1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
------
BÀI THẢO LUẬN
Học phần: Quan hệ lao động
Đề tài: Vai trò của người lao động và tổ chức đại diện cho người lao động trong quan hệ
lao động và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.
Lớp HP
: HRMG0511
Nhóm
:
2
MỤC LỤC
Phần 1 Lý thuyết về vai trò của người lao động và tổ chức đại diện cho người lao động trong
quan hệ lao động
1.1 Người lao động (NLĐ)...................................................................................................4
1.1.1 Khái niệm................................................................................................................. 4
1.1.2 Quyền và nghĩa vụ của NLĐ...................................................................................4
1.1.3 Vai trò của NLĐ.......................................................................................................4
1.1.4 Năng lực của NLĐ...................................................................................................4
1.2 Tổ chức đại diện cho NLĐ.............................................................................................5
1.2.1 Sự cần thiết phải có tổ chức đại diện cho NLĐ........................................................5
1.2.2 Khái niệm tổ chức đại diện cho người lao động.......................................................6
1.2.3 Vai trò của tổ chức đại diện cho người lao động......................................................6
1.2.4 Chức năng của tổ chức đại diện cho người lao động...............................................6
1.2.5 Năng lực của tổ chức đại diện cho người lao động...................................................7
1.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện vai trò của tổ chức đại diện cho người lao
động ....................................................................................................................................7
1.3.1 Yếu tố môi trường quốc tế.......................................................................................7
1.3.2 Yếu tố pháp lí...........................................................................................................9
1.3.3 Yếu tố văn hóa-xã hội..............................................................................................10
Phần 2. Liên hệ tổ chức đại diện cho người lao động ở Việt Nam.
2.1 Giới thiệu chung về Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.............................................10
2.1.1. Giới thiệu sơ lược...................................................................................................11
2.1.2 Cơ cấu tổ chức.........................................................................................................11
2.2 Vai trò, chức năng của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.........................................11
2.2.1 Hệ thống tổ chức Công đoàn Việt Nam...................................................................12
2.2.2 Vai trò Công đoàn Việt Nam....................................................................................16
2.2.3 Chức năng của công đoàn........................................................................................17
2.3. Sự ảnh hưởng của các nhân tố đến việc thực hiện vai trò, chức năng của tổ chức đại diện
cho người lao động..............................................................................................................20
2.3.1 Yếu tố môi trường quốc tế........................................................................................20
2.3.2 Yếu tố pháp luật.......................................................................................................21
2.3.3 Yếu tố văn hóa – xã hội...........................................................................................25
2.4 Đánh giá năng lực của tổ chức đại diện cho người lao động tại Việt Nam.....................26
2.4.1 Đánh giá năng lực của cán bộ trong tổ chức đại diện cho người lao động tại Việt Nam
................................................................................................................................... ........26
2.4.2 Đánh giá năng lực tổ chức hoạt động của tổ chức đại diện cho người lao động tại Việt
Nam.....................................................................................................................................27
3
4
Đề tài: Vai trò của người lao động và tổ chức đại diện cho người lao động
trong quan hệ lao động và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.
Phần 1. Lý thuyết về vai trò của người lao động và tổ chức đại diện cho người lao động
1.1. Người lao động
1.1.1. Khái niệm
Người lao động (NLĐ) là người đủ độ tuổi tham gia vào thỏa thuận theo hợp đồng theo đó
phải thực hiện những công việc trong điều kiện nhất định được cung cấp những phương tiện
vật chất cần thiết và được nhận một khoản tiền lương theo thỏa thuận và hợp với quy định
của pháp luật
1.1.2. Quyền và nghĩa vụ của người lao động
Quyền của người lao động:
Theo quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam, người lao động có các quyền sau: Đ ược trả
lương theo số lượng và chất lượng của sức lao động; Được đảm bảo an toàn trong quá trình
lao động; Được nghỉ ngơi theo quy định của pháp luật và thỏa thuận giữa các bên; Được
hưởng phúc lợi tập thể tham gia quản lý quản lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật;
Được tham gia bảo hiểm xã hội; Được đình công, tham gia vào Công đoàn; Đồng thời người
lao động có quyền làm cho bất kỳ người sử dụng lao động nào ở bất kỳ chỗ nào mà nhà nước
không cấm.
Nghĩa vụ của người lao động:
Người lao động cần thực hiện các nghĩa vụ: Thực hiện hợp đồng lao động; Thực hiện thỏa
ước lao động tập thể; Chấp hành nội quy quy định của tổ chức doanh nghiệp nói chung và
quy định về vệ sinh an toàn lao động nói riêng, tuân thủ sự điều chỉnh hợp pháp của người sử
dụng lao động.
1.1.3. Vai trò của người lao động
NLĐ là một chủ thể trong quan hệ lao động (QHLĐ), là người trực tiếp hoặc gián tiếp
tham gia vào hoạt động sản xuất, là yếu tố giữ vai trò quyết định trong quá trình tạo ra của cải
vật chất. Chính con người với sức lực và trí tuệ của mình là nhân tố quyết định hiệu quả của
việc khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực lực khác có hiện có, mà còn
tạo ra những giá trị, của cải xã hội góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững trong
tương lai.
1.1.4. Năng lực của người lao động
Năng lực là tập hợp các khả năng, nguồn lực của một con người hay tổ chức nhằm thực thi
một công việc nào đó.
Năng lực pháp luật: là khả năng của một chủ thể được hưởng quyền và nghĩa vụ theo pháp
luật quy định. Năng lực pháp luật là loại năng lực khách quan, ở bên ngoài và không phụ
thuộc ý chí chủ quan của NLĐ, thậm chí kể cả NSDLĐ. Năng lực pháp luật lao động được
thể hiện thông qua hệ thống các quy định của pháp luật. Một người được coi là có đủ tư cách,
tức là có đủ năng lực pháp luật, có thể tham gia vào quan hệ lao động cụ thể khi đã đủ 15
tuổi. Sở dĩ pháp luật lao động quy định như trên về độ tuổi lao động là căn cứ vào sự phát
triển về mặt khoa học, pháp luật xác định rằng độ tuổi 15 mới được coi là độ tuổi hội tụ
những điều kiện cần thiết về thể chất và nhận thức để có thể tự do lao động nuôi sống bản
thân. Tuy nhiên, một số ngành nghề không đòi hỏi nhiều về sức lao động và tạo điều kiện cho
5
việc học tập, rèn luyện kĩ năng, pháp luật đã cho phép sử dụng trẻ dưới 15 tuổi tham gia
nhưng phải được đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người
đó. Về năng lực pháp luật thì người lao động và người sử dụng lao động đều có khả năng
ngang nhau trong việc tham gia QHLĐ , do vậy năng lực của người lao động có ảnh hưởng
khá lớn đến QHLĐ thông qua năng lực hành vi.
Năng lực hành vi: là khả năng của chủ thể bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền
và nghĩa vụ.
Năng lực tham gia quan hệ lao động gồm :
Kiến thức: là tập hợp tất cả những gì thuộc về quy luật hoặc có tính quy luật của thế giới
xung quanh của nghề nghiệp được người đó nhận thức. Kiến thức mà người lao động cần có
khi tham gia quan hệ lao động: kiến thức về pháp luật lao động; kiến thức về tranh chấp lao
động; kiến thức về quyền và nghĩa vụ của bản thân họ; quyền tham gia hiệp hội, tổ chức; về
quy trình đối thoại xã hội; kiến thức về thương lượng, đối thoại; kiến thức về các công cụ của
quan hệ lao động.
Kỹ năng là biểu hiện của việc vận dụng các kiến thức đó vào trong thực tế, nếu kiến thức
giúp người thực hiện công việc biết công việc đó là công việc gì thì kĩ năng giúp người thực
hiện công việc biết thực hiện như thế nào. Các kĩ năng cần có: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
thương lượng, kỹ năng đối thoại, hợp tác,…
Thái độ/ phẩm chất là năng lực của người lao động được thể hiện qua hành vi quan điểm,
ý thức, phẩm chất nghề nghiệp để người thực hiện công việc có đủ năng lực thực hiện công
việc được giao. Người lao động cần có thái độ phù hợp, có ý thức tham gia và sẵn sàng tham
gia vào việc thương lượng, đối thoại xã hội phù hợp để giải quyết nhanh chóng mâu thuẫn.
1.2 Tổ chức đại diện cho người lao động
1.2.1. Sự cần thiết phải có tổ chức đại diện cho NLĐ
Thứ nhất, giữa người lao động và người sử dụng lao động luôn có mâu thuẫn về quyền và
lợi ích. Sự mâu thuẫn về quyền và lợi ích này xuất phát từ việc độc lập về lợi ích của 2 chủ
thể. Mỗi chủ thể tham gia vào quan hệ lao động đều có động cơ riêng, mục đích riêng và lợi
ích riêng.
Thứ hai, người lao động thường yếu thế hơn so với người sử dụng lao động, quyền và lợi
ích của họ có thể bị xâm hại.
Thứ ba, thông qua hoạt động của tổ chức công đoàn sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích chung
của người lao động.
1.2.2. Khái niệm tổ chức đại diện cho người lao động
Tổ chức đại diện cho người lao động là tổ chức xã hội được thành lập để đại diện bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của NLĐ.
Tổ chức công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân,
đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp đoàn kết
lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt, đại diện và bảo vệ
các quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dưng nước Việt
Nam độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.3 Vai trò tổ chức đại diện cho người lao động
- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động là đoàn viên công đoàn, đây là vai trò quan
trọng nhất. Vai trò này xuất phát từ nguồn gốc ra đời của các tổ chức công đoàn.
6
- Kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục người lao
động.
- Tham gia đổi mới cơ chế quản lí, củng cố nguyên tắc tập trung dân chủ, giúp tuyên truyền
giáo dục người lao động nắm vững, nhận thức đúng về quyền và nghĩa vụ của mình trong
quan hệ với người sử dụng lao động.
- Góp phần lành mạnh hóa quan hệ lao động, qua đó thúc đẩy sự hợp tác và điều chỉnh hành
vi của các bên nhằm đạt được mục tiêu chung, giảm thiểu và phòng ngừa tranh chấp lao
động.
- Hỗ trợ các dịch vụ và kỹ thuật cho các công đoàn viên và các tổ chức thành viên của công
đoàn.
1.2.4 Chức năng của tổ chức đại diện cho người lao động
- Chức năng bảo vệ lợi ích của người lao động: công đoàn phối hợp với các tổ chức khác của
người sử dụng lao động giúp tìm việc làm, tạo điều kiện làm việc cho người lao động, tham
gia kí kết hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể.
- Chức năng giáo dục, vận động, tuyên truyền: tuyên truyền chính sách, luật pháp, đảm bảo
thông tin cho người lao động về những quyền, lợi ích chính đáng của họ để phòng ngừa và
đấu tranh chống lại các vi phạm về quyền và lợi ích từ phía người sử dụng lao động.
- Chức năng đại diện: trong các cuộc đấu tranh, thương lượng, công đoàn luôn đứng ra đại
diện cho người lao động thể hiện ý chí, nguyện vọng và quan điểm của họ để đấu tranh,
thương lượng nhằm đạt được những thỏa thuận hay quy định có lợi nhất.
- Chức năng điều tiết: điều tiết thị trường lao động. Các tổ chức công đoàn hoạt động theo các
thỏa thuận tập thể với người sử dụng lao động, còn gọi là thỏa ước lao động tập thể.
- Chức năng quản lý: công đoàn tổ chức các phong trào thi đua lao động, tham gia quản lí lao
động, giải quyết lao động dôi dư, quản lý lương, thưởng, quản lý vật tư, kỹ thuật tài chính.
1.2.5 Năng lực của tổ chức đại diện cho người lao động
- Năng lực của cán bộ công đoàn: bao gồm kiến thức, kỹ năng và phẩm chất thái độ của cán
bộ công đoàn, đại diện công đoàn hoặc Ban chấp hành công đoàn.
+ Cán bộ công đoàn cơ sở phải là người am hiểu luật pháp, có kiến thức sâu rộng về hoạt
động của tổ chức công đoàn, có kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thương lượng, kỹ năng đối thoại
xã hội, kỹ năng tổ chức và tham gia vào các hoạt động quần chúng…
Nên ảnh hưởng rất lớn đến năng lực của tổ chức đại diện cho người lao động.
-Năng lực tổ chức công đoàn:
+Năng lực tuyên truyền, thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức của người
lao động của các cấp quản lý về vị trí, vai trò của công đoàn các quy định mới của pháp luật
về lao động, về công đoàn;
+ Năng lực hướng về người lao động, gắn với người lao động;
+ Năng lực tổ chức phong trào thi đua theo hướng tạo động lực cho người lao động;
+Năng lực nâng cao trình độ cán bộ, trình độ tổ chức…
-Mức độ độc lập tương quan với người sử dụng lao động:
+ Tổ chức công đoàn phải ở vị thế tương đối độc lập với người sử dụng lao động. Điều kiện
quan trọng nhất để tổ chức công đoàn phát huy được sức mạnh, thực hiện được nhiệm vụ bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động thì công đoàn phải là tổ chức độc lập với
người sử dụng lao động, quan trọng nhất là độc lập về tài chính.
7
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện vai trò của tổ chức đại diện cho người
lao động
1.3.1. Yếu tố môi trường quốc tế
Tổ chức ILO
-Tổ chức lao động quốc tế ILO đã được hình thành, phát triển và ngày càng khẳng định vị thế
ILO được thai nghén từ ý tưởng thành lập tổ chức mang tính quốc tế về lao động được đề
xuất bởi hai nhà tư bản công nghiệp Pháp thế kỉ 19 và sau đó là của nước Anh.
-Trong 95 năm qua, ILO và các đối tác 3 bên (tổ chức đại diện người lao động,người sử dụng
lao động và cơ quan chính phủ) đã không ngừng lỗ lực để thực hiện mục tiêu công bằng xã
hội, hòa bình và ổn định lâu dài trên thế giới thông qua các quyền, nguyên tắc cơ bản trong
lao động
-Cơ quan chính ILO bao gồm: hội nghị lao động quốc tế, văn phòng lao động quốc tế, hội
đồng quản trị.
+Hội nghị lao động quốc tế có kỳ họp hằng năm của tất cả các nước thành viên. Mỗi nước
thành viên cử 1 đoàn đại biểu dự hội nghị với các bên chính phủ (2 người), đại diện tổ chức
người lao động (1 người), đại diên tổ chức người sử dụng lao động(1 người). Các bên có vai
trò ngang nhau và có quyền độc lập biểu quyết các vấn đề thảo luận.
+Hội đồng quản trị có 1 chủ tịch và 3 phó chủ tịch. Trong đó 3 phó chủ tịch gồm 1 người đại
diện cho chính phủ, 1 người đại diện của người lao động, 1 người đại diện của người sử dụng
lao động. Bốn lãnh đạo cao cấp tuân thủ theo nguyên tắc 3 bên đảm bảo quyền lợi cho cả 3
trong tất cả vấn đề lao động, việc làm.
+Văn phòng lao động quốc tế: có chức năng thu thập các thông tin về việc điều tiết điều kiện
lao động và tình cảnh của người lao động.
-Tiêu chuẩn lao động quốc tế là nguyên tắc, chuẩn mực về lao động và các vấn đề liên quan
được thể hiện dưới 2 dạng là công ước và khuyến nghị do hội nghị lao động quốc tế hằng
năm thông qua.
Nó là chuẩn mực buộc các nước thành viên phải tham khảo trong quyết định về lao động.
Một số công ước của ILO
+Công ước số 87 của ILO : quy định người lao động và người sử dụng lao động đều được
quyền tổ chức và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình với điều kiện là phải tuân
theo điều lệ của chính tổ chức đó.
Các tổ chức của người lao động có quyền xây dựng điều lệ hoạt động, nguyên tắc quản lý, tự
tổ chức và điều hành hoạt động, được tự do bầu các đại diện của mình.
Các tổ chức của người lao động đều có quyền hợp thành liên đoàn hoặc tổng liên đoàn, các tổ
chức, các liên đoàn hoặc tổng liên đoàn đều có quyền gia nhập và liên kết các tổ chức quốc tế
của người lao động.
+Công ước số 98 : bảo vệ người lao động trước mọi hành vi chống lại hoặc hạn chế họ tham
gia hoặc gia nhập hoạt động công đoàn. Đặc biệt là hành vi phụ thuộc việc làm của người lao
động vào việc họ gia nhập công đoàn. Đảm bảo cho tổ chức đại diện của người lao động và
8
người sử dụng lao động độc lập với nhau trong việc tổ chức điều hành và quản lý nội bộ,
tránh việc bên này can thiệp vào nội bộ bên kia bằng mọi hình thức khác nhau.
=>ILO đều khẳng định tất cả các tổ chức của người lao động phải tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật của nước sở tại và theo các tiêu chuẩn của ILO.
Về quyền thành lập tổ chức đại diện của người lao độngphải tôn trọng và bảo đảm quyền của
người lao động trong việc thành lập và gia nhập tổ chức của người lao động tại cơ sở doanh
nghiệp.
Ảnh hưởng đến vai trò của tổ chức đại diện người lao động.
Các tiêu chuẩn quốc tế về quan hệ lao động là chuẩn mực để các chủ thể quan hệ lao động
tham gia vào thị trường lao động toàn cầu. Trong đó là căn cứ để tổ chức đại diện cho người
lao động và các bên liên quan khác am hiểu vai trò, vị trí cũng như năng lực cần có của mình
để tham gia quan hệ lao động một cách chủ động và trò vai.
Các quy tắc ứng xử và các tiêu chuẩn khác
Trong thương mại quốc tế đang diễn ra một thực tế là xuất hiện những tiêu chuẩn lao động
không nằm trong cam kết của Tổ chức Thương mại thế giới – WTO cũng như trong những
thỏa thuận thương mại quốc tế đa phương, nhưng lại luôn đi cùng với thương mại quốc tế
song phương. Xu hướng đưa ra khái niệm “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” vào trong
giao dịch thương mại quốc tế đang được định hình ngày một rõ. Thực chất của xu hướng này
là việc các công ty nhập khẩu ở một số nước phát triển, đặc biệt như Hoa Kỳ và EU đòi hỏi
các doanh nghiệp làm xuất khẩu từ những nước đang phát triển thực hiện một số yêu cầu tiêu
chuẩn lao động nơi làm việc như một điều kiện để có được đơn đặt hàng. Các bộ quy tắc ứng
xử cũng được xây dựng trên cơ sở công ước, khuyến nghị quốc tế về quan hệ lao động của Tổ
chức ILO và có tính đến đặc thù của nghành nghề, lĩnh vực kinh doanh như SA8000, WRAP,
OHSAS18000… Đó là ứng xử cũng như “bàn đạp” trọng yếu để thiết lập quan hệ lao động
trong doanh nghiệp “êm ấm” nếu thực hiện nghiêm túc các CoC. Cùng với sự phát triên và
mở rộng của các tập đoàn, các công ty đa quốc gia các bộ quy tắc ứng xử ngày càng có phạm
vi ảnh hưởng rộng tới các vấn đề lao động trên khu vực và quốc tế. Có một điều khác biệt so
với các công ước, khuyến khích của ILO là các CoC chứa đựng các tiêu chuẩn khuyến khích,
hướng dẫn thực hiện các quy tắc về lao động. Mặc dù là các tiêu chuẩn khuyến khích, không
áp đặt song đứng ở góc độ thương mại nó lại là điều kiện để hàng hóa được sản xuất ở một
thị trường nào đó được nhập khẩu vào nước ở tại hoặc được nhập khẩu bởi một nhãn hiệu
thương mại nên nó cũng đặt ra những thách thức với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu
hàng hóa. Theo thống kê từ Viện Khoa học lao động và Xã hội hiện có trên 2000 bộ nguyên
tắc ứng xử khác nhau chia làm ba nhóm: nhóm của các tổ chức quốc tế, nhóm của các tập
đoàn đa quốc gia, nhóm của các tổ chức độc lập. Tuy nhiên đa số các bộ tiêu chuẩn này đều
có mười nhóm yêu cầu tương tự nhau về lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, thời gian làm
việc, tự do hiệp hội, thương lượng tập thể…Một số bộ quy tắc ứng xử: Bộ nguyên tắc BSCI,
Bộ tiêu chuẩn SA 8000.
1.3.2 Yếu tố pháp lý
* Về mặt hình thức:
- Văn bản pháp lý quan trọng nhất điều chỉnh quan hệ lao động là Luật lao động (hay Luật
Quan hệ lao động) và các dạng quy định pháp lý khác như: Nghị định, Thông tư, Quyết định..
9
- Các cơ quan chức năng của nhà nước có nhiệm vụ xây dựng dự thảo luật và Quốc hội trực
tiếp thông qua các luật. Văn bản cao nhất về luật pháp của các Quốc gia là hiến pháp.
- Ở hầu hết các Quốc gia, văn bản pháp lý quan trọng nhất trong quan hệ lao động là Luật
Lao động hay Luật Quan hệ lao động.
*Về mặt nội dung:
- Pháp luật về quan hệ lao động chủ yếu điều chỉnh quá trình tương tác giữa các chủ thể tham
gia quan hệ lao động, không điều chỉnh những vấn đề cụ thể.
- Pháp luật Quan hệ lao động có 3 chức năng chính:
+ Hỗ trợ các bên ký kết thỏa ước, triển khai và tuân thủ thỏa ước.
+ Điều chỉnh qua việc đưa ra các quy định về phạm vi và điều kiện lao động để bổ sung vào
thỏa thuận mà các bên đã xây dựng.
+ Hạn chế thông qua việc quy định các hoạt động được phép thực hiện, các hoạt động bị cấm
trong quá trình xảy ra xung đột.
-Một số nội dung cốt lõi của pháp luật về quan hệ lao động được nêu trong đạo luật về quan
hệ lao động của một số quốc gia là: Quy định về hợp đồng lao động, Quy định về tranh chấp
lao động, Quy định về thỏa ước lao động tập thể, Quy định về các thiết chế đại diện, hỗ trợ,…
- Xây dựng và ban hành những chính sách pháp luật về quan hệ lao động là nhiệm vụ quan
trọng ở cấp quốc gia. Luật pháp của nhà nước càng đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán và minh
bạch thì càng tạo ra động lực để thúc đẩy mối quan hệ lao động giữa các bên lành mạnh. Nếu
pháp luật lao động của một quốc gia không “phủ kín” các lĩnh vực lao động cần đưa ra tiêu
chuẩn, tranh chấp lao động có thể sẽ phát sinh.
1.3.3. Yếu tố văn hóa, xã hội
- Môi trường văn hóa xã hội là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
- Văn hóa mang những nét đặc trưng cơ bản đó là văn hóa có: tính hệ thống, tính giá trị, tính
nhân sinh, tính lịch sử, có tính tập quán, tính cộng đồng và tính dân tộc.
- Cấu trúc của hệ thống văn hóa gồm văn hóa nhận thức, văn hóa cộng đồng, văn hóa ứng xử
đã tác động mạnh mẽ đến các chủ thể lao động và quá trình tương tác giữa các chủ thể đó
trong quan hệ lao động.
-Văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Những giá trị xã hội, những truyền thống, chuẩn mực xã hội có ảnh
hưởng chi phối tới các chủ thể tham gia quan hệ lao động, ảnh hưởng đến cách ứng xử với
đối tác, thói quen làm việc, nghỉ ngơi, cách thức thiết lập, giải quyết các vấn đề thuộc về quan
hệ lao động. Khi xây dựng hệ thống pháp luật quan hệ lao động mỗi quốc gia đều thể hiện sự
kết hợp giữa những thông lệ quốc tế với việc xem xét những điều kiện cụ thể của dân tộc
mình. Mặc dù vậy, vẫn còn những yếu tố đặc thù của văn hóa, thông lệ riêng mà do đặc điểm
chung của pháp luật (mang tính khuôn mẫu) nên các văn bản quy phạm pháp luật không thể
“lĩnh hội” được.
Phần 2. Liên hệ tổ chức đại diện cho người lao động ở Việt Nam
2.1 Giới thiệu chung Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
2.1.1. Giới thiệu sơ lược:
10
+
+
+
+
1.
2.
3.
4.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ( Vietnam General Confederation of Labour, viết tắt là
VGCL ) được thành lập ngày 28 tháng 7 năm 1929, là cơ quan lãnh đạo của các cấp Công
đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thay mặt cho công nhân, viên chức và lao
động tham gia quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật, chế độ chính
sách liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công nhân, viên chức và lao động tham gia quản
lý kinh tế, quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật, chế độ chính sách liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của công nhân, viên chức và lao động.
- Trụ sở Tổng liên đoàn lao động Việt Nam: 65 phố Quán sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận
Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
- Ban lãnh đạo:
- Chủ tịch: Nguyễn Đình Khang (sinh năm 1967) là một chính khách Việt Nam. Ông hiện là
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Bí thư Đảng Đoàn,
Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam nhiệm kỳ
2015–2020.
- Phó chủ tịch: gồm 4 thành viên
Trần Thanh Hải;
Ngọ Duy Hiểu;
Phan Văn Anh;
Trần Văn Thuật.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức:
Tổ chức có cơ cấu theo các cấp cơ bản sau: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là tổ chức
thống nhất có các cấp cơ bản sau đây:
Cấp Trung ương: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, công đoàn ngành trung
ương và tương đương (gọi chung là Liên đoàn Lao động cấp tỉnh, thành phố và tương
đương).
Liên đoàn Lao động cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: công đoàn ngành
địa phương; công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao;
công đoàn tổng công ty và một số công đoàn trực tiếp cơ sở đặc thù khác (gọi chung là
công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở)
Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn (gọi chung là công đoàn cơ sở).
2.2 Vai trò, chức năng của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
2.2.1 Hệ thống tổ chức Công đoàn Việt Nam
2.2.1.1 Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
+ Là cơ quan lãnh đạo của các cấp Công đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thay
mặt cho công nhân, viên chức và lao động tham gia quản lý kinh tế, quản lí Nhà nước, tham
gia xây dựng pháp luật, chế độ chính sách liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công nhân,
11
viên chức và lao động tham gia quản lý kinh tế, quản lí Nhà nước, tham gia xây dựng pháp
luật, chế độ chính sách liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công nhân, viên chức và lao
động.
+ Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước.
+ Tổ chức phong trào thi đua trong công nhân viên chức và lao động, phát triển đoàn viên,
xây dựng tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn đáp ứng yêu cầu của phong trào
công nhân, Công đoàn.
+ Thông qua quyết toán và dự toán ngân sách hàng năm và tiến hành công tác đối ngoại
theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.2.1.2 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là
Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố) và Công đoàn ngành Trung ương.
+ Là tổ chức Công đoàn theo địa bàn, tỉnh, thành phố có nhiệm vụ đại diện, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân lao động trên địa bàn. Triển khai
thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn, Đoàn Chủ tịch Tổng
Liên đoàn và Nghị quyết Ban Chấp hành Công đoàn tỉnh, thành phố.
+ Tham gia với cấp uỷ Đảng, các cơ quan Nhà nước tỉnh, thành phố về chủ trương phát
triển kinh tế, xã hội, văn hoá giáo dục, các vấn đề liên quan đến đời sống, việc làm, điều
kiện làm việc của công nhân, viên chức, lao động.
+ Tổ chức các phong trào thi đua, các hoạt động xã hội của công nhân, viên chức và lao
động trên địa bàn.
+ Phối hợp với cơ quan chức năng của Nhà nước tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật,
các chính sách về lao động, tiền lương, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và
các chính sách khác có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ người lao động tại địa phương.
+ Tham gia hội đồng trọng tài lao động và an toàn lao động ở địa phương, hướng dẫn, chỉ
đạo giải quyết tranh chấp lao động. Chỉ đạo Công đoàn ngành địa phương, Công đoàn quận
huyện, thị xã và các Công đoàn trực thuộc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
+ Tổ chức giáo dục nâng cao trình độ văn hoá, nghiệp vụ và các hoạt động văn hoá, thể dục
- thể thao trong công nhân, viên chức, lao động.
+ Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Công đoàn ngành Trung
ương cần phải phối hợp chặt chẽ, để cùng nhau chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của Công đoàn
các cấp thuộc ngành trên địa bàn và lãnh thổ.
Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội thực hiện vai trò và nhiệm vụ của mình
trong dịch bệnh Covid 19
12
Đề xuất hỗ trợ người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19
(LĐTĐ) Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đời sống, việc làm của
người lao động, Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội đã có văn bản số 197/LĐLĐ gửi
Thường trực Thành ủy Hà Nội và lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đề xuất,
kiến nghị hỗ trợ công nhân, viên chức, lao độngbị ảnh hưởng của dịch .
Theo đó, Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội đề xuất với Thường trực Thành ủy và lãnh
đạo Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội có chính sách hỗ trợ về thu nhập cho công nhân lao
động các doanh nghiệp; đội ngũ cán bộ, giáo viên, người lao động các trường học ngoài công
lập trên địa bàn Thành phố bị ảnh hưởng do dịch Covid-19; đặc biệt là người lao động có
hoàn cảnh khó khăn, bệnh hiểm nghèo, bị tai nạn lao động; công nhân lao động có cả hai vợ
chồng đều bị mất việc làm; nữ công nhân lao động trực tiếp đang mang thai, nuôi con nhỏ
dưới 12 tháng tuổi mất việc làm...
Đề nghị Thành phố chỉ đạo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, Bảo hiểm xã hội
thành phố Hà Nội hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục cho công nhân lao động bị
mất việc làm, giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Tạo điều kiện gia hạn thời gian
làm thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp đối với công nhân lao động bị cách ly hoặc vì lý do
bất khả kháng do dịch bệnh nên bị quá thời hạn, được giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Đề nghị Thành phố có chính sách hỗ trợ công nhân, viên chức, lao động bị nhiễm dịch bệnh
Covid-19 phải điều trị. Hỗ trợ công nhân, viên chức, lao động bị cách ly tập trung hoặc cách
ly tại gia đình theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, để bù đắp thu nhập và động viên
công nhân, viên chức, lao động tự giác thực hiện nghiêm túc quyết định của cơ quan Nhà
nước.
Đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội sớm ban hành văn bản chỉ đạo Ủy ban nhân dân
các quận, huyện, thị xã; các Sở, ngành liên quan tăng cường công tác quản lý Nhà nước về
lao động, tránh trường hợp doanh nghiệp lợi dụng ảnh hưởng dịch bệnh để cắt giảm quyền lợi
của người lao động, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; phối hợp với tổ chức Công
đoàn nhằm ổn định quan hệ lao động trên địa bàn; giám sát chặt chẽ việc thực hiện các chế
độ, chính sách đối với công nhân lao động bị ngừng việc, mất việc do dịch bệnh Covid-19.
Đề nghị Thành phố tạo điều kiện có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp khôi phục sản xuất
kinh doanh do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19; đồng thời xem xét chính sách giãn thuế,
hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch bệnh Covid-19,
để doanh nghiệp có thêm nguồn lực phục vụ cho việc tái cơ cấu sản xuất kinh doanh và chi
trả tiền lương, các chế độ khác trong thời gian người lao động ngừng việc, sớm ổn định việc
làm, đời sống và thu nhập cho người lao động.
Lãnh đạo Liên đoàn Lao động thành phố mong muốn, thông qua các hoạt động chăm lo cho
đội ngũ công nhân, viên chức, lao động bị ảnh hưởng do dịch bệnh Covid-19, sẽ góp phần thể
13
hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo thành phố Hà Nội đối với giai cấp công nhân
và người lao động Thủ đô, đồng thời góp phần ổn định quan hệ lao động, an sinh xã hội trên
địa bàn Thành phố.
2.2.1.3 Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở
+ Công đoàn cấp trên trực tiếp của Công đoàn cơ sở gồm Công đoàn Tổng công ty, Công
đoàn ngành nghề địa phương, Công đoàn quận huyện, thị xă, thành phố thuộc tỉnh, Công
đoàn các cơ quan Bộ; Công đoàn ngành giáo dục quận, huyện trực thuộc Liên đoàn lao
động quận, huyện.
+ Công đoàn ngành địa phương là Công đoàn cấp trên cơ sở, là tổ chức Công đoàn của
công nhân, viên chức và lao động cùng ngành, nghề thuộc các thành phần kinh tế trên địa
bàn tỉnh, thành phố.
a) Nhiệm vụ, quyền hạn của Công đoàn ngành địa phương
+ Tổ chức triển khai các chủ trương công tác của Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, của
Công đoàn ngành TW và Nghị quyết của Công đoàn cấp mình.
+ Tham gia với chính quyền cùng cấp về phát triển kinh tế - Xã hội của ngành địa phương,
các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm và lợi ích ngành nghề, xây dựng đội ngũ công
nhân, viên chức và lao động trong ngành.
+ Hướng dẫn, thông tin về các chế độ, chính sách, khoa học kỹ thuật, ngành, nghề. Tổ chức
các phong trào thi đua, giáo dục truyền thống, nghĩa vụ, quyền lợi của công nhân, viên chức
và lao động trong ngành. Phối hợp với Liên đoàn Lao động huyện, quận, thị xã, thành phố
(thuộc tỉnh) hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các chế độ, chính sách ngành,
nghề, bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân, viên chức và lao động trong ngành.
+ Thực hiện công tác tổ chức, cán bộ theo phân cấp của Liên đoàn Lao động tỉnh, thành
phố, xây dựng Công đoàn cơ sở, Nghiệp đoàn vững mạnh, tập huấn bồi dưỡng cán bộ Công
đoàn.
b) Nhiệm vụ và quyền hạn của Công đoàn Tổng công ty
+ Công đoàn Tổng công ty là Công đoàn cấp trên cơ sở, là tổ chức Công đoàn của công
nhân, viên chức và lao động trong các công ty.
+ Triển khai thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết, chủ trương công tác của Công đoàn cấp trên
và Nghị quyết Đại hội Công đoàn Tổng công ty.
+ Tham gia với Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc về quy hoạch, kế hoạch và mục tiêu phát
triển kinh tế của Tổng công ty, tham gia xây dựng và kiểm tra giám sát việc thực hiện nội
14
quy, quy chế, chế độ tiền lương, tiền thưởng và các quy định có liên quan đến quyền và lợi
ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức và lao động Tổng công ty.
+ Phối hợp với chuyên môn thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức Đại hội công nhân,
viên chức, đại diện cho đoàn viên công đoàn, công nhân, viên chức và lao động kí thoả ước
lao động tập thể với Tổng giám đốc phù hợp với các qui định của pháp luật, tham gia các
Hội đồng của Tổng công ty để giải quyết các vấn đề có liên quan đến công nhân, viên chức
và lao động.
+ Chỉ đạo các Công đoàn cơ sở thuộc Công đoàn Tổng công ty thực hiện các hình thức
tham gia quản lí, thực hiện Luật lao động, tổ chức phong trào thi đua, tuyên truyền, giáo
dục theo đặc điểm ngành, nghề, hướng dẫn công tác bảo hộ lao động, bảo hiểm xă hội, bảo
hiểm y tế và các chế độ, chính sách ngành, nghề khác.
+ Quyết định thành lập hoặc giải thể các Công đoàn cơ sở thuộc Công đoàn Tổng công ty
phù hợp với các nguyên tắc và qui định của Tổng Liên đoàn, thực hiện công tác cán bộ theo
sự phân công của Công đoàn cấp trên, chỉ đạo xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh.
+ Tiếp nhận ý kiến tham gia và chỉ đạo của các Liên đoàn Lao động địa phương đối với các
Công đoàn cơ sở. Công đoàn cơ sở là thành viên của Công đoàn Tổng công ty đóng trên địa
bàn địa phương.
2.2.1.4 Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn.
+ Công đoàn cơ sở được thành lập ở các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các
đơn vị sự nghiệp và cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xă hội có
5 đoàn viên trở lên và được Công đoàn cấp trên Quyết định công nhận.
+ Nghiệp đoàn Lao động, tập hợp những người lao động tự do hợp pháp cùng ngành, nghề
được thành lập theo địa bàn hoặc theo đơn vị lao động có mười đoàn viên trở lên và được
Công đoàn cấp trên ra Quyết định công nhận.
Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn được tổ chức theo 4 loại hình sau:
- Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn không có tổ công đoàn, tổ nghiệp đoàn.
- Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn có tổ công đoàn, tổ nghiệp đoàn.
- Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn có công đoàn bộ phận, có nghiệp đoàn bộ phận.
- Công đoàn cơ sở có Công đoàn cơ sở thành viên.
Các Công đoàn cơ sở tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà xây dựng các chương trình,
kế hoạch, nội dung hoạt động phù hợp với điều kiện công tác, sản xuất kinh doanh nhằm
15
thực hiện chức năng cơ bản của Công đoàn, không ngừng chăm lo, bảo vệ lợi ích góp phần
ổn định việc làm, thu nhập và đời sống cho người lao động. Cụ thể:
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Công đoàn cơ sở trong các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, cơ quan của tổ chức chính trị, chính trị - xă hội và tổ chức xă hội nghề nghiệp.
1. Tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn. Giáo dục nâng cao tŕnh độ chính trị, văn hoá, pháp luật,
khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ.
2. Kiểm tra, giám sát việc thi hành các chế độ, chính sách, pháp luật, bảo đảm việc thực
hiện quyền lợi của đoàn viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động. Đấu tranh
ngăn chặn tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xă hội. Phát hiện và tham gia giải quyết khiếu
nại, tố cáo, giải quyết các tranh chấp lao động và thực hiện các quyền của Công đoàn cơ sở
theo quy định của pháp luật.
3. Phối hợp với thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện Quy chế
dân chủ, tổ chức hội nghị cán bộ, công chức cơ quan, đơn vị; cử đại diện tham các hội đồng
xét và giải quyết các quyền lợi của đoàn viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động. Cùng với thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan, đơn vị cải thiện điều kiện làm
việc, chăm lo đời sống của CNVCLĐ, tổ chức các hoạt động xă hội, từ thiện trong
CNVCLĐ.
4. Tổ chức vận động CNVCLĐ trong cơ quan, đơn vị thi đua yêu nước, thực hiện nghĩa vụ
của cán bộ, công chức, viên chức, lao động tham gia quản lư cơ quan, đơn vị, cải tiến lề lối
làm việc và thủ tục hành chính nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác.
2.2.2. Vai trò của Công đoàn Việt Nam:
Trong lĩnh vực chính trị
Công đoàn có vai trò to lớn trong việc góp phần xây dựng và nâng cao hiệu quả của hệ thống
chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa. Tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân,
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực thi pháp luật và để Nhà nước thực sự là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo sự ổn định về chính trị.
* Trong lĩnh vực kinh tế: Công đoàn tham gia xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế
nhằm xoá bỏ quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung trên cơ sở mở rộng dân chủ.
Góp phần củng cố những thành tựu kinh tế văn hoá và khoa học kỹ thuật đã đạt được trong
những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả
hoạt động của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, liên kết
và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh. Đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từng bước đưa kinh tế tri thức vào Việt Nam, góp phần
16
nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đẩy mạnh hoạt động của các thành phần kinh
tế vẫn đảm bảo cho kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, đóng vai trò chủ đạo.
* Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: Trong nền kinh tế nhiều thành phần Công đoàn phát huy
vai trò của mình trong việc giáo dục công nhân, viên chức và lao động nâng cao lập trường
giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho mọi hoạt động, phát huy những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp
thu những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại góp phần xây dựng nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
* Trong lĩnh vực xã hội: Công đoàn có vai trò trong tham gia xây dựng giai cấp công nhân
vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị,
tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, có nhãn quan chính trị, thực sự là
lực lượng nòng cốt của khối liên minh công - nông - trí thức, làm nền tảng của khối đại đoàn
kết toàn dân, là cơ sở vững chắc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh
của Nhà nước.
2.2.3. Chức năng của Công đoàn Việt Nam:
Chức năng thứ nhất, đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ.
Một trong những chức năng của Công đoàn Việt Nam hiện nay là bảo vệ lợi ích hợp pháp,
chính đáng của công nhân, viên chức và lao động.
Công đoàn Việt Nam phải thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích công nhân lao động vì:
trình độ và kinh nghiệm quản lý của chính quyền các cấp còn non kém, bộ máy Nhà nước
còn quan liêu, hành chính dẫn đến một số người, một số bộ phận thờ ơ trước quyền lợi của
công nhân, viên chức và lao động, tình trạng tham ô, lãng phí, móc ngoặc, hối lộ, tham
nhũng, vi phạm đến lợi ích, đời sống người lao động vẫn còn tồn tại không thể ngay một lúc
xoá bỏ hết được. Vì vậy, Công đoàn phải là người bảo vệ lợi ích công nhân, viên chức và lao
động chống lại tệ nạn quan liêu, chống lại các biểu hiện tiêu cực. Đó là sự bảo vệ đặc biệt
khác hẳn với sự bảo vệ trong chủ nghĩa tư bản.
Công đoàn Việt Nam thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao động không bằng
cách đấu tranh chống lại Nhà nước làm suy yếu Nhà nước, không mang tính đối kháng giai
cấp, không phải là đấu tranh giai cấp. Ngược lại Công đoàn còn vận động, tổ chức cho công
nhân viên chức lao động tham gia xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh.
Đồng thời Công đoàn cũng bảo vệ chính lợi ích của Nhà nước - Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Đấu tranh chống lại các thói hư tật xấu của một số người, nhóm người lạc hậu bị tha hoá,
đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, bảo vệ chính quyền Nhà
nước.
17
Thực tế hiện nay của nước ta, trong điều kiện hàng hoá nhiều thành phần, các xí nghiệp tư
nhân, liên doanh, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công nhân, lao động làm việc trong sự
quản lý của chủ xí nghiệp (không phải xí nghiệp quốc doanh), đã xuất hiện quan hệ chủ thợ,
tình trạng vi phạm đến quyền, lợi ích công nhân lao động có xu hướng phát triển. Vì vậy,
chức năng bảo vệ lợi ích công nhân, viên chức và lao động của Công đoàn có ý nghĩa hết sức
quan trọng.
Để thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích, Công đoàn chủ động tham gia cùng chính quyền tìm
việc làm và tạo điều kiện làm việc cho công nhân, lao động; Công đoàn tham gia trong lĩnh
vực tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, trong việc ký kết hợp đồng lao động của công nhân, lao
động; đại diện công nhân, lao động ký kết thoả ước lao động tập thể; trong vấn đề thương
lượng, giải quyết tranh chấp lao động; tổ chức đình công theo Bộ luật lao động. Quản lý và
sử dụng quĩ phúc lợi tập thể và sự nghiệp phúc lợi tập thể; bảo hiểm xã hội; bảo hộ lao động;
tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của công nhân, viên chức và lao động; phát huy dân chủ,
bình đẳng, công bằng xã hội; phát triển các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, du
lịch, thăm quan nghỉ mát.
Trong quá trình thực hiện các nội dung hoạt động nhằm thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích
cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc các vấn đề cơ bản như:
Lợi ích người lao động gắn liền với lợi ích của Nhà nước, của tập thể, sự tồn tại của Nhà
nước chính là sự đảm bảo lợi ích cho người lao động. Lợi ích của người lao động không chỉ
thuần tuý ở cơm ăn, áo mặc mà cao hơn là lợi ích chính trị (đại diện là Nhà nước), lợi ích
kinh tế, lợi ích văn hoá, tinh thần, lợi ích trước mắt, hàng ngày, lâu dài, lợi ích cá nhân, tập
thể, Nhà nước.
+ Nhà nước là người bảo đảm, Công đoàn là người bảo vệ lợi ích công nhân, viên chức và lao
động. Đây là vấn đề quan trọng nói lên mối quan hệ khăng khít, biện chứng giữa nghĩa vụ và
quyền lợi. Đồng thời, nó là cơ sở nhận thức về lợi ích công nhân, viên chức và lao động trong
điều kiện mới, thể hiện đúng bản chất cách mạng của Công đoàn ViệtNam.
Chức năng thứ hai, tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra,
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế.
Trong điều kiện giai cấp công nhân giành được chính quyền người lao động trở thành người
chủ, họ có quyền và có trách nhiệm tham gia quản lý kinh tế, xã hội. Vì vậy, vấn đề tham gia
quản lý đã trở thành chức năng của Công đoàn. Tuy nhiên cần nhận thức rằng, Công đoàn
tham gia quản lý chứ không làm thay, không cản trở, không can thiệp thô bạo vào công việc
quản lý của Nhà nước. Công đoàn tham gia quản lý thực chất là để thực hiện quyền của Công
đoàn, quyền của công nhân, viên chức, lao động, và để bảo vệ đầy đủ các quyền lợi ích của
người lao động.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khi thực
hiện chức năng tham gia quản lý Công đoàn Việt Nam cần quan tâm đến việc phát triển tiềm
năng lao động, phát huy sáng kiến, cùng giám đốc, thủ trưởng đơn vị tìm nguồn vốn, thị
18
trường để mở rộng sản xuất - kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động. Kiểm tra,
giám sát hoạt động của chính quyền, chống quan liêu tham nhũng.
Những nội dung Công đoàn Việt Nam tham gia quản lý
* Tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong công nhân, viên chức và lao động là biện
pháp tổng hợp để họ trực tiếp tham gia quản lý.
* Tham gia xây dựng chiến lược tạo việc làm và điều kiện làm việc cho công nhân lao động.
* Tham gia xây dựng, hoàn thiện các chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến người lao
động như; tiền lương, tiền thưởng, nhà ở…
* Tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo của công nhân, viên chức và LĐ.
* Tham gia xây dựng, hoàn thiện các chính sách xã hội: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, phong trào đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ xã hội.
* Vận động và tổ chức tốt Đại hội công nhân viên chức, Hội nghị cán bộ công chức (đơn vị
hành chính sự nghiệp) ở đơn vị.
* Công đoàn tham gia vào việc hoạch định chiến lược sản xuất, kinh doanh và đầu tư, đồng
thời kiểm tra, giám sát các công việc đã được hoạch định.
* Tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách liên quan đến quyền, lợi và nghĩa vụ của
người lao động. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách của đơn vị.
Chức năng thứ ba, giáo dục, động viên CNVCLĐ phát huy quyền làm chủ đất nước, thực
hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Chức năng giáo dục của Công đoàn Việt Nam ngày càng mở rộng và phát triển thông qua
hoạt động thực tiễn trong lao động sản xuất và tham gia các phong trào thi đua…góp phần
cho công nhân, viên chức và lao động nhận thức và hiểu được lợi ích của họ gắn với lợi ích
tập thể, lợi ích của xã hội. Muốn có lợi ích và muốn lợi ích của mình được bảo vệ trước hết,
phải thực hiện tốt nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ của người công dân đối với cơ quan, xí nghiệp
và xã hội. Trên cơ sở đó xây dựng ý thức lao động mới, lao động có kỷ luật và có tác phong
công nghiệp. Nâng cao tinh thần tự giác học tập văn hoá, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ,
rèn luyện tay nghề để đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Công đoàn tuyên truyền, giáo dục cho công nhân, viên chức và lao động vững tin vào
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đã lựa chọn. Giáo
dục truyền thống cách mạng của dân tộc, của địa phương (nhất là đối với công nhân lao động
trẻ).
19
+ Tuyên truyền chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp,
kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, xây dựng lối sống văn hoá lành mạnh, sống và làm
việc theo pháp luật góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh. Với tinh thần thường
xuyên cảnh giác và đấu tranh chống lại những âm mưu thù địch.
Chức năng của Công đoàn là một chính thể, một hệ thống đồng bộ, trong đó chức năng bảo
vệ lợi ích hết sức được coi trọng, mang ý nghĩa trung tâm, là mục tiêu hoạt động của Công
đoàn Việt Nam; chức năng tham gia quản lý mang ý nghĩa phương tiện; chức năng giáo dục
mang ý nghĩa tạo động lực tinh thần để đạt được mục tiêu.
Liên hệ tại một doanh nghiệp cụ thể
Tình hình sản xuất kinh doanh ở một số doanh nghiệp của Tổng công ty máy động lực và
máy nông nghiệp Việt Nam không ổn định, năm 2019 số lao động đã giảm 793 người so với
năm 2018, một bộ phận người lao động làm việc không đủ tháng do tình hình tiêu thụ sản
phẩm chậm và theo thống kê từ các công đoàn cơ sở thì có đến 125 lao động thiếu việc làm
trong đó có 26 lao động nữ”. Để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trên, các cấp Công đoàn
VEAM đã vận dụng tích cực các hình thức hoạt động, lồng ghép hợp lý với điều kiện sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó truyền tải thông tin chính xác tới người lao động,
kịp thời đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc
sống của CNVV-LĐ. Đặc biệt Công đoàn các cấp của VEAM đã tổ chức 126 cuộc tuyên
truyền phổ biến chính sách pháp luật, tổ chức thi tìm hiểu chính sách pháp luật cho 7.535
người lao động. Bên cạnh đó, công đoàn các cơ sở đã vận động tạo điều kiện để người lao
động đươc tham gia các lớp đào tạo ngắn và dài hạn, quản lý nhà nước, hội thảo, tọa đàm...
Đối với công tác chăm lo đời sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho người lao
động cũng như tham gia công tác quản lý, các cấp công đoàn đã phối hợp với chuyên môn
thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.
2.3. Sự ảnh hưởng của các nhân tố đến việc thực hiện vai trò, chức năng của tổ chức đại
diện cho người lao động
2.3.1. Yếu tố môi trường quốc tế
Tổ chức lao động quốc tế - ILO
Sau 90 năm thành lập, yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng và tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra cho đất nước và
tổ chức công đoàn những thời cơ và thách thức mới.Việc thực hiện cam kết quốc tế về lao
động trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và các Công ước của Tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO) đòi hỏi Công đoàn Việt Nam phải đổi mới mạnh mẽ, toàn diện để phát
huy hết vai trò của mình. Tổ chức lao động quốc tế - ILO Việt Nam tái gia nhập tổ chức ILO
vào năm 1993, ILO cung cấp những chuẩn mực buộc nước ta phải tham khảo trong quyết
định về lao động. Với mục đích thúc đẩy các quyền trong lao động, khuyến khích các cơ hội
việc làm bền vững, tăng cường bảo trợ xã hội và thúc đẩy đối thoại về các vấn đề liên quan
đến công việc. Công đoàn Việt Nam đổi mới vì xu hướng phát triển quan hệ lao động trong
tương lai. Tổ chức công đoàn Việt Nam đang lên kế hoạch đổi mới trong những năm tới để
trở thành tổ chức đại diện thực sự cho tiếng nói của người lao động nhằm ứng phó với những
thách thức do hội nhập toàn cầu đem lại. Một số công đoàn địa phương đã thực hiện những
20
sáng kiến mới trong việc phát triển đoàn viên và thương lượng tập thể với người sử dụng lao
động theo phương pháp từ dưới lên với tinh thần lấy người lao động làm trung tâm. Đây là
điểm căn bản khác với cách làm truyền thống từ trên xuống. Phương pháp tiếp cận mới nhận
được sự ủng hộ của các đối tác quốc tế, bao gồm các Công đoàn Ngành Toàn cầu và các Tổ
chức Đoàn kết Hỗ trợ Công đoàn qua đó TLĐLĐVN tiếp tục nhân rộng những nỗ lực của
mình để đáp ứng nhu cầu của người lao động trong nền kinh tế thị trường mới.
Các công ước quốc tế
Trong thông cáo đưa ra ngày 20/11/2019, bộ Lao Động Việt Nam nhấn mạnh rằng việc cho
phép thành lập công đoàn độc lập chính là nhằm “bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động
trong quan hệ lao động, phù hợp với các Công ước của ILO, các cam kết quốc tế khác và tạo
thuận lợi trong quá trình hội nhập quốc tế”. Bộ luật Lao động sửa đổi, có hiệu lực vào năm
2021, cho phép thành lập các công đoàn độc lập, tức là không thuộc Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam, công đoàn duy nhất hiện nay. Đây được coi là một thay đổi quan trọng nhất
trong luật lao động mới.
Công ước số 98 của Tổ chức Lao động quốc tế về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ
chức và thương lượng tập thể gồm 16 điều, quy định về bảo vệ người lao động và công đoàn
trước các hành vi phân biệt đối xử chống công đoàn của người sử dụng lao động, bảo vệ tổ
chức của người lao động khi không bị can thiệp, thao túng bởi người sử dụng lao động và
những biện pháp thúc đẩy thương lượng tập thể tự nguyện, thiện chí. Để bảo đảm thực thi đầy
đủ, có hiệu quả Công ước trên thực tiễn sau khi gia nhập, Việt Nam cần xóa bỏ thực trạng
phổ biến hiện nay về việc công đoàn cơ sở bị chi phối bởi quản lý doanh nghiệp, nội luật hóa
các quy định của Công ước, rà soát, sửa đổi bổ sung pháp luật hiện hành trong nước; Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam cần nghiên sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn năm 2012 để
đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các quy định mới được sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật
lao động năm 2012. Điều này tác động đến vị trí, vai trò của tổ chức công đoàn Việt Nam.
Hiệp định Thương mại tự do
Vừa qua, Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP) với 10 quốc gia khác. Các thông tin hiện nay cho thấy, Mỹ sẵn sàng
đàm phán và tham gia trở lại hiệp định này. Một vấn đề rất quan trọng đối với tổ chức
CĐVN, đó là khi tham gia CPTPP thì chúng ta sẽ phải chấp nhận có thêm các tổ chức bảo vệ
quyền lợi của NLĐ. Hay nói nôm na là “đa CĐ”. Điều này sẽ đòi hỏi tổ chức CĐVN phải có
cạnh tranh gay gắt, hoạt động thực sự, không hình thức, khi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của CNLĐ nếu không muốn mất đoàn viên, mất vai trò của mình.
Theo dõi thời sự trong giai đoạn vừa qua, tôi thấy tổ chức CĐVN đã rất tích cực tham gia
đóng góp ý kiến tại nghị trường khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực
tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của NLĐ như Bộ Luật lao động, Luật CĐ, Luật BHXH, Luật
BHYT, Luật ATVSLĐ. Điều này đã thể hiện được vai trò bảo vệ quyền lợi của NLĐ từ xa
của tổ chức CĐ.
Đây là vấn đề mà tổ chức CĐVN cần phát huy và làm tốt hơn nữa trong gia đoạn tới. Chỉ khi
thực sự bảo vệ được quyền lợi của NLĐ thì chúng ta mới thu hút được đoàn viên vào tổ chức,
nếu không, sẽ có người khác làm thay và CNLĐ sẽ tham gia vào các tổ chức khác.
21
Tóm lại, phải đặt vấn đề về xây dựng CĐVN là tổ chức có 1 vị trí xứng đáng trong hệ thống
chính trị và thực sự là tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ là 1
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt thời gian tới.
2.3.2 Yếu tố pháp luật
Mặc dù Luật Công đoàn năm 2012 đã ghi nhận cụ thể các trường hợp tổ chức công đoàn thực
hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động và quy định này đã thể
hiện sự đa dạng và những khía cạnh cơ bản của công đoàn trong vai trò quan trọng nhất này
của mình; tuy nhiên, do sự thiếu nhất quán giữa quy định của Luật với một số văn bản pháp
luật khác nên tính khả thi của quy định này không cao. Cụ thể, về việc công đoàn tham gia
giải quyết tranh chấp lao động, Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: công đoàn "tham gia,
hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động", "tổ chức công đoàn các cấp tham gia với cơ quan quản
lý nhà nước cùng cấp và tổ chức đại diện người sử dụng lao động để trao đổi, giải quyết các
vấn đề về lao động" (Khoản 1, 4 Điều 188) và các bên có thể "trực tiếp hoặc thông qua đại
diện để tham gia vào quá trình giải quyết" tranh chấp lao động (Khoản 1 Điều 196). Như vậy,
việc tham gia của công đoàn trong các hình thức giải quyết tranh chấp lao động vừa là quyền,
vừa là trách nhiệm. Trong thực tế, quá trình tham gia cùng hòa giải viên cấp huyện giải quyết
tranh chấp, công đoàn chỉ tham gia mang tính hướng dẫn, hỗ trợ hoặc đại diện người lao
động, tức là mức độ tham gia rất ít, bởi bản thân giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành
không cao.
Bên cạnh đó, vai trò đại diện của Công đoàn trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án
mới được Bộ luật Tố tụng dân sự quy định chung chung, chưa rõ về phạm vi, tính chất các
tranh chấp cũng như mức độ đại diện với những tranh chấp tập thể. Việc công đoàn cơ sở
được giao thẩm quyền "đại diện cho tập thể người lao động khởi kiện tại toà án khi quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động bị xâm phạm; đại diện cho người lao
động khởi kiện tại toà án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động bị xâm
phạm và được người lao động uỷ quyền" cũng tạo nên những bất cập nhất định. Bởi thực tế,
việc ủy quyền không hề đơn giản, nhất là với những doanh nghiệp có số người lao động lớn,
vì theo quy định pháp luật hiện hành, người lao động muốn ủy quyền thì từng người một phải
cùng với Chủ tịch Công đoàn, UBND xã, phường hoặc Phòng công chứng làm giấy ủy
quyền. Trong khi đó, nếu có ủy quyền, tòa án sẽ phải tiến hành thụ lý cho từng vụ một, tranh
chấp sẽ không còn là tranh chấp tập thể, tức là có sự mâu thuẫn với chính các quy định pháp
luật hiện hành.
Nguyên tắc bảo đảm thực hiện hòa giải khi giải quyết tranh chấp lao động tập thể của Bộ luật
Lao động hiện hành cũng làm ảnh hưởng rất nhiều đến quyền của người lao động và vai trò
đại diện của tổ chức công đoàn.Dù pháp luật đã ghi nhận những trường hợp ngoại lệ không
cần thông qua bước hòa giải, nhưng với loại tranh chấp lao động tập thể về quyền, các bên
không có cơ hội quyết định ngay việc lựa chọn vụ việc của mình sẽ được giải quyết thông
qua hòa giải, trọng tài hoặc xét xử mà bắt buộc phải thông qua quá trình hòa giải. Đây được
xem là một bất cập lớn trong quy trình giải quyết tranh chấp, làm mất thời gian của các bên
khi phải qua nhiều bước, tổ chức đại diện của người lao động mới có thể tiến hành thủ tục lấy
ý kiến và thông báo trước để đình công.
Cũng liên quan đến vấn đề ủy quyền, với những tranh chấp dạng như liên quan đến doanh
nghiệp trốn đóng bảo hiểm xã hội, là một trong những tranh chấp theo mà quy định của Luật
22
Bảo hiểm xã hội (Điều 14) và Luật Công đoàn hiện hành, thì công đoàn cơ sở hoặc công đoàn
cấp trên trực tiếp (với những đơn vị, doanh nghiệp chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở)
có trách nhiệm đại diện cho tập thể người lao động khởi kiện ra tòa nhằm bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của người lao động. Trong khi đó, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định, tổ chức đại
diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền theo
quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là, muốn thụ lý đơn kiện của công đoàn liên quan
đến bảo hiểm xã hội thì công đoàn phải được ủy quyền. Với những bất cập của cơ chế ủy
quyền như đã nêu, đã có không ít vụ việc bị từ chối thụ lý vì lý do người khởi kiện không có
quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về chức năng tổ chức và lãnh đạo đình công của công đoàn, theo quy định của pháp luật hiện
hành, sau khi Hội đồng Trọng tài lao động cấp tỉnh ra quyết định về việc giải quyết tranh
chấp lao động tập thể mà tập thể người lao động không nhất trí với quyết định của Trọng tài
thì họ có quyền đình công. Quy trình đình công cần qua hai bước: đề nghị đình công và thông
báo về đình công. Đề nghị đình công, nếu do Ban chấp hành công đoàn cơ sở tiến hành, thì
công đoàn cơ sở phải lấy ý kiến của tập thể người lao động bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy
chữ ký để xác định số lượng người tiến hành đình công. Cần phải có quá nửa số người trong
tập thể người lao động đồng ý mới được đình công. Việc thông báo đình công bằng văn bản
được gửi cho cơ quan lao động cấp tỉnh và Liên đoàn lao động cấp tỉnh. Bản yêu cầu phải
được Ban chấp hành công đoàn cơ sở gửi cho người sử dụng lao động. Nội dung của yêu cầu
và thông báo phải thể hiện rõ nguyên nhân, yêu cầu, thời điểm đình công. Quy trình này theo
quy định hiện hành cần thời gian là 17 ngày và chỉ được phép đình công liên quan đến lợi ích
chứ không cho đình công về quyền.
Những quy định trên là thiếu thực tế, bởi với thời gian gần 3 tuần làm thủ tục để có thể tiến
hành một cuộc đình công hợp pháp thì tính thời sự của nhiều cuộc đình công đã bị ảnh
hưởng; ngược lại, nếu tổ chức đình công không đúng pháp luật thì sẽ phải bồi thường. Trong
bối cảnh chủ thể tổ chức đình công là Công đoàn cơ sở, với thành phần chủ yếu là các cán bộ
công đoàn không chuyên trách, hưởng lương như những người lao động khác trong doanh
nghiệp thì việc bồi thường là rất khó khăn. Quy định này đã ảnh hưởng đến mức độ và vai trò
tổ chức đình công của công đoàn trong thực tế. Đây cũng là một trong những lý do dẫn đến
tình trạng, trong thời gian qua, phần lớn các cuộc đình công ở Việt Nam là tự phát mà không
có sự lãnh đạo của tổ chức Công đoàn.
Theo Ban soạn thảo Bộ Luật Lao động sửa đổi, điểm mới nhất trong dự thảo luật này là lần
đầu tiên bổ sung các quy định về việc thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp
ngoài hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
Đây là nội dung mới, có nhiều sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật Lao động (sửa đổi) lần này
nhằm nội luật hóa tiêu chuẩn lao động quốc tế, thực hiện các cam kết về lao động trong các
Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia, đồng thời đáp ứng các nhu cầu phát triển
của thực tiễn quan hệ lao động Việt Nam theo hướng thị trường và hội nhập quốc tế.
Về nội dung này, dự thảo Bộ luật Lao động đã thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết
số 06-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nghị quyết số 27-NQ/TW Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, bảo đảm phù hợp với Hiến Pháp 2013.
23
Cụ thể trong dự thảo, quy định người lao động có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động
trong tổ chức đại diện của người lao động tại cơ sở. Tổ chức đại diện của người lao động tại
cơ sở thành lập và hoạt động hợp pháp sau khi gia nhập hệ thống Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký.
Vì vậy, công đoàn phải thực sự là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền lợi của NLĐ.
Cho phép người lao động thành lập các tổ chức đại diện ngoài Công đoàn
TPO - Với Bộ Luật Lao động sửa đổi năm 2019, Quốc hội đã chính thức thông qua điều
khoản cho phép người lao động (NLĐ) thành lập các tổ chức đại diện cho mình tạo
doanh nghiệp (DN) từ ngày 1/1/2021. Tổ chức này hoạt động song song và bình đẳng với
tổ chức Công đoàn và người lao động có quyền lựa chọn tham gia 1 tổ chức đại diện cho
mình.
Người lao động tại doanh nghiệp sẽ được lựa chọn tham gia Công đoàn Việt Nam hoặc thành
lập một tổ chức riêng đại diện cho mình.
Theo đó, Bộ Luật LĐ 2019 có 1 chương riêng về Tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở bên cạnh tổ
chức Công đoàn (chương 13). Chương này thay cho chương quy định về Công đoàn cơ sở
trong Bộ Luật LĐ năm 2012. Tuy nhiên, Luật mới chỉ quy định khung về tổ chức đại diện
NLĐ tại DN, thay vì quy định chi tiết như tại Dự thảo Luật đưa ra lấy ý kiến trước đó. Quy
định chi tiết sẽ do Chính phủ ban hành.
Cụ thể, theo Điều 170 của Bộ Luật: NLĐ có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công
đoàn theo quy định của Luật Công đoàn hoặc có quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt
động của tổ chức của NLĐ tại DN theo quy định của Luật này.
Các tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở và Công đoàn bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc
đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ trong quan hệ LĐ.
Tổ chức của NLĐ tại DN được thành lập và hoạt động hợp pháp sau khi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp đăng ký (Điều 172). Hoạt động đảm bảo nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp,
pháp luật và điều lệ; tự nguyện, tự quản, dân chủ, minh bạch. Nếu tổ chức này vi phạm các
quy định, hoặc DN chia tách, dừng hoạt động, giải thể, phá sản... sẽ bị thu hồi đăng ký. Tổ
chức này cũng có quyền thành lập và sau đó gia nhập Công đoàn Việt Nam.
Chính phủ quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký; thẩm quyền, thủ tục cấp đăng ký, thu
hồi đăng ký; quản lý nhà nước đối với vấn đề tài chính, tài sản của tổ chức này; chia, tách,
hợp nhất, sáp nhập, giải thể, quyền liên kết của tổ chức của NLĐ tại DN.
Tại thời điểm đăng ký, tổ chức của NLĐ tại DN phải có số lượng tối thiểu thành viên là NLĐ
làm việc tại DN theo quy định của Chính phủ (Điều 173).
Về Ban lãnh đạo, Luật quy định: Phải do các thành viên tham gia bầu lên; phải là NLĐ Việt
Nam đang làm việc tại DN; không đang trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp
hành hình phạt hoặc chưa được xóa án tích do phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các
tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, các tội xâm
phạm sở hữu theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Tổ chức của NLĐ tại DN phải có Điều lệ hoạt động, với các nội dung như: Tên, địa chỉ của tổ
chức, logo (nếu có); Tôn chỉ, mục đích và phạm vi hoạt động; Điều kiện, thủ tục gia nhập và
24
ra khỏi tổ chức của NLĐ; Cơ cấu tổ chức... Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Luật cũng quy định cụ thể một số hành vi nghiêm cấm với người sử dụng LĐ liên quan đến
thành lập, gia nhập và hoạt động của tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở (Điều 175), như: Phân
biệt đối xử giữa các tổ chức, người LĐ tham gia các tổ chức; Cản trở, gây khó khăn nhằm
làm suy yếu hoạt động của tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở...
Thành viên Ban lãnh đạo tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở được một số quyền (Điều 176), như:
Tiếp cận NLĐ và người sử dụng LĐ; Được sử dụng một phần thời gian làm việc vẫn được trả
lương để thực hiện công việc đại diện cho NLĐ... Chính phủ quy định thời gian tối thiểu
người sử dụng LĐ phải dành cho các thành viên Ban lãnh đạo tổ chức NLĐ tại cơ sở.
Quyền và nghĩa vụ của tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở (Điều 178) gồm: Tham gia thương
lượng tập thể; Đối thoại tại nơi làm việc; Giám sát thực các quyền, lợi ích của NLĐ là thành
viên tổ chức mình; Đại diện cho NLĐ trong quá trình giải quyết khiếu nại, tranh chấp lao
động cá nhân khi được người lao động ủy quyền.
Đặc biệt, tổ chức của NLĐ tại DN được tổ chức và lãnh đạo đình công theo quy định; Được
tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật của cơ quan, tổ chức đăng ký hoạt động hợp pháp tại Việt Nam...
Các quy định trên của Bộ Luật Lao động năm 2019 được Quốc hội thông qua có nhiều nội
dung thay đổi so với bản Dự thảo Luật được Bộ LĐ-TB&XH đưa ra lấy ý kiến trước đó.
Theo đó, ngoài việc Luật không qua định quá chi tiết mà trao quyền cho Chính phủ, Luật
được thông qua cũng bỏ quy định “Tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở không được là tổ chức có
mục đích chính trị”.
Với việc từ ngày 1/1/2021 Bộ Luật Lao động năm 2019 có hiệu lực, NLĐ sẽ chính thức được
thành lập các tổ chức đại diện cho mình, thay vì chỉ được lựa chọn tham gia vào tổ chức
Công đoàn như lâu nay. Đây được xem là quy định đột phá trong Bộ Luật này, và thực hiện
đúng cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định
2.3.3 Văn hóa – xã hội
Văn hóa
Trong nền kinh tế nhiều thành phần Công đoàn phát huy vai trò của mình trong việc giáo dục
công nhân, viên chức và lao động nâng cao lập trường giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, phát huy
những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu những thành tựu tiên tiến của
văn minh nhân loại góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt
Nam.
Đối tác nước ngoài (gồm cả người sử dụng lao động và người lao động) cũng thường mang
theo truyền thống của công ty, văn hóa của đất nước họ vào Việt Nam trong đó có những điều
chưa phù hợp với người lao động Việt Nam. Do đó, xuất hiện không ít những va chạm do
khác biệt văn hóa. Hiểu biết về văn hóa của đối tác để tìm kiếm sự tương đồng trong ứng xử
và góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa cũng là một yêu cầu tự nhiên với cán bộ
25
công đoàn nước ta hiện nay. Hỗ trợ pháp lý, kỹ năng thương lượng và khuyến khích họ tự
vươn lên là những việc làm cần thiết để nâng cao năng lực của cán bộ công đoàn.
Trong các doanh nghiệp, công đoàn cơ sở tổ chức nhiều loại hình văn hóa văn nghệ - thể dục
thể thao, hội thi, hội thảo đa dạng, phong phú và hấp dẫn, được đông đảo người lao động
hưởng ứng.
Xã hội
Công đoàn tham gia xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh cả về số lượng và chất lượng,
không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa
học kỹ thuật, có nhãn quan chính trị, thực sự là lực lượng nòng cốt của khối liên minh công nông - trí thức, làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ sở vững chắc đảm bảo vai
trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của Nhà nước.
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội, quan tâm, chăm lo và là chỗ dựa của người lao động.
Vì thế, công đoàn cần có những hoạt động thiết thực chăm lo đời sống vật chất, bảo vệ quyền
lợi, học tập rèn luyện nâng cao nhận thức, tinh thần tương thân tương ái, giúp nhau lúc khó
khăn ổn định cuộc sống gia đình; đồng thời công đoàn quan tâm đến đời sống văn hóa tinh
thần cho công nhân.
Về bảo hiểm xã hội, dưới góc độ pháp lý, bảo hiểm xã hội là một chế định bảo vệngười lao
động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được sự
tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm trong trường
hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình quân do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc khi chết.Bảo hiểm xã hội có ý
nghĩa rất lớn trong đời sống của người lao động. Chính vì vậy, công đoàn cơ sở với tư cách là
đại diện cho người lao động được pháp luật trao quyền: Tham gia với cơ quan nhà nước xây
dựng chính sách, pháp luật về kinh tế - xã hội, lao động, việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động và chính sách, pháp luật khác liên quan đến tổ chức công
đoàn, quyền, nghĩa vụ của người lao động. (Điều 11 Luật công đoàn)
Trong quá trình hội nhập quốc tế, doanh nghiệp và Công đoàn Việt Nam cũng phải tiếp cận
và tham gia thực thi hàng loạt vấn đề mới. Doanh nghiệp quan tâm tới năng suất lao động;
quyền và lợi ích của người lao động; những tiêu chuẩn, quy ước quốc tế, như: ISO, trách
nhiệm xã hội doanh nghiệp... Công đoàn giải quyết tốt vấn đề đồng thuận xã hội, quan hệ hai
bên, ba bên, xử lý xung đột quan hệ lao động... Tính chất quốc tế dần rõ nét qua các yêu cầu
ngày càng cao từ thị trường về quản lý, lao động, môi trường... với cả doanh nghiệp và công
đoàn. Đây cũng là một “sức ép” và cũng là sự thúc đẩy để Công đoàn nước ta vươn lên cùng
cả nước xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
2.4 Đánh giá năng lực của tổ chức đại diện cho người lao động tại Việt Nam
2.4.1 Đánh giá năng lực của cán bộ trong tổ chức đại diện cho người lao động tại Viêt
Nam
Đánh giá năng lực của cán bộ trong tổ chức đại diện người lao động – Công đoàn: Đội ngũ
cán bộ công đoàn toàn tỉnh hiện có 3.187 người đang hoạt động ở các cấp công đoàn trong
tỉnh, hầu hết có trình độ chuyên môn từ Cao đẳng trở lên (trên 90%); cán bộ công đoàn có
trình độ về lý luận chính trị (từ sơ cấp, trung cấp, cao cấp, cử nhân) đạt tỷ lệ trên 40%; cán bộ
công đoàn chuyên trách trong hệ thống công đoàn toàn tỉnh hiện nay có 58 đồng chí (trong đó
nữ 30 đồng chí), hầu hết đều có trình độ Đại học, trên Đại học (trên đại học 06; đại học 50;
cao đẳng: 01; trung cấp nghề: 01), trong đó có 50 cán bộ có trình độ chuyên ngành Đại học