Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.75 KB, 6 trang )

Vi nột v kinh t vựng t An Khờ

t na sau th k XIX n nm 1945
ThS. NGUYN VN NGUYấN
Trng THPT Nguyn Trói, th xó An Khờ, Gia Lai
An Khờ trong nhng nm 1877 n 1945, kinh t nụng nghip luụn gn
vi quỏ trỡnh trng trt v chn nuụi, nht l t bn Phỏp u t lp n in
trng cõy cụng nghip v xõy dng trang tri chn nuụi gia sỳc. Bờn cnh, cũn
cú hot ng hỏi lm, sn bn vựng ng bo Bahnar. L ni sm chu ỏch
thng tr thc dõn, phong kin khỏ nng n, ngi dõn phi úng nhiu loi
thu. Trong lnh vc tiu th cụng nghip, cú nhiu bc tin ỏng k, trong ú
tp trung phỏt trin th cụng nghip truyn thng. Thng nghip thi k ny
cú s tin b rừ rt, ú l s giao lu buụn bỏn gia ngi Kinh v dõn tc thiu
s thụng qua cỏc phiờn ch u mi. L thi im thit lp trao i, buụn bỏn
gia ng bng v vựng cao An Khờ. Do chớnh sỏch ca chớnh quyn cai tr
õy v vic lu thụng hng húa cũn gp khú khn, ó hn ch thỳc y thng
nghip phỏt trin.

A

n Khờ l ca ngừ lờn Tõy Nguyờn tip giỏp
vi ng bng thụng qua quc l chin
lc 19. T khi triu Nguyn c thnh
lp (1802), nhm xúa i tim thc ca nhõn dõn
i vi nh Tõy Sn, vua Gia Long i tờn An
Sn thnh An Tõy (th k XVIII, gi l Tõy Sn
thng o). T khi nh Nguyn lp Nha Kinh
lớ An Khờ nm 1877, nhng dũng ngi Kinh di
c n, nờn cỏc lng ngi Kinh õy ln lc
c hỡnh thnh dc Nam Sụng Ba. u th k
XX, nh Nguyn lp ra n v hnh chớnh cp


Tng, vi hai Tng An Khờ v Tõn Phong (thuc
cao nguyờn An Khờ, huyn Bỡnh Khờ - tnh Bỡnh
nh). Nm 1917, An Khờ thuc tnh Kon Tum,
n nm 1943 c sỏp nhp vo tnh Pleiku v
c nõng cp thnh a lý hnh chớnh. Trong
xó hi An Khờ, s phõn húa giai cp, a v xó hi
v thỏi chớnh tr khỏc nhau, cỏc giai cp: nụng
dõn, cụng nhõn, tiu t sn v mt b phn t
sn dõn tc cú tinh thn yờu nc chng thc
dõn, phong kin. T na sau th k XIX n nm

1945, trờn vựng t An Khờ ngi Kinh v cỏc
dõn tc ớt ngi ó chung sc úng gúp trong
cụng cuc xõy dng, phỏt trin kinh t - xó hi
lm thay i b mt quờ hng.
1. V kinh t nụng nghip
i vi trng trt, An Khờ cú iu kin t
nhiờn tng i thun li. Nỳi rng trựng ip,
xen k l t ai bng phng v sụng sui. Nờn
phự hp cho phỏt trin kinh t nụng nghip nh:
Trng trt v chn nuụi, sn bn thỳ rng, khai
thỏc cỏc ngun lõm th sn quớ him nờn sm
thu hỳt c dõn t ng bng lờn lp nghip.
vựng An Khờ, kinh t nụng nghip ca
ngi Kinh gn lin vi quỏ trỡnh khai hoang, lp
p. Nm T c th 30 (1877), B chỏnh tnh Bỡnh
nh l Phan Vn in dõng s xin khai hoang,
lp p An Khờ. n nm 1878, Trn Vn Thiu
n vựng t An Khờ m dõn khn in. ễng
Trn Vn Thiu v Nha Kinh lớ An Khờ, cựng B

chỏnh tnh Bỡnh nh l Phan Vn in thc hin

11
S 02 NM 2019

KHOA HOẽC XAế HOI - NHAN VAấN


TẠP CHÍ KHOA HỌC CƠNG NGHỆ VÀ MƠI TRƯỜNG

12

KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
cơng tác khẩn hoang” [4, tr.18]. Trong 3 năm khai
khẩn, biến rừng hoang thành ruộng vườn trồng
lúa nước và lúa rẫy, phá đồi núi làm làng mạc và
lập 28 thơn hai bên bờ sơng Ba. Cùng với đồng
bào thiểu số và người Kinh đã dốc tồn lực, bất
kể rừng thiên nước độc, chiêu dân từ đồng bằng
khai phá, nên vùng An Khê trở thành mảnh đất
trù phú, dân cư đơng đúc, nơng lâm sản dồi dào.
Từ đó, nhiều khu vườn mọc lên như: Trồng cam,
qt, thơm, chuối, dừa, mít, thuốc lá, rau cải.
Từ giữa thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, vùng đất
An Khê đã tiếp nhận những dòng người Kinh từ
Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Huế lên
lập nghiệp, làm nơng nhất là trồng lúa nước và
lúa rẫy. Các vạn, trại, làng như vạn An Lợi, làng
An Hội, làng An Dân gắn với tên tuổi của những
người có cơng khai phá, được dân làng sùng kính

(như Chín Vác ở làng An Dân).
Khoảng năm 1910, người dân Cửu An đã
tiến về phía tây khai khẩn đất hoang (nay là
An Xn 2) để làm ruộng, vài năm sau cư dân
từ đồng bằng lên (chủ yếu từ Bình Định, Huế)
và lập làng An Xn. Họ đến đây đem theo cây,
con giống và các cơng cụ sản xuất, với thói quen
canh tác và kinh nghiệm sản xuất được áp dụng
vào vùng đất mới, nên năng suất lao động có
bước phát triển hơn. Tuy nhiên, sự tiến bộ này
chỉ ảnh hưởng nhiều nhất đến vùng người Kinh.
Đặc trưng của kinh tế nơng nghiệp truyền
thống là làm rẫy - một hình thức trồng trọt chủ
yếu và thu nhập chính của cư dân An Khê (sản
xuất theo phương thức du canh). Nó khơng chỉ
có ý nghĩa về kinh tế mà cả trong đời sống văn
hóa tâm linh, mặt dù có sự hiện diện ở mức độ
nhất định của ruộng nước và vườn. Nhìn chung,
trước khi thực dân Pháp xâm lược, kinh tế truyền
thống của họ còn mang tính tự cấp, tự túc.
Ngày 20/7/1898, Tồn quyền Đơng Dương
ra Nghị định và treo giải thưởng cho các chủ đồn
điền trồng cà phê, chè, thuốc lá nhằm khuyến
khích tư bản Pháp đẩy mạnh việc khai thác đồn
điền trồng cây cơng nghiệp và An Khê nằm
trong chủ trương đó, nên quyền sở hữu tập thể
và đất đai của cộng đồng khơng còn được tơn
trọng như trước.

Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ

nhất (1897 - 1914), thực dân Pháp đề ra kế
hoạch trồng cây cơng nghiệp, nhằm thu nhiều
lãi mà ít chi phí. Họ cướp nương rẫy, ruộng lúa
của nhân dân để lập các đồn điền, biến một bộ
phận nhân dân địa phương cùng với phu mộ từ
đồng bằng trở thành cơng nhân. Số cơng nhân
này vừa trồng cây cơng nghiệp (chè, cà phê, cao
su), cấy lúa, trồng cây lương thực..., nhân lực lao
động chủ yếu là cư dân bản địa làm th cho
các đồn điền.
Từ năm 1898 đến trước năm 1945, ở tỉnh
Gia Lai - Kon Tum theo thống kê có 14 đồn điền
lớn nhỏ. Ở An Khê là nơi thực dân Pháp sớm tiến
hành khai thác, tiêu biểu là cơng ty Delignon
và Paris “chiếm 531,6 ha đất ở Đak Jappau (Đăk
Chầu Bầu) - An Khê để trồng chè, cao su, cam”
[6, tr.31]. Ngồi ra, còn trồng nhiều loại cà phê
(Libéria, Arabica, Mơka), tre, cau, hạt tiêu. Từ
năm 1905 còn trồng dâu và diện tích trồng dâu
tăng lên nhằm phục vụ cho Sở Tơ tằm ở Bình
Định. Qua những lần kiểm nghiệm, các loại cây
trồng mới đòi hỏi nhiều vốn, nhiều cơng chăm
sóc và sự kén đất của giống mới, nên chưa đưa
lại kết quả cao.
Việc khai phá đất đai canh tác được đẩy
mạnh, “huyện Tân An có 1.079 mẫu 9 ruộng và
đất trồng 2.956 mẫu 8” [10, tr.7]. Ngồi trồng
lạc, mía, mít, bưởi, ngơ, măng, cầu xiêm ..., nhất
là trồng chè heo Cơng
văn ngày 16/11/1907 của Cơng sứ Quy Nhơn gửi

Khâm sứ Trung Kỳ báo cáo về các giống ngựa
đực tại Bình Định, trong đó có 3 giống thuộc trại
ngựa An Khê là: Cao Bang, Mauvezin, Yunnam.
Đây là những giống ngựa khá q hiếm có nhiều
khả năng phát triển ở vùng khí hậu An Khê.
Để đẩy mạnh quy mơ phát triển chăn ni,
từ đầu thế kỷ XX thực dân Pháp chiếm hơn 1.000
ha đất ở An Khê lập cơ sở chăn ni bò, ngựa
và lai giống ngựa. Theo Nghị định 997 ngày
5/8/1916 của Khâm sứ Trung Kỳ đã trưng dụng
cho Sở thú y Trung Kỳ mảnh đất thuộc cơng sản
Trung Kỳ nằm trong khu vực trại ngựa An Khê,
Quy Nhơn. Ngồi ra, Sở thú y ni bò, cừu và đặt
dưới sự theo dõi, giám sát việc chăn ni của
Thanh tra thú y Le Louet.
Từ năm 1932, chăn ni đem lại lợi nhuận
khá cao. Theo Cơng báo Trung Kỳ, tại Sở chăn
ni An Khê tiến hành bán bò, trâu, ngựa, cừu
gồm: “10 con bò cái giống Anamit, 3 con bò
mộng, 1 con trâu, 1 con ngựa cái, 1 con ngựa
non, 5 con cừu cái Kelantan” [5, tr.1094]. Tại cao
ngun An Khê Pháp lập một số khu chăn ni
ngựa, trâu, bò, cừu dưới sự trơng coi của Quan
thú y người Pháp và người Việt. Năm 1933, tại
đây ni được 20 con ngựa, 441 con bò, 20 con
trâu và 116 con cừu.
Từ năm 1939 đến năm 1945, tại An Khê bên
cạnh chăn ni trâu, ngựa, dê, cừu và gà, chính
quyền thực dân chú trọng bảo quản và duy trì
các loại con giống. Chăn ni bò ở đây đạt hiệu

quả cao là nhờ áp dụng kỹ thuật lai tạo giống
từ châu Âu. Vùng rừng núi có nhiều động vật và
thực vật, nên các hoạt động săn bắn và hái lượm
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế của
hầu hết các tộc người An Khê.
Đối với thuế khóa, từ nửa cuối thế kỷ XVIII,
bộ máy chính quyền chúa Nguyễn mục nát, xã

13
SỐ 02 NĂM 2019

KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN


TẠP CHÍ KHOA HỌC CƠNG NGHỆ VÀ MƠI TRƯỜNG

14

KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
hội chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Ở An Khê tầng
lớp quan lại địa phương bóc lột nơng dân đến
tột cùng với hàng trăm thứ thuế như: Thuế thổ
sản, ruộng đất, chăn ni, bn bán, thuế chợ,
thuế thân và thuế đinh; đánh thuế đến cả những
vật phẩm vụn vặt.
Từ cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX, nơi
đây thực dân Pháp bắt người dân địa phương
phải đi xâu 1 năm là 20 ngày (10 ngày cơng ích,
10 ngày tư ích). Ngồi ra, phải nộp thuế đốt rẫy,
thuế đầu thú; việc nộp thuế là nghĩa vụ của

người dân dưới chế độ thực dân phong kiến.
Theo đó, mỗi người Bahnar phải nộp thuế cho
Chánh tổng An Khê một gùi lúa, một số làng
phải nộp bằng trầu và mây.
Nhưng việc đánh thuế thường xun của
chính quyền bảo hộ rất khó, vì những vật phẩm
đó thường rơi vào tay các quan lại nhà Nguyễn.
Chúng thiết lập bộ máy cai trị khá chặt chẽ, khu
thứ nhất có Nha huyện Tân An, Nha đại lý, đồn
khố xanh, lập đồn phòng giữ nghiêm ngặt, việc
xét xử tội phạm ở hạt An Khê được giao về tòa
án Kon Tum xét xử.
Từ năm 1929 - 1933, thực dân Pháp tăng
cường bóc lột, trong đó chủ yếu là tăng thuế.
Ngày 8/11/1928, Tồn quyền Đơng Dương ra
Chỉ thị sửa đổi thuế ở Trung Kỳ, theo đó từ ngày
1/1/1929, tất cả dân Trung Kỳ từ 16 tuổi đến 60
tuổi đều phải chịu mức thuế thân là 2,5đ. Ngồi
ra họ còn phải đóng thêm một khoảng phụ thu
theo tỉ lệ từng vùng. Ở An Khê người dân phải
nộp phụ thu là 20%, tức thêm 0,5đ thành 3đ/
người, đến năm 1940 tăng thêm 3,2đ. Riêng
năm 1933, huyện Tân An có 3 tổng, 29 làng và số
tiền thu từ thuế như sau: “tổng An Khê: 3.739đ
30 thuế đinh và 1.461đ 08 thuế điền thổ, tổng
Tân Phong: 1.387đ 35 thuế đinh và 748đ 72 thuế
điền thổ” [10, tr. 5].
Ngồi ra, thuế ruộng đất cũng rất nặng, An
Khê là vùng đất mới khai phá nhưng vẫn áp dụng
biểu thức như đồng bằng, năm 1929 thực dân

Pháp thu được 1221,33đ, đến năm 1933 tăng lên
2844,89đ. Nhất là thuế đinh và thuế điền thổ ở
huyện Tân An (1929 - 1933).

Bảng 1. Thống kê việc đánh thuế đối với
người Kinh huyện Tân An (An Khê) từ năm
1929 - 1933
Đơn vị

Huyện
Tân An

Năm
1929
1930
1931
1932
1933

Thuế đinh
5322,00đ
5168,00đ
5370,00đ
5337,00đ
5465,00đ

Thuế điền thổ
211,33đ
204,31đ
2206,33đ

215,87đ
2849,89đ

Năm 1933, chính quyền thực dân thu thuế
đinh tại các làng thuộc Tổng An Khê như sau:
“Cửu An (1.134,60 đồng), Thượng An (256,20
đồng), An Thượng (344,25 đồng), Cửu Định
(250,10 đồng), An Mỹ (64,05 đồng), Gia Hội
(79,30 đồng), Cửu Đạo (231,80 đồng), An Bình
(122,00 đồng), Tú Thủy (183,00 đồng), An Q
(70,15 đồng)” [1, tr.31]. Thực dân Pháp còn quy
định lại số mẫu ruộng phải bán lúa, nộp lúa. Với
mức thu đó làm cho nhiều gia đình khơng có khả
năng đóng các loại thuế theo quy định, nơng
dân bỏ sản xuất, thiếu lượng thực, đời sống các
tầng lớp nhân dân trở nên cơ cực.
Trong những năm Chiến tranh Thế giới thứ
hai (1939 - 1945), nhất là từ khi Nhật vào Đơng
Dương thì sưu thuế tăng lên một cách vơ lý. Ở An
Khê chúng bắt các chủ doanh nghiệp, cơng ty,
các điền chủ kê khai tài sản nhất là lương thực.
Lập hệ thống tổ chức “Liên nơng thương đồn”
để kiểm sốt và độc quyền vơ vét nơng sản phẩm
của nơng dân, cưỡng bức nhân dân qun góp
mua cơng trái, trưng thu, trưng mua thóc gạo.
Đối với vùng đồng bào Kinh thì căn cứ vào diện
tích đất đai trồng trọt để nộp thuế. Vùng dân tộc
thiểu số mỗi người nộp 50 kg, thực chất là trắng
trợn cướp bóc tài lực, vật lực của nhân dân, là
ngun nhân gây ra nạn đói khủng khiếp.

2. Về tiểu thủ cơng nghiệp và thương
nghiệp.
Đối với tiểu thủ cơng nghiệp, từ cuối thế
kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, người Bahnar ở
vùng An Khê tiếp tục duy trì việc làm lưới đánh
cá, làm các bẫy thú, đặc biệt là nghề làm chiêng
đồng, dệt vải truyền thống. Người Kinh phát
huy nghề làm rựa, cuốc, rèn sắt để làm các vật
dụng phục vụ sản xuất, làm nồi đồng, biết làm


áo bằng da trâu, đan lát (rổ, rá, rổ sấy bằng tre).
Nghề làm đồ gốm có trang trí hoa văn, nghề dệt,
nghề mộc khá phát triển. Ở An Khê, do tính chất
lao động còn mang tính tự nhiên, sản phẩm thủ
cơng làm ra chủ yếu dựa vào cơ bắp chứ khơng
bằng máy móc. Dù lao động tự giác, nhưng ở
trình độ kỹ thuật rất thấp như: Nghề rèn kém
phát triển, gốm khơng làm bằng bàn xoay, đan
lát theo mẫu đơn giản, nghề dệt đúng hơn là
đan sợi, chưa có khung cửi. Khu vực Cửu An (An
Khê), đến đầu thế kỷ XX có các lò gốm của ơng
Nguyễn Ảnh, Phan Gia chun làm các sản phẩm
như: gạch thẻ, ngói, nồi, trã, bọng giếng, muỗng
đường. Đã cung cấp một khối lượng tương đối
lớn cho địa phương và vùng lân cận.
Từ năm 1941, ở An Khê xây dựng lò gạch để
sản xuất vật liệu xây dựng, làm xe kéo để chun
chở. Năm 1943 tư bản Anh, Pháp, Nhật cấu kết
với nhau chiếm 200 ha đất ở ngã ba Đồng Găng

mở cơ sở sản xuất và chế biến thuốc lá MIC.
Đối với thương nghiệp, từ cuối thế kỷ XVIII
- nửa đầu thế kỷ XIX, vùng An Khê với nguồn
Cầu Bơng (nay là khu vực Chợ Đồn, phường
An Bình) trở thành nơi giao dịch, trao đổi, bn
bán. Sau đó chuyển xuống nguồn Phương Kiệu
(tức là An Lũy, hiện nay thuộc phường Tây Sơn).
Đây cũng là nơi trao đổi các sản phẩm thủ cơng
nghiệp, mua bán hàng nơng lâm thổ sản. An
Sơn là chợ trung gian tiếp nhận và phân phối
hàng hóa chủ yếu của người Kinh, nhưng trong
hoạt động bn bán với người Bahnar bị nhà
Nguyễn cấm đốn.
Ngồi ra, chè ở Tân Phong là mặt hàng nổi
tiếng của người Kinh dùng để xuất khẩu đi các
nước nhất là các nước thuộc địa của Pháp. Cau
và sắn ở đây thơng qua mua bán, trao đổi giữa
các vùng ít nhiều tạo ra thu nhập kinh tế cho
người dân địa phương. Ở An Khê, sáp ong là đặc
sản vùng miền được đem bán ở các chợ và chịu
thuế, “sáp ong có thuế mỗi năm phải nộp đối
với Nguồn Phương Kiệu là 340 cân lĩnh” [9, tr.59].
Những giống cây trồng dài ngày và ngắn ngày
như: cam, qt, thơm, chuối, dừa, mít, thuốc, rau
cải..., được các nhà bn thu mua xuống bán ở
chợ Quy Nhơn.

Những năm đầu thế kỷ XX, cao ngun An
Khê được người Pháp kinh doanh ni gia súc
mang lại nguồn lợi lớn và trở thành nguồn cung

cấp ra thị trường như: Trâu, bò, ngựa cho các địa
phương khác và thường xuất vào Nam Kỳ bằng
đường bộ. Việc bn bán với người Bahnar được
nhiều lái bn ở đồng bằng lên trao đổi, trước
tiên là chợ Trạm Gò (nay là xã Cửu An). Đó là chợ
người Kinh được người Bahnar lui tới trao đổi,
mua bán hàng hóa, đã tạo điều kiện cho thương
mại phát triển. Nhiều đồn người Bahnar theo
ngựa hoặc voi xuống huyện Bình Khê mua muối
hoặc các hàng hóa khác.
Người Kinh thường mang hàng hóa đi trao
đổi hoặc dẫn các đồn ngựa thồ chở nhiều
muối. Những trung tâm mua bán nhỏ tiếp tục
hình thành trong vùng thu hút sự bn bán từ
đồng bằng nhất là từ Bình Khê lên. Ở hai Tổng
Tân Phong và An Khê chủ yếu sống bằng nghề
bn bán và họ vào tận các làng để trao đổi sản
phẩm. Khu vực từ cầu Sơng Ba trở xuống diễn ra
cảnh bn bán nhộn nhịp, giàu sức sống: Khu
thứ nhì (khu thứ nhất là Tân An) có phố xá, chợ
búa bn bán phồn thịnh, người Kinh và người
Bahnar thường đến trao đổi sản vật.
Những năm 20 của thế kỷ XX, hình thành
nhiều chợ khá nổi tiếng ở An Khê như: Chợ An
Khê, chợ Đồn, chợ Tú Thủy. Với những hoạt động
giao thương này, nghề bn bán trở nên phổ
biến đối với người Kinh, họ trao đổi với đồng
bào các dân tộc thiểu số mà hồi đầu thế kỷ trước
thường được gọi là nghề bn thượng.
Từ năm 1932 - 1939, theo Cơng báo Trung

Kỳ ngày 27/8/1932, chính quyền thực dân đã
xuất đi các giống bò, ngựa, cừu thuộc Sở chăn
ni An Khê: 12 con bò cái giống Anamit, 2
con ngựa non và 9 con cừu cái Kelantan. Ngày
13/10/1932, tại An Khê chính quyền thực dân
đã thành lập một Ủy ban điều tra để kiểm sốt
khâu bn bán trâu và bò.
Tại chợ An Khê và chợ Đồn việc bn bán
thường xun thay phiên bán các mặt hàng:
Muối, vòng đồng, hạt cườm, vải, dây nịt, dù
trắng, chiêng. Còn “những chợ kia thì mỗi tháng
6 phiên, người dân tộc ít người về đây bn bán.

15
SỐ 02 NĂM 2019

KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN


TẠP CHÍ KHOA HỌC CƠNG NGHỆ VÀ MƠI TRƯỜNG

16

KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
Tú Thủy vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 Âm lịch;
Cửu An là ngày 3, 8, 13, 18, 23, 28 Âm lịch” [11,
tr.541]. Chính quyền nơi đây cho các nhà bn
các nơi được phép tới lui bn bán ở An Khê, việc
lập phố xá bán các sản phẩm thủ cơng nghiệp
như: Hàng xén, quần áo, nơng cụ. Thuốc lá là mặt

hàng thường xuất khẩu đi nơi khác: Năm 1934,
thuốc hạng nhất được bán với giá từ 17 xu - 18
xu/kg, các tiểu thương từ Quy Nhơn lên mua
thuốc lá bán cho xưởng thuốc điếu Sài Gòn. Từ
1941, cơ sở chế biến thuốc lá MIC với mục đích
xuất khẩu, nhưng với giá cả khơng cao.
Khi chế độ thực dân được xác lập từ cuối thế
kỷ XIX đến năm 1930, người dân phải chịu nhiều
thứ thuế đã ảnh hưởng đến sự phát triển của thủ
cơng nghiệp và thương nghiệp: Thuế chợ, thuế
muối, thuế mơn bài..., riêng thuế mơn bài được
áp dụng đối với người kinh ở huyện Tân An (An
Khê) từ năm 1930 - 1933 như sau: “Năm 1930:
658,17 đồng, năm 1931: 658,17 đồng, năm 1932:
634,57 đồng, năm 1933: 593,28 đồng” [8, tr.49].
Với mức thuế đó làm cho người dân địa phương
rơi vào cảnh kiệt quệ.
Ở An Khê, do hậu quả chiến tranh đã làm
rối loạn kinh tế (thủ cơng nghiệp và thương
nghiệp trong thời kỳ thực dân, phong kiến còn
mang tính chất nhỏ bé, lạc hậu). Do nạn đầu cơ
tích trữ, thị trường khan hiếm, giá cả tăng vọt và
sinh hoạt đắt đỏ nên nhân dân phải gánh chịu
mọi nỗi khổ. Từ đó, họ đấu tranh bằng hình thức
giấu diện tích sản xuất, vốn kinh doanh; chống
bắt lính, nộp thuế thân, thuế mơn bài. Kinh tế
An Khê bị thực dân Pháp kiểm sốt trong các
ngành, mang bản chất chèn ép bóc lột và phục
vụ lợi ích cho tư bản Pháp.
Trên vùng đất An Khê từ nửa sau thế kỷ XIX

đến năm 1945, nền kinh tế nơng nghiệp gắn
liền với trồng lúa nước gần sơng suối và lúa rẫy.
Những người Kinh từ đồng bằng đến đây đã
áp dụng phương thức canh tác và kỹ thuật mới
tiến bộ rõ rệt, nên năng suất lao động tăng lên.
Nhưng trình trạng bị chiếm đoạt ruộng đất của
thực dân phong kiến, nên nơng dân mất đất
canh tác. Ngồi kinh tế trồng trọt, chăn ni,
săn bắn và hái lượm truyền thống của nhân
dân, chính quyền thực dân lập các đồn điền

trồng cây cơng nghiệp mang yếu tố kinh tế tư
bản chủ nghĩa.
Tại An Khê, tư bản Pháp tiến hành xây dựng
các trại chăn ni trâu, bò, ngựa, cừu với nhiều
giống q hiếm. Là đặc trưng mang tính qui
mơ hơn so với chăn ni truyền thống và khác
với các vùng ở Gia Lai. Sản phẩm từ chăn ni
được tiêu thụ trong nước và xuất đi thị trường
các nước. Thủ cơng nghiệp truyền thống có sự
phát triển đáng kể, bên cạnh còn có cơng ty tư
bản đầu tư vào lĩnh vực này. Thương mại có sự
chuyển mình, thực dân Pháp cho các nhà bn
đến đây, nguồn hàng hóa từ các nơi được đưa
đến các chợ (trong đó chủ yếu hàng hóa từ Bình
Định đưa lên) nhất là vùng thị trấn An Khê để
bn bán.
Nhìn chung, nơng nghiệp, thủ cơng nghiệp
và thương nghiệp trong thời kỳ này còn nhiều
hạn chế, mang tính nhỏ lẻ. Đó là do kỹ thuật canh

tác còn lạc hậu ở một số vùng, chính sách thuế
hà khắc của chính quyền thực dân, phong kiến
đã đẩy các tầng lớp nhân dân An Khê chủ yếu
là nơng dân rơi vào cảnh khó khăn thiếu thốn,
nhất là trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai
(1939 - 1945)./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê (2015), Lịch sử
truyền thống cách mạng xã Cửu An (1945 - 2015), (NXB Chính
trị quốc gia).
2. Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi (2011), Người
Ba-Na ở Kon Tum, (NXB Tri thức).
3. Ch. Trinquet (1905), Le Plateau đ’ An Khê Province đe
Bình Định (người dịch: Nguyễn Mại), lưu Thư viện tỉnh Bình Định.
4. Lộc Xun Đặng Q Địch, Ai đã khai lập đất An Khê,
Tạp chí xưa và nay, tháng 11/2009, số (343), trang 17 - 18.
5. Etablissements d’Elevage d’An Khe (Kon Tum), Huế, ngày
10/8/1932, 13/10/1932, 25/10/1932, phơng Cơng báo/hồ sơ
J.1309, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. (Người dịch: TS.Nguyễn
Thị Ái Quỳnh, khoa Ngoại ngữ, Trường ĐH Quy Nhơn).
6. Kon Tum tỉnh chí, Tạp chí Nam Phong, năm 1934, số
(193), trang 31.
7. Lettre de l’ Établissements L.Delignon Mensieur le
Résident de France à Qui Nhơn, 12/12/1918, phơng Tòa khâm
sứ Trung Kỳ SRA/hồ sơ 4200, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV.
8. Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai (2006), Lịch sử
mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai, (NXB Chính trị quốc gia).
9. Quốc sử qn triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất
thống chí, tập 3, quyển IX, tỉnh Bình Định, (NXB Khoa học xã hội).
10. Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum, Chính sách nơ dịch của Pháp

ở Gia Lai - Kon Tum trước cách mạng tháng Tám năm 1945, TL
Ban tun giáo tỉnh Gia Lai, ký hiệu: số 2 - tập 1.
11. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (1999), Địa chí Gia Lai,
(NXB Văn hóa dân tộc).



×