Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Một số giải pháp phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.11 KB, 50 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG NỘI ĐỊA CÁC SẢN PHẨM GỖ VÀ
LÂM SẢN VIỆT NAM
TS. NguyÔn M¹nh Dòng
I. Mở đầu
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành chế
biến gỗ và lâm sản đã đạt được những thành tựu to lớn cả về
số lượng, chất lượng doanh nghiệp chế biến, kim ngạch xuất
khẩu và thị trường tiêu thụ sản phẩm... Các sản phẩm gỗ chế
biến đang ngày càng trở nên đa dạng hơn, có mẫu mã và chất
lượng sản phẩm ngày càng phù hợp hơn với cả thị trường trong
nước và xuất khẩu. Từ chỗ chỉ tập trung để tái xuất khẩu sang
một nước thứ ba, đến nay, các sản phẩm gỗ chế biến của Việt
Nam đã có mặt ổn định ở trên 120 nước và vùng lãnh thổ trên
toàn thế giới với nhiều doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu sang
các thị trường quan trọng.
Do vậy, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ cũng đang
ngày càng tăng một cách ổn định. Nếu như năm 2000, giá trị
kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ của nước ta chỉ mức
khiêm tốn là 214 triệu đô la Mỹ thì đến năm 2004 kim ngạch
xuất khẩu này đã lần đầu tiên vượt mốc 01 tỷ đô la Mỹ để đạt
giá trị 1,154 tỷ USD và năm 2017 kim ngạch xuất khẩu gỗ và
lâm sản đã chạm mức 8 tỷ USD, tăng 10,2% so năm 2016 và
về trước 3 năm so với kế hoạch đề ra trong Chiến lược phát
triển ngành lâm sản giai đoạn 2006 - 2020. Việt Nam đã trở
thành nước xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn thứ 5 thế giới với
gần 5,0% thị phần thương mại đồ gỗ nội thất thế giới, thứ hai
1


châu Á và đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Nói cách khác, chế


biến và xuất khẩu các sản phẩm gỗ và lâm sản đã và đang trở
thành một ngành kinh tế quan trọng, chủ lực trong nền kinh tế
của nước ta. Đây là một ngành kinh tế không những tạo công
ăn, việc làm, đem lại thu nhập cho người lao động mà còn là
một trong những ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn của
nước ta.
Tuy nhiên, vẫn đang tồn tại một nghịch lý là trong khi các
doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản đang ngày càng đẩy mạnh
các hoạt động sản xuất, chế biến sản phẩm xuất khẩu sang các thị
trường khác nhau trên thế giới thì thị trường trong nước với sức
tiêu thụ của hơn 90 triệu người dân có nhu cầu ngày càng tăng
cao, ước tính khoảng 2-4 tỉ USD/năm lại đang bị bỏ ngỏ cho các
doanh nghiệp nước ngoài. Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt
Nam (Vietfores), thị trường trong nước đang bị các sản phẩm gỗ
xuất xứ từ Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan,... chiếm lĩnh. Kết
quả một số cuộc điều tra, khảo sát thị trường của Vietfores gần
đây cho thấy, chỉ có khoảng 20% doanh số tiêu thụ đồ gỗ trong
nước thuộc về các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam, còn lại
80% thuộc về các sản phẩm của các doanh nghiệp Malaysia,
Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan...
Các loại lâm sản ngoài gỗ như tre, nứa, song mây... (dùng
để lấy sợi); thảo quả, quế, hồi... (dùng làm dược liệu) hoặc
măng tre, nứa... chế biến các loại (làm thực phẩm)... cũng vẫn
trong tình trạng chỉ hướng mạnh đến xuất khẩu. Kim ngạch
xuất khẩu các mặt hàng mây, tre, cói, thảm thường luôn chỉ
duy trì ở mức 200 - 280 triệu USD mỗi năm, chỉ cá biệt có một
vài năm lên đến 400 - 500 triệu USD. Các sản phẩm hàng hóa
như thảo quả, quế, hồi, nhựa thông, mật ong,... cho dù có
2



nhiều ưu điểm và lợi thế trên thị trường nội địa, nhưng cũng
chủ yếu được chế biến dành cho xuất khẩu. Số lượng sản phẩm
tiêu dùng cho thị trường nội địa hầu hết là các sản phẩm tự
cung, tự cấp hoặc sản phẩm chất lượng không cao, không xuất
khẩu được hoặc bị các thị trường thế giới trả về. Trong khi đó,
sản phẩm chế biến từ các loại lâm sản ngoài gỗ này của nước
ngoài như sữa ong chúa, sâm alipas... lại được quảng cáo, tiêu
thụ trong nước lại rất rầm rộ, với giá bán khá cao.
Để phát triển thị trường nội địa sản phẩm gỗ và lâm sản
tương ứng với hoạt động xuất khẩu các sản phẩm này, cũng
như tương xứng với tiềm năng của ngành, cần có những hoạt
động phù hợp điều kiện hiện tại, năng lực của các doanh
nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm và cơ sở hạ tầng và các
khâu của chuỗi cung ứng sản phẩm trên thị trường. Việc
nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phát triển thị trường nội địa
là rất cần thiết trong thời điểm hiện nay, khi cả nước đang thực
hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2017 - 2020 nói
chung và ngành lâm nghiệp nói riêng theo Quyết định số
1819/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có việc tái
cơ cấu lĩnh vực chế biến, thương mại lâm sản theo hướng nâng
cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
II. Thực trạng thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và
lâm sản
2.1. Thực trạng chế biến gỗ và lâm sản
2.1.1. Thực trạng chế biến lâm sản ngoài gỗ
Khai thác và chế biến lâm sản ngoài gỗ hiện tại chưa được
quan tâm đúng mức. Do đó chưa hình thành được hệ thống
thông tin được cập nhật thường xuyên về các hoạt động chế
biến lâm sản ngoài gỗ, kể cả chế biến trong nước và nhập

3


khẩu. Rất khó có thể có được các số liệu cụ thể, chính xác và
cập nhật trong lĩnh vực này. Các sở nông nghiệp và phát triển
nông thôn địa phương do chưa quan tâm thật sự đến lĩnh vực
này nên cũng hầu như không thống kê, lưu trữ các số liệu liên
quan đến hoạt động chế biến lâm sản ngoài gỗ một cách có hệ
thống và cập nhật.
Chế biến lâm sản ngoài gỗ hiện nay gồm 3 phương thức chủ
yếu là sơ chế sau thu hoạch, chế biến thủ công và chế biến
công nghiệp.
- Sơ chế lâm sản sau thu hoạch, bao gồm những biện pháp
thủ công chủ yếu như phơi khô, sấy khô, ướp muối, ngâm
chua,… để hạn chế tác động của nấm mốc, mục, mọt và thuận
lợi cho quá trình lưu thông.
- Chế biến thủ công chủ yếu là nghề đan lát thủ công mỹ
nghệ mây, tre. Tại một số địa phương đã triển khai được các
công nghệ chế biến ở quy mô hợp tác xã như các công nghệ,
thiết bị chưng cất tinh dầu hồi, quế… song số lượng không
nhiều và chất lượng sản phẩm chưa cao.
- Chế biến công nghiệp hiện tại chỉ sử dụng các lâm sản
ngoài gỗ chủ yếu như tinh dầu, nhựa thông, bột giấy và một số
sản phẩm cao cấp từ mây, tre.
Chế biến lâm sản ngoài gỗ hiện cũng đang tồn tại 03 hình
thức tổ chức sản xuất là: (i) chế biến tại hộ gia đình (chiếm
chủ yếu), (ii) chế biến trong các hợp tác xã, tổ sản xuất, và (iii)
chế biến trong các doanh nghiệp. Số lượng hộ, cơ sở chế biến
lâm sản ngoài gỗ hiện khó có thể xác định chính xác do chưa
có nguồn thống kê tin cậy.


4


Nhìn chung, sản phẩm lâm sản ngoài gỗ (kể cả sơ chế và
chế biến) chưa thực sự trở thành hàng hóa, trừ một số sản
phẩm đặc thù thuộc nhóm cây có sợi như các sản phẩm mây
tre, giang đan; sản phẩm nhóm tinh dầu, nhựa....
Có thể nói, công nghệ chế biến lâm sản ngoài gỗ còn rất lạc
hậu. Ngoài các doanh nghiệp chế biến tre, trúc, song, mây, dược
liệu, nhựa thông... của nhà nước có quy mô tương đối lớn và tập
trung, còn các doanh nghiệp chế biến lâm sản ngoài gỗ thuộc các
loại hình sở hữu khác đều có quy mô nhỏ, phân tán, năng lực chế
biến thấp. Chưa công bố được các tiêu chuẩn chất lượng sản
phẩm đối với các sản phẩm đã và đang lưu thông trên thị trường.
Chính vì vậy, nên chất lượng sản phẩm lâm sản ngoài gỗ tham
gia vào thị trường đều không cao. Gần đây, có khá nhiều doanh
nghiệp chế biến tre thành các sản phẩm công nghiệp như ván sàn
tre, tre ép khối, tre ghép thanh... đã đầu tư hệ thống dây chuyền,
thiết bị khá hiện đại từ Trung Quốc nhằm sản xuất ra khối lượng
sản phẩm hàng hóa lớn phục vụ xuất khẩu.
2.1.2. Thực trạng chế biến gỗ
Tính đến cuối năm 2017, cả nước có khoảng 3.000 doanh
nghiệp chế biến gỗ và nhiều hộ gia đình, cơ sở chế biến gỗ,
nhất là ở các làng nghề. Theo số liệu của Tổng cục lâm nghiệp
và Vietfores, năng lực chế biến gỗ của cả nước ước đạt trên 30
- 35 triệu m3/năm gỗ quy tròn. Đa phần các doanh nghiệp chế
biến gỗ của nước ta là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có đến 47%
tổng số các doanh nghiệp có công suất thiết kế sử dụng dưới
500 m3 gỗ tròn/năm. Có 21,67% tổng số doanh nghiệp có công

suất thiết kế sử dụng trên 10.000 m 3 gỗ nguyên liệu một năm.
Các doanh nghiệp này hầu hết là các doanh nghiệp có vốn
nước ngoài, doanh nghiệp sản xuất trong hệ thống phân phối
5


của nước ngoài (ví dụ như IKEA), các tập đoàn chế biến gỗ
trong nước hoặc các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu dăm gỗ
và các doanh nghiệp chế biến ván nhân tạo (MDF, ván
dăm…). Có 11,51% doanh nghiệp có quy mô thiết kế từ 1.000
- 10.000 m3 gỗ nguyên liệu một năm. Đa phần là các doanh
nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, được thiết kế và thành lập từ
khá lâu với công nghệ, thiết bị lạc hậu. Các doanh nghiệp này
có quy mô thiết kế 500 - 1.000 m3 nguyên liệu một năm, chiếm
19,78% tổng số doanh nghiệp chế biến cả nước.
Phần lớn các doanh nghiệp chế biến gỗ (56,1%) sản xuất
nhiều dạng sản phẩm như gỗ xẻ, dăm gỗ, gỗ mỹ nghệ,… Chỉ
có 8,6% tổng số doanh nghiệp chế biến tham gia chế biến ván
nhân tạo như MDF, ván (gỗ) dán, ván dăm, gỗ ghép thanh…
Đây là ngành chế biến gỗ có nhiều tiềm năng phát triển do tận
dụng được nguồn nguyên liệu là gỗ rừng trồng, nhất là gỗ rừng
trồng khai thác sớm, cũng như một số phụ phẩm của ngành chế
biến và tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên, do
là lĩnh vực chế biến mới nên cần có thời gian để các doanh
nghiệp đẩy mạnh đầu tư, nhất là đầu tư công nghệ và thiết bị
chế biến hiện đại vào lĩnh vực này. Có 18,1% doanh nghiệp
chế biến đồ gỗ nội thất và 13,7% tổng số doanh nghiệp đang
chế biến đồ gỗ ngoại thất. Giá trị sản phẩm gỗ tham gia vào thị
trường nội địa khoảng 2,5 tỷ USD/năm.
Xét theo khía cạnh sở hữu thì có đến 81,7% tổng số doanh

nghiệp là thuộc sở hữu ngoài nhà nước (doanh nghiệp dân
doanh), có khoảng 14% là doanh nghiệp FDI, và 4,3% tổng số
doanh nghiệp chế biến gỗ thuộc sở hữu của nhà nước. Đa phần
(80,3%) các doanh nghiệp chế biến gỗ tập trung ở vùng Duyên
hải Nam Trung bộ và vùng Đông Nam bộ.
6


2.2. Thực trạng thị trường nội địa
2.2.1 Thực trạng thị trường lâm sản ngoài gỗ
Về nguyên liệu: Hằng năm, sản lượng nước ta khai thác và
sử dụng khoảng 50.000 - 100.000 tấn lâm sản ngoài gỗ các
loại. Trong đó, đáng chú ý là một số loại có sản lượng khai
thác lớn và có tiềm năng tre, nứa, trúc... (581.000 cây/năm);
song mây (8.821 tấn/năm)...; nhựa thông (15.000 - 20.000 tấn);
thảo quả (3.000 - 5.000 tấn quả); quế (5.000 - 9.000 tấn); hồi
(3.000 - 8.000 tấn quả); sa nhân (2.000 tấn);..
Về sản phẩm chế biến: trên thị trường nội địa tre, luồng,
vầu... là nhóm sản phẩm chiếm ưu thế vượt trội với khoảng từ
91,11% đến 95,015 tổng lượng sản phẩm, tùy theo thời gian.
Xếp thứ hai là nứa các loại với tỷ trọng khoảng 4,35% 8,07%. Các loại sản phẩm khác chỉ chiếm dưới 1,00% tổng
lượng sản phẩm lưu thông trên thị trường. Các loại lâm sản
ngoài gỗ chế biến đa phần được tiêu thụ tại địa phương sản
xuất dưới hình thức tự sản, tự tiêu. Chỉ có một số sản phẩm
chế biến có khối lượng lớn được tiêu thụ có tính chất hàng hóa
trên thị trường như măng (măng khô, măng chua, măng ngâm
dấm, măng muối ớt...) với sản lượng khoảng 200.000 250.000 tấn/năm; colopan (chế biến từ nhựa thông) với sản
lượng khoảng 1.000 tấn/năm, chủ yếu cho công nghiệp giấy và
công nghiệp hóa chất và khoảng 100 tấn/năm tinh dầu thông.
Ngoài ra, các loại sản phẩm mây tre đan là nhóm sản phẩm chủ

đạo, chiếm khối lượng lớn trên thị trường nội địa. Các sản
phẩm nhóm này rất đa dạng như các loại khay, đĩa, bình, lọ,
rổ, rá, lẵng hoa, lẵng quả..., nhưng giá trị sản phẩm không cao,
thị trường và mẫu mã sản phẩm lại không ổn định nên khó có

7


thể xác định được cơ cấu sản phẩm cụ thể tham gia vào thị
trường này một cách khả thi.
Về đối tượng sử dụng: Đa phần các sản phẩm mang tính
chất hàng hóa đều sử dụng để xuất khẩu. Thị trường nội địa
hầu hết chỉ là tự sản, tự tiêu trong các chợ truyền thống. Người
sử dụng đều mang tính chất vùng, miền của nơi gây trồng, khai
thác và chế biến. Các siêu thị, trung tâm thương mại lớn đều
không hoặc có rất ít sản phẩm lâm sản ngoài gỗ chế biến. Thị
trường đáng nói nhất đối với nhóm sản phẩm này là thị trường
dành cho khách du lịch. Nguyên nhân là do các sản phẩm này
đều chưa công bố được tiêu chuẩn nên không được chấp nhận
tiêu thụ tại các siêu thị, trung tâm thương mại lớn. Gần đây
một số sản phẩm được phát triển trên phạm vi rộng hơn, nhất
là trên thị trường thương mại điện tử không chính thức nhờ có
sự can thiệp mạnh mẽ của internet, nhất là qua các mạng xã
hội.
2.2.2. Thực trạng thị trường sản phẩm gỗ
2.2.2.1. Thị trường theo cơ cấu sản phẩm
Gỗ và sản phẩm gỗ tham gia vào thị trường trong nước bao
gồm một số mặt hàng chính sau:
- Gỗ nguyên liệu: Bao gồm gỗ xẻ, gỗ tròn, gỗ nhân tạo (ván
dăm, ván sợi, ván dán, gỗ ghép thanh...). Các loại sản phẩm

này đều đến từ hai nguồn, khai thác, chế biến trong nước và
nhập khẩu. Trong đó, khai thác từ các nguồn trong nước chiếm
ưu thế cao hơn. Trong giai đoạn 2012 – 2015, cả nước chỉ
nhập khẩu mỗi năm khoảng 4,0 - 4,9 triệu m3 nguyên liệu gỗ
tự nhiên và 400.000 m 3 ván nhân tạo MDF trong tổng số 20 27 triệu m3 gỗ nguyên liệu sử dụng cho chế biến các loại.
Trong năm 2017, theo tính toán của một số cơ quan, tổ chức,
8


lượng gỗ nhập khẩu đã lên đến khoảng trên 7,5 triệu m 3, kim
ngạch nhập khẩu gỗ là 2,1 tỷ USD và chiếm trên 21% lượng
gỗ nguyên liệu dành cho chế biến của cả nước.
- Sản phẩm đồ gỗ ngoài trời (bàn, ghế ngoài trời): Người
tiêu dùng trong nước ít quan tâm đến các loại đồ gỗ ngoài trời,
trừ một số ít địa phương khu vực phía Nam có sử dụng một vài
loại sản phẩm ít phổ biến như bàn ghế để ở sân, vườn, song lại
chủ yếu được chế biến từ các loại gỗ lũa, gốc cây... Có thể nói
đồ gỗ ngoài trời đúng nghĩa hiện chưa có mặt trên thị trường
nước ta.
- Đồ gỗ nội thất, bao gồm nội thất phòng ngủ (giường, tủ
áo, bàn phấn, bàn trang điểm...), nội thất nhà bếp (bàn ăn, tủ
bếp), nội thất phòng khách (bàn, ghế phòng khách, sofa, kệ
TV, tủ gương, tủ góc...), nội thất văn phòng: Đây là các sản
phẩm chủ yếu trên thị trường trong nước hiện nay.
- Sản phẩm gỗ phục vụ xây dựng, bao gồm một số sản phẩm
chính như cốp pha, xà gồ, cột chống, khuôn cửa, cầu thang...
- Đồ gỗ thủ công mỹ nghệ, bao gồm những sản phẩm như
tượng gỗ, tranh khắc gỗ, khảm trai, tranh ghép gỗ, độc bình,
đồ sơn mài, chạm khắc, các sản phẩm trang trí lưu niệm, quảng
cáo như cốc, chén, đĩa, khay, thìa (muỗng), quạt, lọ, bình,

cung, kiếm, đế lọ, guốc, bài vị, thảm hạt, chuỗi hạt, hộp các
loại, huy hiệu, biểu tượng, biểu trưng, khung tranh, khung ảnh,
phào mỹ nghệ, thuyền buồm mỹ nghệ các loại, mành trang trí,
giá đỡ hàng mỹ nghệ,.... Đôi khi người ta còn xếp một số đồ
nội thất phòng khách thuộc nhóm sản phẩm truyền thống, được
chế biến từ các loại gỗ tốt, gỗ quý vào nhóm này như tràng kỷ,
salon gỗ, tủ góc, tủ thờ, bàn thờ, đôn kỷ, án thư, bàn trà, tủ
chè, tủ chùa, tủ đồng hồ, tủ gương,... vào nhóm này do có độ
9


cầu kỳ, tinh xảo trong chế biến và các sản phẩm hầu hết đều
được sản xuất từ các làng nghề chế biến gỗ truyền thống.
Trong nhiều trường hợp nhóm sản phẩm này được biết đến
dưới tên gọi là đồ gỗ cao cấp. Nếu tách riêng nhóm sản phẩm
sau ra thì thị phần của nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ khá
hạn chế. Trong khi nếu tính cả hai nhóm thì thị phần của
chúng cũng khá cao, nhất là tại thị trường các địa phương phía
Bắc.
- Các sản phẩm gỗ khác: Nhóm sản phẩm này bao gồm các
sản phẩm như nhạc cụ, đồ chơi trẻ em, vợt cầu lông, vợt
tennis, vợt bóng bàn, gậy chơi bi-da, gậy chăn cừu, ót giầy (cái
đón gót), chân tay giả, dù cán gỗ, chổi cán gỗ, cán chổi sơn,
sản phẩm gỗ mỹ nghệ kết hợp song, mây, tre, trúc, vật liệu
khác,...
- Cơ cấu thị trường của nhóm sản phẩm nội thất
Bàn, ghế là loại sản phẩm chiếm ưu thế trong nhóm đồ gỗ
nội thất với khoảng 56,84% - 66,91% tổng lượng sản phẩm lưu
thông trên thị trường nội địa. Tuy nhiên, nhóm sản phẩm này
đang có xu hướng giảm, nhường chỗ cho loại sản phẩm khác.

Giường, tủ là nhóm sản phẩm có tỷ trọng cao thứ hai trong
nhóm (24,32% - 35,30%) và đang có xu hướng tăng dần đều
trong những năm gần đây. Các sản phẩm khác như kệ các loại,
ván sàn, ốp tường, ốp trần có khuynh hướng ổn định. Kệ các
loại chiếm khoảng 3,46% - 3,81%. Ván sàn cũng ổn định ở
mức 2,71% - 3,04% tổng lượng sản phẩm trong nhóm. Trong
khi đó, tỷ trọng của ốp tường và ốp trần chỉ là 1,15% - 1,36%.
- Cơ cấu thị trường của nhóm sản phẩm phục vụ xây dựng
(khuôn cửa, cầu thang...).
10


Bảng 1: Cơ cấu thị trường theo loại hình sản phẩm


m

Gỗ
nội thất

Gỗ
ngoại
thất và
gỗ xây
dựng

Gỗ
thủ
công
mỹ

nghệ

Gỗ
và ván
nhân
tạo

Gỗ
dăm và
bột giấy

Gỗ
chống
lò, cốp
pha và
bao bì

Tổng

86.1
86,88

34.
171,17

9.8
53,40

28.
315,00


1.191.
607,00

321.
442,20

1.671.
575,65

201
2
Khối
lượng
(m3)
- Tỷ
trọng (%
so tổng
SP)

2,0
5,16

0,5

1,6

4

9


9

43.
255,27

11.
684,50

91.
034,00

19,2
71,29

100,0

3

0

355.
789,60

1.398.
348,66

201
3
Khối

lượng
(m3)
- Tỷ
trọng (%
so tổng
SP)

100.
789,29

3,0
7,21

0,8

795.7
96,00

6,5

9

4

1

57.
142,77

13.

671,20

31.
261,00

25,4
56,91

100,0

4

0

362.
080,10

1.470.
015,46

201
4
Khối
lượng
(m3)
- Tỷ
trọng (%
so tổng
SP)


127.
961,29

3,8
8,70

9

0,9
3

877.8
99,10

2,1
3

24,6
59,72

3

100,0
0

(Nguồn: Dự án điều tra thị trường gỗ và lâm sản nội địa)

11



Trong nhóm này, các sản phẩm nói chung đều ổn định từ năm
2012 cho đến nay. Cửa các loại là loại sản phẩm có sự thay đổi
đáng kể theo chiều hướng tăng lên và chiếm tỷ trọng cao thứ hai
với 34,26% - 38,79%. Khuôn cửa các loại chiếm tỷ trọng cao
nhất với 34,62% - 39,16% tổng số sản phẩm lưu thông trên thị
trường, nhưng đang có chiều hướng giảm. Sự giảm sút này có lẽ
do các loại khuôn cửa thường được làm từ các loại gỗ tốt, quý,
hiếm mà các loại gỗ này đang bị hạn chế khai thác. Thêm vào đó
là sự tăng lên đáng kể của các loại sản phẩm thay thế không sử
dụng gỗ. Cầu thang gỗ chiếm tỷ trọng thứ ba một cách ổn định
với 16,99% - 18,37% tổng lượng sản phẩm trong nhóm. Cuối
cùng là các loại sàn phẩm ốp sàn, ốp tường, chiếm 5,00% 5,12% tổng lượng sản phẩm trong nhóm lưu thông trên thị
trường.
- Cơ cấu thị trường của nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ là nhóm đa dạng nhất về
chủng loại sản phẩm gỗ chế biến, mặc dù tỷ trọng của nhóm này
không cao. Các loại giường tủ là tiểu nhóm sản phẩm có tỷ trọng
cao nhất và đang có xu hướng tăng trong thời gian gần đây, với
25,45% - 29,41%. Xếp thứ hai là sản phẩm tượng gỗ với 14,31%
- 14,58%. Đặc trưng của tiểu nhóm sản phẩm này là độ ổn định
tương đối cao. Tiếp đó là các loại áo quan cao cấp với khoảng
trên 13,00%, nhưng cho đến năm 2014, sản phẩm loại này chỉ
còn chiếm khoảng 10,46%. Bàn ghế cao cấp cũng chiếm tỷ trọng
khá và ổn định trong khoảng 12,82% đến 14,55%. Bàn thờ các
loại cũng chiếm tỷ trọng khá với 8,00%, nhưng hiện đang giảm
và chỉ còn chiếm 6,37% tổng lượng sản phẩm lưu thông của
nhóm. Tranh gỗ, tủ chùa, đôn kỷ chiếm khoảng 4,8% đến 6,27%
tùy loại sản phẩm và tùy theo thời gian. Tủ chè, tủ gương cũng
12



chỉ chiếm từ 3,32% đến 4,34% tổng lượng sản phẩm trong nhóm
mỗi loại. Cuối cùng là các sản phẩm tượng gỗ, chỉ chiếm 0,18%
đến 0,24% tổng lượng sản phẩm và đang có xu hướng giảm.
Đáng chú ý là án thư, mặc dù là một loại sản phẩm tương đối ấn
tượng trong nhóm này, song trong 3 năm gần đây đã hoàn toàn
vắng bóng trên thị trường nội địa.
2.2.2.2. Cơ cấu thị trường theo nguồn gốc sản phẩm
Nhìn chung, trên thị trường nội địa, sản phẩm gỗ và lâm sản
sản xuất trong nước chiếm ưu thế hơn các sản phẩm nhập ngoại.
Đây là một kết quả trái với nhận định cảm tính của một số
chuyên gia trong lĩnh vực này.
Xét trên tổng số thì các sản phẩm gỗ nhập ngoại là không
nhiều so với các sản phẩm gỗ sản xuất trong nước để tiêu thụ trên
thị trường nội địa. Tỷ lệ sản phẩm nhập ngoại và sản phẩm gỗ
sản xuất trong nước dao động trong khoảng 1,74% - 2,76%. Tỷ lệ
này dao động tùy thời điểm và chưa có quy luật rõ ràng. Sản
phẩm gỗ ngoại thất và gỗ xây dựng có số lượng sản phẩm ngoại
nhập lớn nhất trong các nhóm đồ gỗ trên thị trường nội địa. Tỷ lệ
giữa sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm sản xuất trong nước của
nhóm này đang ở mức 45,89% - 54,83% và đang có chiều hướng
ngày càng có nhiều sản phẩm ngoại nhập về để tiêu thụ trong
nước. Nếu như tỷ lệ này là 45,89% (năm 2012) thì năm 2013 đã
là 47,67% và năm 2014 tăng mạnh lên 54,83%. Một điều cần lưu
ý là các sản phẩm gỗ thủ công mỹ nghệ lại có tỷ lệ sản phẩm
nhập khẩu khá cao so với sản lượng sản phẩm sản xuất trong
nước (đứng thứ hai) với 34,21% - 44,31%. Tuy nhiên, xu hướng
nhập ngoại các sản phẩm này vào thị trường nội địa đang giảm
khá mạnh từ 44,31% năm 2012 xuống còn 34,21% năm 2014.
Các sản phẩm gỗ nội thất có tỷ lệ sản phẩm nhập ngoại đứng

13


hàng thứ ba với 7,27% - 17,61%. Tỷ lệ này đang tăng với tốc độ
cao, từ 7,27% năm 2012 lên 17,61% năm 2014. Các nhóm sản
phẩm gỗ còn lại hầu như không có sản phẩm ngoại nhập vào để
tiêu thụ tại thị trường nội địa. Các xu hướng nhập ngoại sản
phẩm đồ gỗ này chứng tỏ khả năng hội nhập cao của nền kinh tế
Việt Nam vào kinh tế thế giới và cũng phần nào cho thấy sự thay
đổi thị hướng của người tiêu dùng trong nước về đồ gỗ theo tốc
độ hội nhập với các sản phẩm chung của thế giới.
2.2.2.3. Các sản phẩm thay thế đồ gỗ
Hiện đang có nhiều loại sản phẩm thay thế nguyên liệu gỗ
trong chế biến sản phẩm đồ gỗ. Các sản phẩm thay thế tập trung
chủ yếu vào nhóm sản phẩm xây dựng và phục vụ xây dựng.
Trong đó phải kể đến các sản phẩm từ sắt, thép... thay thế cho các
loại cốp pha gỗ truyền thống trong xây dựng, nhất là trong xây
dựng các công trình lớn và các loại chung cư cao tầng. Nhiều loại
vật liệu từ lâm sản ngoài gỗ như tre ép khối, ván sàn tre, nhôm,
kính... cũng được sử dụng ngày càng rộng rãi thay thế cho đồ gỗ
trong việc chế tạo khuôn cửa, cánh cửa, sàn nhà... Các dạng vật
liệu thay thế khác như gỗ nhựa, đồ nhựa... cũng đã và đang dần
thay thế đồ gia dụng làm từ gỗ, lâm sản ngoài gỗ.
2.2.2.4. Kênh thị trường, chuỗi cung ứng, mạng lưới, hình
thức phân phối các sản phẩm gỗ và lâm sản và đối tượng
tiêu thụ
Khác với xuất khẩu, việc lưu thông, phân phối gỗ và sản phẩm
lâm sản trên thị trường nội địa rất đa dạng và phức tạp, phụ thuộc
vào từng địa phương và từng loại sản phẩm. Tuy nhiên, có thể
thấy rõ là cho đến nay trên thị trường này chưa có những kênh thị

trường và mạng lưới phân phối sản phẩm lâm sản nào hoạt động
có hiệu quả và có tính chất chi phối trên phạm vi cả nước. Hầu
14


hết các kênh thị trường và mạng lưới phân phối sản phẩm đều là
tự phát, mang tính địa phương và không có khả năng chi phối
một cách tự giác đến nhà sản xuất, khai thác và chế biến.
Theo kết quả điều tra của Dự án “Điều tra, đánh giá thực
trạng, đề xuất cơ chế chính sách phát triển thị trường nội địa về
sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái cơ cấu ngành” do
Tổng cục Lâm nghiệp làm chủ đầu tư, thực hiện năm 2015 –
2016, cho đến hết năm 2014, cả nước có khoảng 36.688 - 41.660
đơn vị, hộ gia đình và doanh nghiệp (sau đây gọi chung là cơ sở)
ở các hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào mạng lưới phân
phối sản phẩm gỗ và lâm sản. Trong đó, khu vực miền Trung có
số lượng lớn nhất với 18.323 cơ sở phân phối. Tiếp đến là khu
vực miền Bắc với 11.652 cơ sở. Miền Nam hiện tại có 4.841 cơ
sở, còn khu vực Duyên hải miền Trung có 974 và Tây Nguyên có
898 cơ cở trong mạng lưới phân phối sản phẩm. Trong hệ thống
phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản cả nước các hộ kinh doanh cá
thể chiếm phần đa số với 88% (năm 2014) tổng số doanh nghiệp,
tổ chức và cá nhân tham gia mạng lưới này. Trong khi đó, các
doanh nghiệp nhà nước tham gia phân phối sản phẩm hết sức nhỏ
bé với 0,1% tổng số cơ sở tham gia. Quy mô của các doanh
nghiệp tham gia vào thị trường nội địa cũng hết sức nhỏ bé. Các
doanh nghiệp có quy mô vốn đầu tư dưới một tỷ đồng chiếm số
lượng lớn nhất với 61,09% - 70,04% tổng số doanh nghiệp, cơ
sở. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ 1 đến 5 tỷ đồng chiếm
khoảng 21% - 27%. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư càng lớn thì

tỷ trọng trong hệ thống phân phối sản phẩm càng thấp. Chỉ có
6,44% - 9,70% tổng số doanh nghiệp là có vốn trên 5 tỷ đồng đến
dưới 10 tỷ đồng. Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp có vốn đầu tư
trên 10 tỷ chỉ là 2,08% - 2,53%.
15


Tính đến năm 2014, cả nước có 14.566 doanh nghiệp, cơ sở
tham gia vào hệ thống phân phối theo các loại sản phẩm gỗ và lâm
sản. Trong đó có 7.974 doanh nghiệp, cơ sở (54,74% tổng doanh
nghiệp, cơ sở) chuyên phân phối sản phẩm đồ gỗ nội, ngoại thất;
5.343 cơ sở (36,68%) chuyên phân phối đồ thủ công mỹ nghệ; 403
cơ sở (2,77%) phân phối ván dăm và bột giấy; 175 cơ sở (1,20%)
phân phối ván nhân tạo; 440 cơ sở (3,02%) phân phối gỗ chống lò,
cốp pha, bao bì và chỉ có 231 cơ sở (1,59%) cơ sở chuyên phân
phối sản phẩm lâm sản ngoài gỗ. Hình thức doanh nghiệp vừa sản
xuất, chế biến, vừa trực tiếp tham gia phân phối sản phẩm chiếm
đa phần trong các loại doanh nghiệp tham gia vào hệ thống phân
phối sản phẩm, nhất là ở khu vực phía Bắc.
Đối với gỗ nguyên liệu được khai thác trong nước (chủ yếu là
gỗ rừng trồng) được tiêu thụ theo 3 kênh thị trường với đối tượng
tiêu thụ chính sau:
- Kênh 1: Các hộ trồng rừng bán cho các xưởng mộc tại địa
phương (bán lẻ) để sản xuất các loại đồ mộc dân dụng, các đồ nội
thất gia đình như giường, tủ, bàn ghế, cửa... và các sản phẩm
phục vụ xây dựng như cột chống, cốp pha, xà gồ... Kênh thị
trường này phần nhiều mang tính địa phương và tự cung, tự cấp.
Các công ty lâm nghiệp, doanh nghiệp trồng và khai thác ít tham
gia vào mạng lưới phân phối này.
- Kênh 2: Hộ gia đình, liên hộ gia đình, các hợp tác xã, thậm

chí một số doanh nghiệp trồng rừng và khác thác gỗ quy mô nhỏ
bán gỗ cho người thu gom (bán buôn). Người thu gom vận
chuyển và bán lại cho các cơ sở, doanh nghiệp chế biến gỗ.
- Kênh 3: Hộ gia đình, liên hộ gia đình, các hợp tác xã, thậm
chí một số doanh nghiệp trồng rừng và khác thác gỗ bán gỗ cho
các doanh nghiệp, cơ sở chế biến gỗ theo hợp đồng ký giữa các
16


bên. Các đơn vị có khối lượng gỗ lớn, gỗ có chứng chỉ (FSC,
PEFC...) và một phần gỗ nhập khẩu thường tổ chức tiêu thụ theo
kênh này.
- Kênh 4: Gỗ nhập khẩu, gỗ rừng tự nhiên, gỗ cao su... thường
được tiêu thụ thông qua các chợ gỗ, các phiên đấu giá gỗ. Hiện
phần lớn gỗ cao su đại điền, gỗ nhập khẩu, gỗ rừng tự nhiên khai
thác trong nước, gỗ tịch thu... được phân phối qua kênh tiêu thụ
này. Hầu như các địa phương có lượng tiêu thụ gỗ nguyên liệu
lớn như Bắc Ninh, Nam Định, Bình Định, Đồng Nai,... đều hình
thành các chợ gỗ lớn. Một số doanh nghiệp lớn như TAVIMEX
(Đồng Nai) còn tự tổ chức chợ gỗ của riêng mình nhằm phân
phối gỗ (chủ yếu là nhập khẩu) cho các doanh nghiệp chế biến.
Ngoài ra, các doanh nghiệp chế biến còn trực tiếp nhập khẩu
gỗ nguyên liệu từ nước ngoài về phục vụ cho hoạt động chế biến
của mình. Tuy nhiên, kênh phân phối này không lớn và hoạt
động không thường xuyên.
Đối với sản phẩm gỗ: Có thể nói chắc chắn rằng cho đến nay
trên thị trường nội địa chưa có những kênh phân phối sản phẩm
đồ gỗ nào có quy mô đủ lớn, có ảnh hưởng bao phủ trong phạm
vi khu vực, cũng như cả nước và có hoạt động có hiệu quả. Cũng
đã hình thành một vài chuỗi phân phối sản phẩm của của doanh

nghiệp lớn như “Nhà Xinh”, “Vietmay Home”... nhưng chừng đó
là chưa đủ. Vấn đề đáng lo ngại hiện nay là dù chúng ta có nguồn
cung và nhu cầu đồ gỗ rất lớn, nhưng hệ thống phân phối cho sản
phẩm gỗ trong nước lại chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Một
số doanh nghiệp như Hoàng Anh Gia Lai, Hòa Phát... bước đầu
đã có hệ thống phân phối riêng, nhưng còn nhỏ lẻ về quy mô và
sản phẩm chưa phong phú.
17


Hình thức phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản trên thị trường
nội địa vẫn chỉ là các hình thức phân phối truyền thống. Các hình
thức phân phối sản phẩm hiện đại như chợ điện tử, phân phối sản
phẩm trên mạng internet... đã bắt đầu hình thành, nhưng chủ yếu
vẫn là tự phát, nhỏ lẻ và khó kiểm soát.
Đối tượng tiêu thụ các lọai sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa
khá đa dạng. Cư dân thành thị và tầng lớp có thu nhập cao
thường có xu hướng sử dụng các loại đồ gỗ cao cấp, đắt tiển, đồ
gỗ ngoại nhập,.. trong khi cư dân nông thôn và tầng lớp trung lưu
trở xuống lại thường có xu hướng sử dụng đồ gỗ bình dân, đồ gỗ
từ các loại ván nhân tạo, đồ gỗ chế biến trong nước... Một điểm
chung duy nhất là phần lớn người tiêu dùng hiện nay đang
chuyển dần sang dùng các sản phẩm thay thế đồ gỗ như các loại
đồ nhựa, đồ sắt, nhôm, kính,.., hoặc các sản phẩm từ gỗ phối hợp
với các loại vật liệu khác.
Chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa: Chuỗi
cung ứng sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa theo sơ đồ sau.
Thông tin về sản phẩm

Sản phẩm


Doanh
nghiệp/cơ sở
cung ứng

Doanh
nghiệp/cơ sở
phân phối

Thông tin về thị trường
Sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm

18

Khách
hàng


a. Về sản phẩm
Theo kết quả điều tra của Dự án “Điều tra, đánh giá thực
trạng, đề xuất cơ chế chính sách phát triển thị trường nội địa về
sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái cơ cấu ngành” thì
tổng lượng sản phẩm thị trường nội địa dao động trong khoảng
1.500.000 - 3.000.000 m3 gỗ nguyên liệu quy tròn. Trong đó, sản
phẩm sản xuất trong nước dao động trong khoảng 66,7% - 77,8%
tổng lượng sản phẩm tham gia thị trường; phần còn lại là các sản
phẩm nhập khẩu. Điều đó cho thấy, rõ ràng là các sản phẩm gỗ
được sản xuất bởi các cơ sở sản xuất, chế biến gỗ trong nước là
chủ yếu. Tuy nhiên, do đa phần nguyên liệu dùng để sản xuất,
chế biến đồ gỗ tham gia thị trường trong nước là thuộc nhóm gỗ

quý hiếm nên việc khai thác nguyên liệu trong nước khá hạn chế,
chủ yếu là nhập nội từ các nước trong khu vực như Lào,
Campuchia hay các nước thuộc châu Phi. Nhìn chung, sản xuất
đồ gỗ nội địa tiêu tốn nguồn tài nguyên thiên nhiên từ rừng tự
nhiên là chủ yếu. Việc phân phối sản phẩm gỗ nội địa đến người
tiêu dùng thể hiện việc phân bổ nguồn tài nguyên quý hiếm của
xã hội nói chung.
b. Về thông tin
Có thể nói rằng cả thông tin về đơn vị sản xuất, chế biến, thông
tin về chất lượng, mẫu mã sản phẩm... từ nhà sản xuất đến người
tiêu thụ (khách hàng) lẫn thông tin về thị hiếu khách hàng, về biến
động thị trường,.. từ khách hàng đến đơn vị sản xuất, chế biến và
cung ứng, phân phối đều không rõ ràng. Hiện chưa xác định được
cơ chế, cũng như nguồn cung cấp thông tin trong lĩnh vực này.
Đây là vấn để rất quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển
thị trường nội địa một cách bền vững nên cần có sự đầu tư nghiên
cứu, điều tra làm rõ để đề xuất những biện pháp phù hợp.
19


Nhìn chung, các doanh nghiệp chế biến sản phẩm gỗ nội địa
đều sản xuất theo sở trường, kỹ năng vốn có của mình mà chưa
quan tâm đến nhu cầu thị trường, thị hiếu của khách hàng. Theo
chiều ngược lại, khách hàng cũng chỉ biết mua những sản phẩm
sẵn có trên thị trường mà chưa có được nhiều những tác động của
mình đến nhà sản xuất hoặc cung ứng (trong trường hợp nhập
khẩu). Chính vì vậy, khả năng tiêu thụ sản phẩm khá hạn chế,
khả năng tạo ra đột biến trong sản xuất và về thị trường tiêu thụ
sản phẩm cũng không cao. Mỗi biến động về thị hiếu của người
tiêu dùng hay nhu cầu thị trường thường chậm ảnh hưởng đến

đơn vị sản xuất, cung ứng sản phẩm.
Sự hạn chế về nguồn, cơ chế cung cấp thông tin khiến cho
những cố gắng trong hoạch định chính sách của các cơ quan nhà
nước, xây dựng kế hoạch xúc tiến thương mại, chiến lược phát
triển thị trường thường rất khó khăn do thiếu thông tin và cơ sở
khoa học.
c. Về các đơn vị cung ứng và phân phối sản phẩm
Trong chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ nội địa, các doanh nghiệp
tư nhân chiếm ưu thế với tỷ lệ từ 32,1% đến 35,2% tùy theo thời
điểm. Có điều đáng suy nghĩ là trong khi nhà nước đang khuyến
khích hình thành các doanh nghiệp dân doanh thì tỷ lệ các doanh
nghiệp tư nhân tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ lại có
chiều hướng giảm sút. Tỷ trọng của khối doanh nghiệp này đã
giảm từ 35,2% tổng số doanh nghiệp tham gia trong chuỗi (năm
2012) xuống còn 32,3% (năm 2014). Tiếp sau đó là các công ty
TNHH, tỷ trọng của khối doanh nghiệp loại này chiếm 24,5% 29,2% tổng doanh nghiệp tham gia chuỗi và cũng có chiều hướng
giảm theo thời gian. Các công ty tư nhân chiếm số lượng hàng
thứ 3 với tỷ lệ 15,4% -16,5% và có chiều hướng tăng nhẹ. Các hộ
20


gia đình có tỷ trọng khoảng 10,3% - 17,0% và cũng có chiều
hướng tăng nhanh theo thời gian. Các doanh nghiệp nhà nước
hầu như không tham gia vào chuỗi cung ứng nhóm hàng gỗ nội
địa. Tỷ trọng của khối doanh nghiêp này chỉ dưới 0,5% và đang
có chiều hướng giảm.
Xem xét về quy mô vốn đầu tư của các đơn vị tham gia vào
chuỗi cung ứng sản phầm gỗ trên thị trường nội địa hiện nay, có
thể thấy hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở tham gia đều có quy mô
vốn đầu tư rất nhỏ. Tỷ lệ doanh nghiệp/cơ sở có vốn đầu tư dưới

1,0 tỷ đồng chiếm đa số, dao động trong khoảng 86% - 90% tổng
số đơn vị trong chuỗi. Tiếp đến là các đơn vị có quy mô vốn đầu
tư từ 1,0 - 5,0 tỷ đồng, chiếm 10,2% đến 14,0% tổng số đơn vị
tham gia chuỗi. Chỉ có 0,02% tổng số doanh nghiệp tham gia
chuỗi có vốn đầu tư từ 5,0 tỷ đồng đến 10,0 tỷ đồng và không có
doanh nghiệp nào có vốn đầu tư trên 10 tỷ đồng. Điều này cho
thấy, hầu như không thể có doanh nghiệp tham gia vào chuỗi
cung ứng nhóm sản phẩm này có khả năng làm chủ, chi phối và
điều tiết được hệ thống phân phối sản phẩm trong chuỗi cung ứng
nhóm sản phẩm này trên thị trường nội địa.
Đánh giá về các doanh nghiệp tham gia vào việc cung ứng và
phân phối sản phẩm có thể thấy:
- Không có sự khác nhau nhiều về tỷ lệ giữa các nhóm tham
gia vào chuỗi cung ứng theo tính chất thị trường của mỗi nhóm,
ngoại trừ nhóm doanh nghiệp chuyên môi giới tiêu thụ hàng gỗ
thủ công mỹ nghệ.
- Nhóm doanh nghiệp có tỷ trọng lớn nhất trong chuỗi cung
ứng sản phẩm này là nhóm doanh nghiệp vừa cung ứng, vừa
phân phối sản phẩm với 23,2% - 26,0% tổng số doanh nghiệp
tham gia vào chuỗi cung ứng. Điều này phản ánh tình trạng một
21


cách tương đối rõ ràng tình trạng các doanh nghiệp tham gia vào
chuỗi cung ứng sản phẩm, hàng hóa vừa phải lo sản xuất, vừa lo
cung ứng và tiêu thụ sản phẩm.
- Nhóm doanh nghiệp chỉ phân phối sản phẩm dưới hình thức
đại lý, bán buôn, bán lẻ sản phẩm đứng thứ hai với 24,3% 25,2% tổng số doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng, tương
đương với nhóm doanh nghiệp chuyên cung ứng sản phẩm
(20,0% - 24,6%). Tuy nhiên, có sự khác nhau về xu hướng phát

triển giữa hai nhóm này. Trong khi nhóm chuyên phân phối sản
phẩm có xu hướng ngày càng phát triển, số lượng doanh nghiệp
trong nhóm tăng từ 24,3% (2012) lên 25,2% (năm 2014) thì
nhóm doanh nghiệp chuyên cung ứng sản phẩm lại có sự suy
giảm khá rõ ràng, giảm từ 24,6% (năm 2012) xuống chỉ còn
20,0% (năm 2014). Rõ ràng là có sự chuyển đổi trong chuỗi cung
ứng sản phẩm hàng hóa theo hướng giảm trung gian và tăng khả
năng bán sản phẩm đến người tiêu dùng.
- Nhóm các doanh nghiệp bán lẻ cũng chiếm khoảng 20,4% 22,7% tổng số doanh nghiệp tham gia trong chuỗi cung ứng và
thấp nhất trong số các nhóm doanh nghiệp tham gia chuỗi cung
ứng. Mặc dù sự khác nhau về số lượng doanh nghiệp giữa các
nhóm là không lớn, song với tỷ trọng thấp nhất thuộc về nhóm
bán lẻ chứng tỏ khả năng phát triển thị trường là khá hạn chế.
Các tầng lớp trung gian trong chuỗi cung ứng còn khá nhiều làm
hạn chế khả năng tiếp cận thị trường của sản phẩm. Điều đáng
mừng là số lượng doanh nghiệp trong nhóm bán lẻ cũng đang
ngày càng tăng. Tỷ trọng nhóm doanh nghiệp này tăng đều từ
20,4% (2012) lên 22,7% (năm 2014). Có thể thấy, thị trường bán
lẻ đồ gỗ nội địa đã và đang có sự khởi sắc trong thời gian gần
đây. Đây cũng là xu thế tất yếu của sự phát triển thị trường đồ gỗ
22


và lâm sản trong quá trình hội nhập quốc tế và trong tiến trình
phát triển nói chung của một xã hội đang phát triển theo hướng
thị trường.
- Mặc dù có tỷ trọng thấp nhất trong các nhóm tham gia vào
chuỗi cung ứng song nhóm các cơ sở môi giới sản phẩm đã đang
tăng lên một cách đáng kể. Điều này cho thấy, thông tin giữa các
thành tố trong chuỗi cung ứng, nhất là giữa các doanh nghiệp tiêu

thụ sản phẩm với các doanh nghiệp chế biến, tạo ra sản phẩm đã
được cải thiện.
d. Về khách hàng
Có thể thấy, nhóm khác hàng sản phẩm gỗ trên thị trường nội
địa có một số đặc điểm sau:
- Cơ hội nhận được thông tin về nhà sản xuất, cung ứng... cũng
như chất lượng, thiết kế và mẫu mã sản phẩm hạn chế. Đa phần
họ thực hiện mua sắm sản phẩm theo cảm tính, theo thông tin
truyền tai, không chính thống, mua hàng theo tâm lý đám đông.
- Cơ hội phản ánh thị hiếu, nhu cầu mua hàng hóa của mình
đến các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, cung ứng sản phẩm một
cách chính thống cũng rất hạn chế, nếu không muốn nói là hầu
như không có.
- Nhóm khách hàng là các hộ gia đình chiếm tỷ lệ khá cao,
nhất là các hộ gia đình ở khu vực nông thôn và các hộ gia đình ở
tầng lớp trung lưu trở lên.
- Các khách hàng là cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan nhà
nước cấp địa phương cũng là nhóm khách hàng quan trọng trong
mua sắm đồ gỗ. Họ luôn là đối tượng khách hàng quan trọng của
các đơn vị chế biến đồ gỗ trong khu vực làng nghề. Tuy nhiên,
nhóm khách hàng này chịu ảnh hưởng của các quy định mua sắm
23


công từ phía nhà nước, cũng như chịu ảnh hưởng từ tâm lý vốn
không nhất quán, nặng cảm tính của các lãnh đạo đương thời, do
vậy ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, phân phối sản phẩm đồ gỗ,
nhất là đồ gỗ văn phòng không lớn như kỳ vọng của thị trường.
- Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp dân doanh thành
lập trong thời gian gần đây hầu như không phải là khách hàng

trong chuỗi cung ứng này. Lý do là họ chuộng những loại đồ gỗ
đơn giản, rẻ tiền và tiện lợi, đặc biệt là nhóm đồ gỗ ngoại nhập
do đáp ứng được yêu cầu về tính tiện lợi và giá trị sử dụng cao.
Trong khi nhóm sản phẩm đồ gỗ có tính thủ công mỹ nghệ lại
không có được đặc điểm này.
- Khách du lịch nước ngoài cũng là một trong những nhóm
khách hàng khá quan trọng của đồ gỗ nội địa, đặc biệt là đối với
nhóm hàng gỗ thủ công mỹ nghệ với tư cách là các hàng lưu
niệm. Tuy nhiên, nhóm khác hàng này lại đang có nguy cơ sụt
giảm dù lượng khách du lịch đến Việt Nam vẫn tăng do khách
hàng nước ngoài, nhất là các khách hàng đến từ châu Âu, châu
Mỹ hoặc từ các nước phát triển ưa chuộng các sản phẩm thủ công
có hình khối, hoặc đường nét đơn giản, trong khi các sản phẩm
gỗ thủ công mỹ nghệ của Việt Nam lại đa phần là hàng chạm,
khắc với những đường nét hoa văn cầu kỳ, nhiều nét uốn lượng
nên dễ bắt bụi và dễ vướng víu khi trưng bày, sử dụng. Quan
trọng hơn là nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm thường ít được
quan tâm thể hiện trên từng sản phẩm. Mỗi khách du lịch khi
mua một sản phẩm lưu niệm rất quan tâm đến điều này bởi họ
muốn gắn các kỷ niệm đó với những chuyến du lịch của họ tới
những vùng đất mới, nhưng các sản phẩm hàng lưu niệm của
Việt Nam, nhất là sản phẩm của làng nghề đã không thể hiện
được điều đó. Nhiều sản phẩm đồ gỗ trong các làng nghề thường
24


gắn với những điển tích Trung Hoa và không có xuất xứ cụ thể
(made in Việt Nam) nên khó thu hút khách du lịch.
III. Chính sách phát triển thị trường nội địa sản phẩm gỗ
và lâm sản

Chính sách của nhà nước đã có những tác động đến thị trường
nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản. Định hướng phát triển thị
trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản cũng đã được thể hiện
qua một số nội dung cơ chế ưu đãi về lưu thông, vận chuyển sản
phẩm gỗ và lâm sản; về xúc tiến thương mại và phát triển thương
hiệu; về thuế và phí trong sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp; và
một số hỗ trợ ưu đãi khác (đất đai, hỗ trợ đầu tư, tín dụng ...).
Tuy nhiên, những chính sách liên quan đến phát triển thị trường
gỗ nội địa nói chung vẫn rời rạc, thiếu đồng bộ, nhiều chính sách
có sự chồng chéo, thậm chí là mâu thuẫn nhau. Bên cạnh đó, có
nhiều nội dung chính sách chưa có quy định đầy đủ về cơ chế hỗ
trợ, khuyến khích các đối tượng sản xuất kinh doanh khi tham gia
thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản; thiếu cơ chế đặc
thù để hỗ trợ tích tụ đất đai, vốn và tín dụng và ưu đãi đầu tư.
Đặc biệt là chưa có chính sách riêng biệt, có giá trị thực thi cao
để tạo ra bước đột phá phát triển ngành chế biến gỗ nói chung và
thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản nói riêng.
Nhóm chính sách về lưu thông vận chuyển gỗ và sản phẩm gỗ
đã xác định được các thủ tục và hồ sơ cần thiết trong quá trình
lưu thông, lưu kho bến bãi; chỉ rõ được quy định về việc xác
minh gỗ đang lưu thông là hợp pháp, quy định cụ thể thời gian
xác minh và trả kết quả. Chính sách đã tạo hành lang pháp lý cho
việc quản lý lâm sản trên thị trường. Tuy nhiên, các chính sách
chưa có sự thống nhất cao trong nội dung quy định, còn sự chồng
chéo nhau, khó khăn cho việc thực thi chính sách. Ngoài ra,
25


×