành và cộng sự (2014) và Phan Phương
Thanh (2016) đã lượng hoá ảnh hưởng của các yếu tố BĐKH như
thay đổi lượng mưa vùng ven biển, thay đổi nhiệt độ bề mặt nước
biển hoặc nhiệt độ khơng khí vùng ven biển, số lượng các cơn
bão mạnh hằng năm (bên cạnh các yếu tố đầu vào liên quan đến
lĩnh vực khai thác thuỷ sản như số lượng và công suất tàu thuyền,
lao động khai thác - ngư dân, vốn đầu tư và các chính sách hỗ trợ
phát triển khai thác thuỷ sản).
Kết quả nghiên cứu áp dụng mơ hình kinh tế lượng của
Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015) cho thấy, nhiệt độ khơng
khí có ảnh hưởng tiêu cực tới sản lượng đánh bắt thủy sản trong
năm. Nếu nhiệt độ tăng lên 1°C thì sản lượng khai thác trong
năm sẽ giảm tương ứng 5,89%. Nhưng nhiệt độ tăng lại có ảnh
hưởng tích cực tới sản lượng thủy sản khai thác những năm sau
đó. Sản lượng sẽ tăng 5,69% trong năm sau và 11,38% trong năm
sau nữa nếu như năm nay nhiệt độ tăng thêm 1°C. Điều này thể
hiện độ trễ của tác động từ tăng nhiệt độ. Nhiệt độ bề mặt nước
biển tăng cũng có ảnh hưởng tốt tới đánh bắt thủy sản tại thời
điểm đó hoặc ngay sau đó, nhưng về lâu dài thì lại dẫn đến ảnh
hưởng không tốt. Nếu không xét đến các yếu tố khác như đánh
bắt q mức, acid hố đại dương... thì khi nhiệt độ bề mặt nước
biển tăng lên 1°C sẽ làm sản lượng đánh bắt trong năm tăng lên
16


22,3%, nhưng lại làm giảm sản lượng đánh bắt trong năm sau đó
khoảng 16,6%. Như vậy, nhiệt độ bề mặt nước biển có ảnh
hưởng tới sự di cư của các loài động vật biển và thủy sản. Nhiệt
độ này tăng lên có thể là điều kiện lý tưởng cho nhiều lồi sinh
sống (khi khơng xét đến các yếu tố khác như đánh bắt q mức,

acid hố đại dương,...). Ngồi ra, sự tăng nhiệt trong khoảng cho
phép có thể làm tăng năng suất sơ cấp cho các ao nuôi, vùng khai
thác, tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của các loài thủy sinh là
nguồn thức ăn quan trọng cho các lồi thủy thủy sản. Tuy nhiên,
nếu tình trạng nhiệt độ vẫn diễn biến tăng qua các năm, dẫn đến
tăng quá mức theo thời gian, có thể mơi trường sống đó sẽ khơng
cịn phù hợp và các lồi động vật biển, thủy sản bắt buộc phải di
cư để tìm kiếm mơi trường sống mới phù hợp hơn, hoặc giảm
năng suất sơ cấp, từ đó làm suy giảm nguồn tài nguyên biển và
sản lượng đánh bắt thuỷ sản.
Thiệt hại về mặt kinh tế (giá trị) hằng năm của lĩnh vực khai
thác và nuôi trồng thuỷ sản tại 10 tỉnh Bắc bộ và Bắc trung bộ (từ
Quảng Ninh đến Thừa Thiên - Huế) theo kịch bản BĐKH về
nhiệt độ đến năm 2050 (theo giá so sánh 2012, tỷ lệ chiết khấu
3%/năm) đã được Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015) nghiên
cứu. Theo đó, mức thiệt hại về mặt kinh tế do thay đổi về nhiệt
độ theo kịch bản sẽ lần lượt là 410 tỷ đồng đối với lĩnh vực khai
thác thuỷ sản và 445 tỷ đồng đối với lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản
đến năm 2050 tại khu vực này (Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự,
2015). Tuy nhiên, nghiên cứu này của Nguyễn Ngọc Thanh và
cộng sự (2015) mới chỉ được thực hiện dựa trên kịch bản BĐKH
cũ (ban hành năm 2012), chưa được cập nhật theo kịch bản
17


BĐKH mới năm 2016 và được thực hiện cho phạm vi 10 tỉnh
Bắc bộ và Bắc trung bộ. Việc cập nhật kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015) theo kịch bản BĐKH
mới năm 2016 trong nghiên cứu này là khó khả thi do địi hỏi
một khối lượng số liệu lớn cần thu thập. Bởi vậy, việc cập nhật

này nên được xem xét các trong nghiên cứu khác.

Hình 1: Thiệt hại về mặt kinh tế của khai thác thuỷ sản (KTTS) do
thay đổi nhiệt độ đến năm 2050 vùng duyên hải Bắc bộ và Bắc Trung
bộ (giá so sánh 2012, chiết khấu 3%/năm).
Nguồn: Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015)

18


Hình 2: Thiệt hại về mặt kinh tế của ni trồng thuỷ sản (NTTS)
do thay đổi nhiệt độ đến năm 2050 vùng duyên hải Bắc bộ và Bắc
Trung bộ (giá so sánh 2012, chiết khấu 3%/năm).
Nguồn: Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015)

Đối với yếu tố sản lượng nuôi trồng thủy sản ở cấp độ ngành,
nghiên cứu của Nguyễn Viết Thành và cộng sự (2015) đã sử
dụng cách tiếp cận kinh tế để lượng hóa được tác động của các
yếu tố BĐKH đến sản lượng ni trồng thủy sản tồn quốc.
Theo đó, khi lượng mưa năm nay tăng lên 100 mm sẽ làm sản
lượng nuôi trồng năm sau giảm 0,0353%. Theo mơ hình ước
lượng, nếu số lượng cơn bão (sức gió >100 km/h) tăng lên 1 cơn
bão hằng năm thì sản lượng nuôi trồng thủy sản sẽ giảm khoảng
0,13%, nếu số lượng ATNĐ tăng lên 1 cơn thì tương ứng sản
lượng giảm 0,16% trong năm sau và 0,19% trong năm tiếp theo
nữa. Tác động kéo dài này có thể do việc khắc phục những thiệt
hại do thiên tai là khó khăn và mất nhiều thời gian, đặc biệt là
19



những thiệt hại do thay đổi về chất lượng môi trường nuôi
trồng, trong khi thiên tai vẫn tiếp tục diễn ra trong những năm
tiếp theo (Nguyễn Viết Thành và cộng sự, 2015).
3.2. Tác động của thay đổi lượng mưa
Theo nhiều nghiên cứu, yếu tố thay đổi lượng mưa cũng gây
ảnh hưởng đến ni trồng thuỷ sản vì khi lượng mưa tăng đột
ngột sẽ gây lũ lụt và làm độ mặn trong các ao ni nước lợ giảm
xuống đột ngột, có thể gây hiện tượng “sốc ngọt” cho tôm nuôi,
hoặc gây thay đổi pH trong ao nuôi (Bùi Quang Tề, 2003;
Nguyễn Ngọc Thanh và các cộng sự, 2015) hoặc nước mưa từ
xung quanh thuỷ vực đổ xuống sẽ mang theo các chất gây ô
nhiễm cho đối tượng nuôi. Trong nghiên cứu của Cao Lệ Quyên
và các cộng sự (2015) về ảnh hưởng của BĐKH đến NTTS ven
biển vùng Bắc trung bộ cũng cho thấy, lượng mưa là một trong
những yếu tố mơi trường có ảnh hưởng đến hoạt động ni tơm.
Đối với lĩnh vực khai thác thuỷ sản, thông qua các mơ hình
kinh tế lượng, các tác giả Ngũn Ngọc Thanh và các cộng sự
(2015), Nguyễn Viết Thành và cộng sự (2014) và Phan Phương
Thanh (2016) đã lượng hoá ảnh hưởng của các yếu tố BĐKH
như thay đổi lượng mưa vùng ven biển, thay đổi nhiệt độ bề mặt
nước biển hoặc nhiệt độ khơng khí vùng ven biển, số lượng các
cơn bão mạnh hằng năm (bên cạnh các yếu tố đầu vào liên quan
đến lĩnh vực khai thác thuỷ sản như số lượng và công suất tàu
thuyền, lao động khai thác - ngư dân, vốn đầu tư và các chính
sách hỗ trợ phát triển khai thác thuỷ sản). Kết quả nghiên cứu
về kinh tế lượng của các tác giả này cho thấy yếu tố thay đổi
lượng mưa của vùng ven biển có tác động tiêu cực đến sản
20



lượng khai thác thuỷ sản hằng năm của Việt Nam, và có ý nghĩa
thống kê. Theo đó, khi lượng mưa của vùng ven biển tăng lên
100 mm (0,1 m) thì sản lượng khai thác thủy sản hằng năm
giảm trung bình từ 0,98% trong cùng năm (Nguyễn Ngọc Thanh
và các cộng sự, 2015) đến 2,2% (Nguyễn Viết Thành và các
cộng sự, 2014) và có thể giảm 1,5% sản lượng khai thác của
năm sau (Nguyễn Ngọc Thanh và các cộng sự, 2015).

Hình 3: Thiệt hại về mặt kinh tế của khai thác thuỷ sản (KTTS) do
thay đổi lượng mưa đến năm 2050 vùng duyên hải Bắc bộ và Bắc
Trung bộ (giá so sánh 2012, chiết khấu 3%/năm).
Nguồn: Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015)

Thiệt hại về mặt kinh tế (giá trị) hằng năm của lĩnh vực khai
thác và nuôi trồng thuỷ sản tại 10 tỉnh Bắc bộ và Bắc trung bộ
(từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên-Huế) theo kịch bản BĐKH về
nhiệt độ đến năm 2050 (theo giá so sánh 2012, tỷ lệ chiết khẩu
21


3%/năm) được dự báo ở mức lần lượt khoảng 3 tỷ đồng và 60 tỷ
đồng (Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự, 2015). Như vậy, mặc dù
lượng mưa có tác động tiêu cực đến khai thác thuỷ sản nhưng
tác động này của lượng mưa là tương đối nhỏ so với yếu tố thay
đổi nhiệt độ và so với tác động đến ni trồng thuỷ sản.

Hình 4: Thiệt hại về mặt kinh tế của nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) do
thay đổi lượng mưa đến năm 2050 vùng duyên hải Bắc bộ và Bắc
Trung bộ (giá so sánh 2012, chiết khấu 3%/năm).
Nguồn: Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015)


3.3. Tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan
Các hiện tượng cực đoan được đề cập trong kịch bản BĐKH
2016 bao gồm: Số lượng các cơn bão lớn có xu hướng tăng; Số
ngày nóng trong năm (>35oC) có xu hướng tăng, đặc biệt tại Bắc
Trung Bộ, Nam Trung Bộ và phía Nam; và hiện tượng hạn hán
có thể gây tác động nặng nề hơn tại một số vùng do sự gia tăng
nhiệt độ và giảm lượng mưa trong mùa khô.
22


Tuy nhiên, với yếu tố số ngày nóng trong năm (>35oC) thì đã
được phân tích ở phần tác động của thay đổi nhiệt độ, hiện tượng
hạn hán thì hiện nay chưa có nghiên cứu đánh giá nên báo cáo
này sẽ tập trung vào phân tích tác động của các cơn bão và áp
thấp nhiệt đới đối với ngành thuỷ sản.
Theo VIFEP (2012), Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015)
và Mai Văn Tài và cộng sự (2015), bão và áp thấp nhiệt đới,
ngoài đi kèm theo mưa lớn, làm giảm mạnh độ mặn và pH ở các
ao nuôi tôm hoặc các ao nuôi nước lợ khác làm đối tượng nuôi dễ
bị sốc và chết hàng loạt, thì bão cịn tàn phá cơ sở hạ tầng vùng
nuôi như sạt lở đê bao, kênh mương thủy lợi, lều, vật tư, thiết bị,
hoặc gây thiệt hại lớn cho tàu thuyền khai thác thuỷ sản trên biển.
Theo thống kê của Văn phòng Thường trực Phòng chống lụt bão
Trung ương thì chỉ tính riêng cơn bão Linda năm 1997 đã làm
chìm và hư hại gần 2000 tàu thuyền khai thác thủy sản, gây thiệt
hại khoảng 136.000 ha diện tích ni trồng thủy sản và hơn
34.000 tấn thủy hải sản các loại1. Ngoài ra, với hàng triệu lao
động trực tiếp và gián tiếp tham gia hoạt động sản xuất thủy sản,
chủ yếu sống ở khu vực ven biển, ngành thủy sản Việt Nam rất

dễ bị tổn thương bởi các tai biến thiên nhiên và nước biển dâng
do biến đổi khí hậu gây ra (Nguyễn Viết Thành và cộng sự,
2014).
Theo nghiên cứu của Cao Lệ Quyên (2016), ở cấp độ cộng
đồng người nuôi, sức khỏe của đối tượng ni như sức đề kháng,
1

Theo Văn phịng Thường trực Ban chỉ huy Phòng chống lụt bão Trung ương:
/>
23


khả năng nhiễm bệnh và môi trường trong ao nuôi bị ảnh hưởng
mạnh nhất do tác động của nhiệt độ tăng trong mùa hè và thay
đổi lượng mưa trong mùa mưa. Hệ thống cơ sở hạ tầng vùng nuôi
là đối tượng bị thiệt hại nhiều nhất do NBD và bão lũ vì gây sạt
lở đê bao, kênh mương, đường nội vùng. Kết quả này cũng phù
hợp với nghiên cứu của Bùi Quang Tề (2003) và Mai Văn Tài và
các cộng sự (2014b).
Trong nghiên cứu của Cao Lệ Quyên (2016), thông qua mơ
hình tương quan hồi quy giữa sản lượng tơm nuôi nước lợ và các
yếu tố đầu vào của nuôi tơm, trong đó có yếu tố BĐKH cho thấy,
yếu tố về số lượng cơn bão mạnh không chỉ tác động tới sản
lượng tơm ni trong một năm mà cịn ảnh hưởng kéo dài trong
hai, ba năm tiếp theo. Nếu số lượng cơn bão năm nay tăng lên 1
cơn sẽ làm cho sản lượng tôm nuôi năm sau giảm 2,5% và năm
sau nữa giảm 2,9%. Điều này có thể giải thích là do bão đã làm
suy giảm chất lượng môi trường trong và xung quanh khu vực
nuôi, xáo trộn môi trường của các thủy vực nước cấp. Đồng thời,
bão cũng làm hư hỏng, thiệt hại CSHT quan trọng cho nuôi tôm

như đê, kè, bờ bao, lều trại, máy móc, thiết bị... địi hỏi nhiều thời
gian và nguồn lực lớn để có thể khắc phục.
Đối với lĩnh vực khai thác thuỷ sản, thời gian qua, đã có một
số nghiên cứu cố gắng lượng hoá ảnh hưởng của việc tăng số
lượng cơn bão mạnh đến sản lượng đánh bắt hải sản của Việt
Nam, như nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự
(2015), Nguyễn Viết Thành và các cộng sự (2014) và Phan
Phương Thanh (2016). Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc
Thanh và cộng sự (2015) cho thấy, bão không chỉ ảnh hưởng tới
24


sản lượng khai thác thuỷ sản trong một năm, mà có thể làm ảnh
hưởng tới sản lượng của các năm sau: nếu số lượng cơn bão tăng
lên 1 cơn sẽ làm sản lượng thủy sản khai thác giảm 1,57% trong
cùng năm và giảm 2,17% trong năm sau. Ngược lại, áp thấp nhiệt
đới (ATNĐ) lại có ảnh hưởng tích cực tới sản lượng khai thác.
Nếu số lượng ATNĐ tăng lên 1 cơn trong năm sẽ làm tăng 3,58%
sản lượng thủy sản khai thác năm nay và tăng 3,07% trong năm
sau. Nguyên nhân có thể là do ATNĐ đã làm thay đổi mật độ và
sự xuất hiện của các loài sơ cấp (thực vật phù du, động vật nổi,
các loài cá nhỏ...) dẫn đến sự xuất hiện nhiều hơn của các quần
đàn cá ăn mồi để làm tăng sản lượng đánh bắt của ngư dân. Điều
này cũng phù hợp với thực tế quan sát trong hoạt động sản xuất
của ngư dân.
Thiệt hại về mặt kinh tế (giá trị) hằng năm của lĩnh vực khai
thác thuỷ sản và nuôi trồng thuỷ sản tại 10 tỉnh Bắc bộ và Bắc
trung bộ (từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên-Huế) theo kịch bản
BĐKH về bão đến năm 2050 (theo giá so sánh 2012, tỷ lệ chiết
khấu 3%/năm) cũng được dự báo lần lượt ở mức khoảng 115 tỷ

đồng và 60 tỷ đồng (Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự, 2015).
Xét trên phạm vi tồn lĩnh vực ni trồng thuỷ sản, nghiên
cứu của Nguyễn Viết Thành và cộng sự (2015) đã đánh giá tác
động của biến đổi khí hậu (BĐKH) đối với nuôi trồng thủy sản
(NTTS) tại Việt Nam thông qua việc áp dụng hàm sản xuất để đo
lường ảnh hưởng của các yếu tố môi trường gây ra bởi BĐKH tới
sản lượng nuôi. Dữ liệu chuỗi thời gian từ năm 1981 đến năm
2013 của sản lượng, diện tích nuôi trồng, vốn đầu tư, lao động và
các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, thiệt hại do thiên tai đối với
25


NTTS đã được thu thập và sử dụng để phân tích mơ hình. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, sản lượng NTTS không chỉ phụ thuộc
vào các giá trị hiện tại của các biến đầu vào mà còn phụ thuộc
vào giá trị trễ của chúng và của chính biến sản lượng. Một số yếu
tố mơi trường có tác động tiêu cực tới sản lượng. Sự gia tăng về
số cơn bão, lượng mưa năm nay có thể ảnh hưởng làm suy giảm
sản lượng NTTS từ một đến hai năm sau.

Hình 5: Thiệt hại về mặt kinh tế của khai thác thuỷ sản do ảnh
hưởng của bão đến năm 2050 vùng duyên hải Bắc bộ và Bắc Trung bộ
(giá so sánh 2012, chiết khấu 3%/năm).
Nguồn: Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015)

26


Hình 6: Thiệt hại về mặt kinh tế của ni trồng thuỷ sản do ảnh
hưởng của bão đến năm 2050 vùng duyên hải Bắc bộ và Bắc Trung bộ

(giá so sánh 2012, chiết khấu 3%/năm).
Nguồn: Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự (2015)

3.4. Tác động của nước biển dâng
Nước biển dâng thường gây ảnh hưởng đến sản xuất thuỷ sản
ở 2 khía cạnh. Thứ nhất là gây xâm nhập mặn các vùng ven biển,
dẫn đến thay đổi độ mặn trong thuỷ vực nuôi và thuỷ vực nước
cấp dẫn đến thay đổi mơi trường sống của các lồi ni thuỷ sản
tại vùng nước lợ và vùng nước ngọt sát biển. Khi đó cơ cấu đối
tượng ni sẽ phải thay đổi để thích ứng với sự thay đổi của độ
mặn trong nguồn nước. Thứ hai là tác động của nước biển dâng
kết hợp với nước dâng trong bão, thường gây hậu quả và thiệt hại
27


×