Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TỔNG QUAN VỀ LOGISTICS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.71 KB, 14 trang )

TỔNG QUAN VỀ LOGISTICS
I- SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LOGISTICS
1- Khái niệm về logistics
Bước vào thế kỉ XX, sản xuất vật chất của xã hội đã đạt được năng suất
lao động cao nhờ áp dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến và đặc biệt là những thành
tựu mới trong công nghệ thông tin. Tuy nhiên, muốn tối ưu hóa quá trình sản
xuất, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị
trường, chỉ còn cách cải tiến và hoàn thiện hệ thống quản lý phân phối vật chất (
Phisical Distribution Management ) để giảm tới mức thấp nhất thiệt hại do tồn
kho, ứ đọng nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm trong qua trình sản
xuất và lưu thông. Hệ thống phân phối vật chất này còn được gọi là “ logistics”.
Trên thực tế, thuật ngữ logistics đã xuất hiện từ rất lâu. “Logistics” theo
nghĩa đang sử dụng trên thế giới có nguồn gốc từ từ “Logistique” trong tiếng
Pháp. “Logistique” lại có gốc từ từ “Loger” nghĩa là nơi đóng quân, từ này có
quan hệ mật thiết với từ “Lodge”- nhà nghỉ ( một từ cổ trong tếng Anh, gốc
Latinh). Ban đầu, thuật ngữ này được sử dụng đầu tiên trong quân đội và mang
nghĩa là “hậu cần” hoặc “tiếp vận”. Tướng Chauncey B.Baker, tác giả cuốn
“Transpotation of Troops and Merterial” có viết: “Một nhánh trong nghệ thuật
chiến đấu có liên quan đến việc di chuyển và cung cấp lương thực, trang thiết bị
cho quân đội được gọi là “logistics”.
Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội, nhiều thập kỉ qua, logistics được
nghiên cứu sâu và áp dụng sang những lĩnh vực khác như sản xuất, kinh doanh.
Thuật ngữ logistics ngày nay được hiểu với nghĩa quản lý hệ thống phân phối
vật chất của các đơn vị sản xuất kinh doanh trong xã hội. Nhưng cho đến nay
trên thế giới chúng ta vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ về logistics cũng như
hệ thống logistics. Tùy thuộc vào góc độ tiếp cận mà các tác giả đưa ra các khái
niệm về logistics. Sau đây là một số khái niệm về logistics:
• Theo hội đồng quản trị logistics Mỹ-1988: Logistics là quá trình lên kế hoạch,
thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưu
trữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểm sản
xuất đến nơi tiêu thụ nhằm mục đích thoả mãn những nhu cầu của khách hàng.


• Theo tác giả Donald J.Bowersox-CLM Proceeding-1987: Logistics là một
nguyên lý bán lẻ nhằm hướng dẫn quá trình lên kế hoạch, định vị và kiểm soát
các nguồn nhân lực và tài lực có liên quan tới hoạt động phân phối vật chất, hỗ
trợ sản xuất và hoạt động mua hàng.
• Logistics được uỷ ban quản lý logistics của Mỹ định nghĩa như sau: logistics là
quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để quản lý, kiểm soát việc di
chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với
nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương
ứng từ giai đoạn tiền sản xuất đến khi hàng hoá đến tay người tiêu dung cuối
cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
• Theo khái niệm của liên hợp quốc được sử dụng cho khoá đào tạo quốc tế về
vận tải đa phương thức và quản lý logistics tổ chức tại ĐH Ngoại Thương Hà
Nội tháng 10/2002 thì: Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển
nguyên vật liệu qua các khâu lưu kho, sản xuất ra sản phẩm cho tới tay người
tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng…
• Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không đưa ra khái niệm “logistics” mà
đưa ra khái niệm “dịch vụ logistics” như sau: Dịch vụ logistics là hoạt động
thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn
bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ
tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng
hoặc các dịch vụ khác có lien quan đến hàng hoá theo thỏa thuận với khách
hàng để nhận thù lao ( Điều 233- Luật Thương mại Việt Nam năm 2005).
Qua các khái niệm trên, cho dù có sự khác nhau về từ ngữ diễn đạt, cách
trình bày nhưng trong nội dung tất cả các tác giả đều cho rằng logistics chính là
hoạt động quản lý dòng lưu chuyển của nguyên vật liệu từ khâu mua sắm qua
quá trình lưu kho, sản xuất ra sản phẩm và phân phối tới tay người tiêu dùng
nhằm giảm tối đa chi phí phát sinh hoặc sẽ phát sinh với một thời gian ngắn
nhất trong quá trình vận động của nguyên vật liệu phục vụ ản xuất cũng như
phân phối hàng háo một cách kịp thời.
Tóm lại, theo quan điểm của cá nhân thì logistics được hiểu như sau:

Logistics là nghệ thuật tổ chức sự vận động của hàng hoá, nguyên vật liệu
từ khi mua sắm, qua các quá trình lưu kho, sản xuất, phân phối cho đến khi đưa
đến tay người tiêu dùng.
Qua khái niệm về logistics như trên chúng ta có sơ đồ sau đây: Điểm cung cấp
nguyên vật liệu
Kho dự trữ nguyên vật liệu
Sản xuất
Kho dự trữ sản phẩm
Thị trường tiêu thụ
Kho
Nhà máy
Kho
A
Kho
Kho
B
Nhà máy
2- Sự hình thành và phát triển của logistics.
Thuật ngữ logistics dịch ra Tiếng Việt có nghĩa là “hậu cần”, “ngành hậu
cần” hay “tiếp vận” hoặc cũng có người dịch là “Tổ chức dịch vụ cung ứng”…
Như đã nói, thuật ngữ logistics ban đầu được sử dụng như một từ chuyên môn
trong quân đội, được hiểu với nghĩa là công tác hậu cần. Logistics chiếm một vị
trí quan trọng góp phần làm nên chiến thắng của quân đội nhiều nước khác nhau
trên thế giới. Điển hình là quân đội hoàng gia Pháp ở thế kỉ XVII-XVIII, khi đối
đầu với sức mạnh của hải quân Anh, thuỷ quân hoàng gia Pháp yếu kém hơn rất
nhiều so với kẻ thù, song với sự nỗ lực lớn về công nghiệp và logistics diễn ra
trong một thế kỉ, quân đội Pháp đã khắc phục những điểm yếu của mình cho
phép họ ngăn cản hoạt động của quân Anh ở Châu Mỹ. Hay như cuộc đổ bộ
thành công của quân đồng minh vào vùng Normandie tháng 6 năm 1944 chính
là nhờ sự nỗ lực của khâu chuẩn bị hậu cần và qui mô của các phương tiện hậu

cần được triển khai.
Logistics đã góp phần làm tăng cường sức mạnh cho các nhà quân sự
giành được chiến thắng trong chiến tranh, do đó rất nhiều kĩ năng về logistics đã
được nghiên cứu và áp dụng đặc biệt là trong chiến tranh thế giới thứ II. Xuất
phát từ bản chất ưu việt của logistics, sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc,
các chuyên gia logistics trong quân đội đã áp dụng những kĩ năng logistics trong
hoạt động kinh tế thời hậu chiến tranh nhằm đáp ứng nhiệm vụ thực tế là tái
thiết đất nước sau chiến tranh. Như vậy logistics trong doanh nghiệp đuợc áp
dụng sau chiến tranh thế giới thứ II.
Ngày nay thuật ngữ logistics đã được phát triển, mở rộng và được hiểu
với nghĩa là quản lý (management). Từ những năm 50 của thế kỉ XX đến nay,
công nghiệp và thương mại thế giới đã trải qua những biến cố sâu sắc từ nền
kinh tế dựa trên cơ sở sản xuất hàng loạt, đòi hỏi một lượng hàng lớn đồng nhất
sang nền kinh tế mà tính độc đáo và đa dạng của hàng hóa được nhấn mạnh.
Trong buôn bán, người bán không nhất thiết là người sản xuất, người mua chưa
chắc đã là người tiêu dùng cuối cùng. Quá trình hàng hóa từ tay người sản xuất
đến tay người tiêu dùng cuối cùng có thể phải qua nhiều người trung gian lần
lượt đóng vai trò là người bán hay người mua và là một bộ phận của quá trình
lưu thông hàng hoá. Tính chất phong phú của hàng hoá cùng với sự vận động
phức tạp của chúng đòi hỏi phải có một sự quản lý chặt chẽ, điều này đặt ra cho
những nhà sản xuất kinh doanh một yêu cầu mới. Đồng thời để tránh đọng vốn,
các nhà sản xuất kinh doanh luôn tìm cách duy trì một lượng hàng tồn kho nhỏ
nhất. Từ những lý do trên yêu cầu hoạt động vận tải giao nhận nói riêng và lưu
thông phân phối nói chung phải đảm bảo cho nguyên liệu hàng hóa được cung
ứng kịp thời, đúng lúc…logistics trong doanh nghiệp đã ra đời.
Theo ESCAP ( Economic and Social Commission for Asia and the
Pacific- ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á-Thái Bình Dương) Logistics được
phát triển qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phân phối vật chất.
Vào những năm 60, 70 của thế kỉ XX, người ta bắt đầu quan tâm đến

những vấn đề quản lý một cách có hệ thống những hoạt động có liên quan với
nhau để đảm bảo phân phối sản phẩm, hàng hóa cho khách hàng một cách có
hiệu quả. Những hoạt động đó bao gồm: vận tải, phân phối, bảo quản hàng hóa,
quản lý tồn kho, bao bì đóng gói, phân loại dán nhãn…những hoạt động nêu
trên được gọi là phân phối, cung ứng sản phẩm vật chất hay còn có tên gọi là
logistics đầu ra.
Giai đoạn 2: Hệ thống logistics.
Thời kì này khoảng những năm 80-90 của thế kỉ XX, các công ty kết hợp
chặt chẽ việc quản lý giữa hai mặt: đầu vào và đầu ra để giảm tối đa chi phí
cũng như tiết kiệm chi phí. Như vậy sự kết hợp chặt chẽ giữa cung ứng nguyên
vật liệu cho sản xuất với phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng đã đảm
bảo sự ổn định và tính liên tục của dòng vận chuyển, sự kết hợp này được mô tả
là hệ thống logistics.
Giai đoạn 3: Quản trị dây chuyền cung ứng.
Đây là khái niệm mang tính chiến lược về quản trị chuỗi nối tiếp các hoạt
động từ người cung cấp-người sản xuất đến khách hàng tiêu dùng sản phẩm,
cùng với việc lập các chứng từ có liên quan, hệ thống theo dõi, kiểm tra làm
tăng giá trị sản phẩm. Khái niệm này coi trọng việc phát triển quan hệ với đói
tác, kết hợp chặt chẽ giữa người cung cấp, nhà sản xuất và người tiêu dùng cùng
các bên có liên quan như: các công ty vận tải, kho bãi, giao nhận và người cung
cấp công nghệ thông tin.
ESCAP cũng định nghĩa quản l dây chuyền cung ứng và logistics là khái
niệm đồng bộ hóa những hoạt động của nhiều tổ chức trong dây chuyền

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×