Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Mức độ điều chỉnh tâm lý và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân mang hậu môn nhân tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.11 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020

MỨC ĐỘ ĐIỀU CHỈNH TÂM LÝ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN MANG HẬU MÔN NHÂN TẠO
Thái Thanh Trúc*, Lai Phú Chi*, Vũ Thị Thu Thủy**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Hậu môn nhân tạo (HMNT) ngày càng phổ biến và là phương pháp cứu sống bệnh nhân mắc các
bệnh nặng đường tiêu hóa, ví dụ ung thư. Việc mang HMNT có thể ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý. Tuy nhiên,
hiện có rất ít các nghiên cứu khảo sát mức độ điều chỉnh tâm lý ở bệnh nhân mang HMNT. Nghiên cứu này
nhằm khảo sát mức độ điều chỉnh tâm lý và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân mang HMNT.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 275 bệnh nhân
mang HMNT tại bệnh viện Đại học Y Dược Tp.HCM và bệnh viện Chợ Rẫy. Bệnh nhân được phỏng vấn bằng
bộ câu hỏi Ostomy Adjustment Inventory (OAI) đã thể hiện phù hợp ngôn ngữ và có tính tin cậy cao thông qua
nghiên cứu thử.
Kết quả: Gần 2/3 số bệnh nhân là nam; tuổi trung bình là 57,3 ± 14,6 tuổi. Có 20% bệnh nhân mang
HMNT vĩnh viễn và 80% mang HMNT tạm thời. Chỉ 1 / 3 số bệnh nhân tự chăm sóc HMNT. Điểm số thể hiện
mức độ điều chỉnh tâm lý là 43,9 ± 6,7. Nam giới và bệnh nhân có sự hỗ trợ của người khác hoàn toàn trong
chăm sóc HMNT có mức độ điều chỉnh tâm lý tốt hơn.
Kết luận: Bệnh nhân mang HMNT có khả năng điều chỉnh tâm lý ở mức trung bình. Kết quả cho thấy cần
có các chương trình hỗ trợ người mang HMNT để bệnh nhân ổn định tâm lý, nâng cao sức khỏe tâm thần. Điều
này có thể giúp bệnh nhân có được điều trị tốt nhất và chất lượng cuộc sống cao hơn.
Từ khóa: hậu môn nhân tạo, điều chỉnh tâm lý, yếu tố liên quan

ABSTRACT
PSYCHOLOGICAL ADJUSTMENT AND RELATED FACTORS IN PATIENTS WITH OSTOMY
Thai Thanh Truc, Lai Phu Chi, Vu Thi Thu Thuy
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 121 - 127
Objectives: Ostomy has become a common technique and is a life-saving method for patients with severe


colorectal diseases such as colorectal cancer. Patients with ostomy can have psychological disorders. However,
study investigating psychological adjustment in this population is scarced. Our study was to estimate the level of
psychological adjustment and its correlates in patients with ostomy.
Methods: A cross-sectional study was conducted in 275 patients with ostomy at University Medical Center
and Cho Ray Hospital. Patients were interviewed using the Ostomy Adjustment Inventory (OAI) which had
language compatible to Vietnamese and high level of reliability through our pilot study.
Results: Nearly two thirds of patients were male; average age was 57.3 ± 14.6 years old. About 20% of
patients had permanent ostomy and 80% had temporary ostomy. Only one third of patients could take care of
their own ostomy. The score of psychological adjustment was 43.9 ± 6.7. Male patients who had all support from
others to take care of the ostomy had higher level of psychological adjustment.
Conclusion: Patients with ostomy had moderate level of psychological adjustment. The results indicated a
need for supporting programs for patients with ostomy so that patients can have better mental health. This can
help patients to have optimal treatment and quality of life.
*Khoa Y tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
**BV Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Thái Thanh Trúc
ĐT: 0908381266
Email:

121


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020

Nghiên cứu Y học

Keywords: ostomy, psychological adjustment, related factors
lý dường như không được quan tâm. Những
ĐẶT VẤN ĐỀ
vấn đề tâm lý được chứng minh thường gặp

Hiện nay, hậu môn nhân tạo (HMNT) ngày
phải ở trên bệnh nhân mang HMNT là 36% bệnh
càng phổ biến và là phương pháp cứu sống bệnh
nhân có căng thẳng, 44% bệnh nhân cảm thấy
nhân mắc các bệnh nặng đường tiêu hóa như
tức giận và phát cấu tăng lên kể từ khi phẫu
ung thư đại trực tràng giai đoạn trễ không còn
thuật và 10% cần tư vấn tâm thần. Ngoài ra, kể
khả năng cắt bỏ(1), viêm loét đại tràng, bệnh
từ khi phẫu thuật tạo HMNT có 36,1% bệnh
Crohn, bệnh đa polyp đại trực tràng(2), chấn
nhân sợ hãi trước phản ứng của xã hội và 94,4%
thương, dị tật bẩm sinh, tắc ruột(3). Trong đó ung
các hoạt động xã hội giảm đáng kể. Bên cạnh đó,
thư đại trực tràng và bệnh viêm ruột là nguyên
có 27,1% bệnh nhân xác nhận rằng phẫu thuật
nhân thường gặp nhất dẫn đến bệnh nhân mang
tạo HMNT can thiệp vào đời sống tình dục và
HMNT(4). Ung thư đại trực tràng là một trong
hôn nhân của họ.
bốn loại ung thư đứng đầu thế giới hiện nay với
ước tính 1.849.600 ca mắc mới trên toàn thế giới
vào năm 2018. Gần 80% số ca mắc mới và tử
vong do ung thư đại trực tràng tập trung chủ
yếu ở Châu Á và Châu Âu(5). Tại Việt Nam, năm
2018 ước tính có khoảng 14.733 ca mắc mới và
7.856 ca tử vong do ung thư đại trực tràng(6). Sự
gia tăng nhanh chóng của các bệnh ung thư đại
trực tràng, các bệnh đường ruột kèm theo tỷ lệ
sống sót sau 5 năm của bệnh nhân ung thư ngày

càng cao dẫn đến hệ quả đó là bệnh nhân mang
HMNT ngày càng gia tăng.
Hậu môn nhân tạo là lỗ mở chủ động ở đại
tràng hoặc hồi tràng ra da để đưa toàn bộ phân
ra ngoài thay thế hậu môn thật. Người bệnh có
thể mang HMNT tạm thời từ vài tuần đến vài
tháng sau đó đóng lại nhưng cũng có những
bệnh nhân phải mang HMNT vĩnh viễn suốt
đời. Do đó, khi một bệnh nhân mang HMNT sẽ
gặp nhiều rắc rối như sự thay đổi về ngoại hình,
thoát khí, mùi không kiểm soát và cách chăm
sóc, rối loạn chức năng tình dục và các hoạt
động xã hội. Những sự thay đổi đó có thể làm
cho họ cảm thấy tự ti, mặc cảm, xa lánh với mọi
người, tự cô lập bản thân và chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân bị giảm sút, ảnh hưởng tới
chức năng nghề nghiệp, các hoạt động xã hội.
Các hậu quả này đặc biệt nghiêm trọng nếu như
bệnh nhân không có khả năng điều chỉnh tâm lý
phù hợp.
Điều này có nghĩa là mặc dù bệnh nhân đã
phục hồi về thể chất nhưng sự cải thiện về tâm

122

Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
với mục mục tiêu khảo sát mức độ điều chỉnh
tâm lý của bệnh nhân mang HMNT và xác định
các yếu tố có liên quan đến mức độ điều chỉnh
tâm lý của bệnh nhân.


ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả những bệnh nhân trên 18 tuổi đến
khám tại tại bệnh viện Đại học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh và bệnh viện Chợ Rẫy từ
01/2019 đến 06/2019.

Tiêu chuẩn chọn
Bệnh nhân (BN) trên 18 tuổi.
Đã được phẫu thuật làm hậu môn nhân tạo
trên 1 tháng.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những bệnh nhân có các vấn để ảnh hưởng
đến việc trả lời phỏng vấn như sức khỏe quá
yếu, không thể giao tiếp bằng tiếng Việt, có các
vấn đề sức khỏe tâm thần.
Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu
Trong khoảng thời gian nghiên cứu, chúng
tôi chọn được tổng cộng 275 bệnh nhân thỏa tiêu
chí, trong đó 165 bệnh nhân từ bệnh viện Đại
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh và 110 bệnh nhân
từ bệnh viện Chợ Rẫy.


Nghiên cứu Y học

Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện, trong đó nghiên cứu
viên có mặt tại phòng khám ngoại khoa tiêu hóa
và khoa ngoại tiêu hóa để tuyển bệnh nhân theo
tuần tự. Sau khi được giải thích về nghiên cứu
và đồng ý tham gia nghiên cứu bằng cách ký tên
vào bảng đồng thuận thì nghiên cứu viên phỏng
vấn trực tiếp bệnh nhân để điền vào bộ câu hỏi
soạn sẵn. Thông tin của bệnh nhân về việc điều
trị cũng được xin phép trích xuất từ bệnh án
điều trị để đưa vào nghiên cứu.
Công cụ thu thập số liệu
Bộ câu hỏi dùng để phỏng vấn trực tiếp bao
gồm các thông tin về đặc điểm dân số xã hội, về
bệnh lý và thang đo đánh giá mức độ điều chỉnh
tâm lý. Thang đo Ostomy Adjustment Inventory
được Simmons phát triển để khảo sát mức độ
điều chỉnh tâm lý của bệnh nhân mang hậu môn
nhân tạo(7). Thang đo này đã được dịch và
chuẩn hóa ra nhiều ngôn ngữ và được dùng
trong nhiều nghiên cứu khác tương tự trên thế
giới. Thang đo gồm 23 câu nhưng trong quá
trình đánh giá tính tin cậy và tính giá trị của
thang đo thì giá trị của các câu 16, 18, 22 bị triệt
tiêu. Do đó, thang đo gồm 20 câu và đánh giá 4
khía cạnh của việc điều chỉnh tâm lý bao gồm sự
chấp nhận, sự lo lắng, hòa nhập xã hội và sự
giận dữ. Điểm chung của thang đo là điểm tổng
của các câu sau khi đã nghịch đảo các câu 1, 3, 4,
6, 9, 14, 15, 17 và 20. Điểm OAI cao hơn thể hiện

mức độ điều chỉnh tâm lý tốt hơn.
Trong nghiên cứu này thang đo OAI được
dịch sang Tiếng Việt bởi các chuyên gia có kinh
nghiệm làm việc và nghiên cứu về HMNT tại
bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Sau
đó thang đo được dịch lại sang Tiếng Anh bởi
hai chuyên gia độc lập. Cuối cùng thang đo
được so sánh với phiên bản gốc để đánh giá sự
khác biệt trong chuyển ngữ. Trước khi tiến hành
nghiên cứu chính trên bệnh nhân mang HMNT
tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
và bệnh viện Chợ Rẫy, nhóm nghiên cứu đã tiến
hành nghiên cứu thử. Kết quả nghiên cứu thử

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
cho thấy thang đo phù hợp về ngữ nghĩa và có
độ tin cậy cao.
Phân tích số liệu
Chúng tôi sử dụng tần số và tỉ lệ phần trăm
để mô tả các đặc điểm của bệnh nhân như đặc
điểm dân số xã hội, đặc điểm bệnh lý.
Trung bình và độ lệch chuẩn dùng để mô tả
điểm số của thang đo OAI và các thành phần.
Để khảo sát mức độ điều chỉnh tâm lý theo
các đặc điểm của bệnh nhân thì chúng tôi sử
dụng phép kiểm t hoặc phép kiểm ANOVA.
Giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.
Tất cả các kỹ thuật thống kê được thực hiện
trên phần mềm Stata phiên bản 15.


Y đức
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng
Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y
Dược TP. Hồ Chí Minh số: 146/ĐHYD-HĐĐĐ
ngày 02/4/2019.

KẾT QUẢ
Trong tổng số 275 bệnh nhân tham gia vào
nghiên cứu thì tuổi trung bình là 57,3 ± 14,6 tuổi,
trong đó bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 22 tuổi và
lớn tuổi nhất là 90 tuổi. Gần 2/3 số bệnh nhân là
nam giới; hầu hết là dân tộc kinh (94,9%). Đa số
bệnh nhân không theo một tôn giáo nào (73,1%),
đã kết hôn (62,2%), có trình độ học vấn cấp 2
hoặc 3 (58,9%) (Bảng 1).
Bảng 1 cũng cho thấy đặc điểm sức khỏe và
bệnh lý của bệnh nhân tham gia nghiên cứu.
Gần 1/3 bệnh nhân có chỉ số khối cơ thể ở mức
thiếu cân và gầy. Gần 3/4 bệnh nhân được làm
hậu môn nhân tạo từ vị trí đại tràng. Về phân
loại hậu môn nhân tạo thì có khoảng 20% số
bệnh nhân mang hậu môn nhân tạo vĩnh viễn
(suốt đời) và chỉ có hơn 30% có thể tự chăm
sóc hậu môn nhân tạo trong khi phần lớn vẫn
phải có sự hỗ trợ từ người khác trong chăm sóc
hậu môn nhân tạo. Hầu hết bệnh nhân nhận
được hỗ trợ từ nhân viên y tế (89,8%) hoặc
người thân (90,9%).

123



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân mang hậu môn nhân
tạo tham gia vào nghiên cứu
Đặc điểm
Tần số
Tỉ lệ %
Phân nhóm tuổi (năm)
<40
35
12,7
40-49
40
14,5
50-59
70
25,5
60-69
76
27,6
70+
54
19,6
Giới
Nam
174
63,3
Nữ
101

36,7
Dân tộc
Kinh
261
94,9
Khác
14
5,1
Tôn giáo

74
26,9
Không
201
73,1
Tình trạng hôn nhân
Độc thân
20
7,3
Đã kết hôn
171
62,2
Ly dị, ly thân, góa
84
30,5
Trình độ học vấn
≤Cấp 1
53
19,3
Cấp 2 - 3

162
58,9
>Cấp 3
60
21,8
Tình trạng kinh tế
Không hài lòng
27
9,8
Bình thường
202
73,5
Hài lòng
46
16,7
Phân nhóm chỉ số khối cơ thể
Thiếu cân/gầy
85
30,9
Bình thường
143
52,0
Thừa cân / béo phì
47
17,1
Vị trí hậu môn nhân tạo
Đại tràng
196
71,3
Hồi tràng

79
28,7
Loại hậu môn nhân tạo
Vĩnh viễn
55
20,0
Tạm thời
220
80,0
Thời gian sống cùng hậu môn nhân tạo (tháng)
>1 - 3
121
44,0
>3 - 6
65
23,6
>6 - 9
38
13,8
>9
51
18,5
Người chăm sóc hậu môn nhân tạo
Bản thân
93
33,8
Người khác
44
16,0
Cả hai

138
50,2
Được hỗ trợ từ người thân

250
90,9

124

Nghiên cứu Y học
Đặc điểm
Tần số
Không
25
Được hỗ trợ từ nhân viên y tế

247
Không
28
Biến chứng hậu môn nhân tạo

55
Không
220
Bệnh khác đi kèm

138
Không
137


Tỉ lệ %
9,1
89,8
10,2
20,0
80,0
50,2
49,8

Bảng 2 thể hiện điểm số trung bình của
thang đo OAI thể hiện mức độ điều chỉnh tâm
lý của bệnh nhân mang hậu môn nhân tạo
tham gia vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy
điểm trung bình chung của thang đo là
43,9±6,7 điểm trên ngưỡng lý thuyết có thể có
của điểm số này là 0–80 điểm.
Bảng 2: Mức độ điều chỉnh tâm lý ở bệnh nhân mang
hậu môn nhân tạo
Đặc điểm
Chấp nhận
Lo lắng
Hòa nhập
Giận dữ
Điều chỉnh về tâm lý

Trung bình
21,2
10,3
7,6
4,7

43,9

Độ lệch chuẩn
4,1
2,3
2,2
1,4
6,7

Trong số các yếu tố dân số xã hội thì chỉ có
giới có liên quan có ý nghĩa thống kê với mức độ
điều chỉnh tâm lý của bệnh nhân mang hậu môn
nhân tạo trong đó nam có điểm cao hơn so với
nữ (p <0,001). Điểm số thể hiện mức độ điều
chỉnh tâm lý là như nhau ở bệnh nhân bất kể
tuổi, dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, trình
độ học vấn và tình trạng kinh tế (Bảng 3).
Bảng 3: Mối liên quan giữa đặc điểm dân số xã hội
với mức độ điều chỉnh tâm lý ở BN mang HMNT
Đặc điểm

<40
40-49
50-59
60-69
70+
Nam
Nữ

Điều chỉnh về tâm lý

Trung bình Độ lệch chuẩn
p
Phân nhóm tuổi (năm)
45,6
6,0
0,206
42,8
8,2
43,5
8,1
44,2
6,3
43,9
3,7
Giới
45,2
6,6
<0,001
41,8
6,4


Nghiên cứu Y học
Điều chỉnh về tâm lý
Trung bình Độ lệch chuẩn
p
Dân tộc
Kinh
43,9
6,6

0,488
Khác
45,1
8,3
Tôn giáo

44,7
8,3
0,239
Không
43,6
6,0
Tình trạng hôn nhân
Độc thân
45,1
7,7
0,088
Đã kết hôn
44,3
7,5
Ly dị, ly thân, góa
42,9
4,2
Trình độ học vấn
≤Cấp 1
43,5
9,6
0,690
Cấp 2 - 3
44,0

6,1
>Cấp 3
44,3
5,1
Tình trạng kinh tế
Không hài lòng
41,1
9,1
0,100
Bình thường
44,0
6,0
Hài lòng
45,5
7,5
Đặc điểm

Bảng 4 thể hiện mối liên quan giữa các đặc
điểm về sức khỏe và bệnh lý với điểm số OAI
thể hiện mức độ điều chỉnh tâm lý. Kết quả cho
thấy bệnh nhân có hậu môn nhân tạo được
người khác chăm sóc hậu môn nhân tạo cho
mình hoàn toàn thì có điểm số mức độ điều
chỉnh tâm lý cao nhất (p=0,004), cao hơn nhóm
phải cần có trợ giúp của người khác. Ngoài ra,
bệnh nhân không có biến chứng hậu môn nhân
tạo cũng có điểm số điều chỉnh tâm lý cao hơn
bệnh nhân có biến chứng (p=0,024). Tuy nhiên,
không có khác biệt về điểm số OAI phân theo
chỉ số khối cơ thể, loại hậu môn (vĩnh viễn hay

tạm thời), vị trí hậu môn nhân tạo (đại tràng hay
hồi tràng), bệnh đi kèm.
Bảng 4: Mối liên quan giữa đặc điểm sức khỏe và
bệnh lý với mức độ điều chỉnh tâm lý ở bệnh nhân
mang hậu môn nhân tạo
Điều chỉnh về tâm lý
Trung bình Độ lệch chuẩn
p
Phân nhóm chỉ số khối cơ thể
Thiếu cân/gầy
43,1
7,1
0,415
Bình thường
44,3
6,7
Thừa cân / béo phì
44,2
5,8
Vị trí hậu môn nhân tạo
Đại tràng
44,4
6,4
0,089
Hồi tràng
42,8
7,4
Loại hậu môn nhân tạo
Đặc điểm


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Điều chỉnh về tâm lý
Trung bình Độ lệch chuẩn
p
Vĩnh viễn
43,8
4,2
0,854
Tạm thời
44,0
7,2
Thời gian sống chung với hậu môn nhân tạo (tháng)
>1 - 3
45,0
7,0
0,061
>3 - 6
42,4
6,0
>6 - 9
43,9
7,1
>9
43,3
6,2
Người chăm sóc hậu môn nhân tạo
Bản thân
44,0
6,9
0,004

Người khác
46,3
8,8
Cả hai
43,1
5,6
Được hỗ trợ từ người thân

44,0
6,5
0,568
Không
43,2
8,9
Được hỗ trợ từ nhân viên y tế

44,1
6,0
0,341
Không
42,8
11,4
Biến chứng hậu môn nhân tạo

42,3
5,4
0,024
Không
44,3
6,9

Bệnh khác đi kèm

43,5
6,0
0,269
Không
44,4
7,3
Đặc điểm

BÀN LUẬN
Mức độ điều chỉnh tâm lý của bệnh nhân mang
HMNT
Nghiên cứu cho thấy điểm trung bình điều
chỉnh tâm lý xã hội của bệnh nhân là 43,9 ± 6,7
điểm, cho thấy mức độ điều chỉnh tâm lý xã
hội của bệnh nhân ở mức trung bình. Kết quả
này tương đồng với các nghiên cứu tại Trung
Quốc của Cheng F (2013)(8) là 49,8 ± 12,5 và
nghiên cứu tại Nepal của Gautam S (2016)(9) là
41,5 ± 13,5, cho thấy mức độ điều chỉnh tâm lý
xã hội cũng ở mức độ điều chỉnh trung bình.
Ngược lại, các nghiên cứu của Piwonka MA(10)
và Haugen V(11) báo cáo rằng điều chỉnh tâm lý
xã hội của bệnh nhân trong nghiên cứu của họ
là rất tốt. Có sự khác biệt này một phần là do
bộ công cụ đo lường khác nhau và thời gian
khác nhau nhưng cũng có thể do bối cảnh khác
nhau trong khi các vấn đề liên quan đến tâm
lý, tâm thần thường bị ảnh hưởng bởi văn hóa

của bối cảnh đó. Vì vậy, khái niệm điều chỉnh
tâm lý xã hội của mỗi nơi có thể khác nhau.

125


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mức độ
điều chỉnh tâm lý xã hội của bệnh nhân mang
HMNT bị suy giảm vừa phải. Cụ thể, phần lớn
bệnh nhân gặp khó khăn trong lúc ngủ, tắm và
chế độ ăn của mình không còn như trước khi
phẫu thuật. Ngoài ra, đa số bệnh nhân trong
nghiên cứu luôn luôn biết về việc HMNT bị rò
rỉ, có mùi hoặc nghe tiếng động do HMNT của
mình tạo ra. Kết quả này cũng phù hợp với
nghiên cứu của Haugen V(11) và Li C(12). Mặt
khác, bệnh nhân còn gặp khó khăn khi tham
gia các hoạt động khi mang HMNT như du
lịch, hoạt động thể dục, thể thao và họ miễn
cưỡng khi hòa nhập với xã hội bằng cách
không tham gia các hoạt động, không muốn ra
khỏi nhà, trốn tránh tất cả mọi người. Hơn
nữa, một số bệnh nhân bày tỏ sự bất tiện và
khó khăn trong khi thực hiện các nghi thức về
tôn giáo như cúng viếng và hành lễ. Nghiên
cứu của Gautam S(13) cũng hỗ trợ cho phát hiện
này bởi vì trong nghiên cứu của Gautam S
thực hiện tại Nepal, là quốc gia đa số người
dân theo đạo Hồi. Do đó, bệnh nhân rất quan

tâm đến ngoại hình, khi mang HMNT thì họ
cho rằng cơ thể mình không còn trong sạch khi
tham gia các nghi thức tại nhà thờ và sẽ ảnh
hưởng đến giá trị văn hóa của dân tộc.
Ngược lại, một số bệnh nhận đã chấp nhận
HMNT như một phần cơ thể của mình, cảm thấy
cuộc sống của họ còn có ý nghĩa, bổ ích và cảm
thấy rằng HMNT đã mang lại cho họ một cuộc
sống mới. Thực tế cho thấy đa số các trường hợp
phải làm HMNT là do bị ung thư. Cho nên bất
kỳ giải pháp nào để giải quyết vấn đề ung thư,
kể cả dùng HMNT, cũng có thể giúp bệnh nhân
cảm thấy dễ chịu hơn.
Các yếu tố liên quan với mức độ điều chỉnh
tâm lý ở bệnh nhân mang HMNT
Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa giới
tính đến mức độ điều chỉnh tâm lý xã hội của
bệnh nhân mang HMNT. Kết quả cho thấy cả
nam và nữ đều bị suy yếu trong quá trình điều
chỉnh tâm xã hội. Tuy nhiên, nữ giới có điểm
điều chỉnh tâm lý thấp hơn nam giới. Trái ngược

126

Nghiên cứu Y học
với nghiên cứu của chúng tôi, trong nghiên cứu
của Sital và cộng sự thì nam giới lại có mức độ
điều chỉnh tâm lý thấp hơn nữ giới. Có sự khác
biệt này có thể do nam giới ở Nepal hầu như
không chấp nhận được sự thay đổi do HMNT

mang lại và phần lớn họ cảm thấy mình mất
kiểm soát cuộc sống, cảm thấy khó chịu khi hòa
nhập với xã hội và họ luôn để ý đến mùi, tiếng
động của HMNT gây ra(9). Thế nhưng nghiên
cứu của chúng tôi lại cho thấy bệnh nhân ở bất
kì độ tuổi nào, dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn
nhân, tình trạng kinh tế, trình độ học vấn đề có
mức độ điều chỉnh tâm lý là như nhau.
Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có hậu môn
nhân tạo được người khác chăm sóc hậu môn
nhân tạo cho mình hoàn toàn thì có mức độ điều
chỉnh tâm lý tốt nhất. Kết quả này khác với
nghiên cứu của Poudel D (2016) tại Nepal(13), khi
cho thấy có mối liên quan giữa khả năng tự
chăm sóc bản thân bệnh nhân. Cụ thể bệnh nhân
tự chăm sóc HMNT có điểm điều chỉnh tâm lý
cao hơn bệnh nhân cần sự giúp đỡ của người
khác. Ngoài ra, một nghiên cứu khác của Cheng
F cũng cho thấy ở bệnh nhân không phụ thuộc
vào người khác thì có điểm điều chỉnh tâm lý xã
hội cao hơn so với những bệnh nhân nhận được
sự trợ giúp(8). Bên cạnh đó, nghiên cứu còn tìm
thấy ở những bệnh nhân không có biến chứng
HMNT có điểm điều chỉnh tâm lý cao hơn bệnh
nhân có biến chứng. Trong khi đó nhiều nghiên
cứu Gautam S lại không tìm thấy mối liên quan
này. Ngoài ra lại có sự tương đồng khi các
nghiên cứu không có sự khác biệt về điểm số
điều chỉnh tâm lý theo chỉ số khối cơ thể, loại
hậu môn, bệnh đi kèm.

Về tính ứng dụng thì đây là nghiên cứu đầu
tiên đánh giá về mức độ điều chỉnh tâm lý tại
bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh và
bệnh viện Chợ Rẫy cũng như là một trong số ít
các nghiên cứu về điều chỉnh tâm lý thực hiện
trên bệnh nhân mang HMNT tại Việt Nam và
trên thế giới. Kết quả của nghiên cứu cung cấp
cho biết mức độ sự điều chỉnh tâm lý ở bệnh
nhân. Nghiên cứu có thể làm tiền đề cho những


Nghiên cứu Y học
nghiên cứu sâu hơn và quy mô rộng hơn trên
bệnh nhân có HMNT sử dụng thang đo OAI.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng có một số hạn
chế nhất định. Việc thực hiện chọn mẫu thuận
tiện có thể ảnh hưởng đến khả năng khái quát
hóa kết quả. Thiết kế nghiên cứu cắt ngang nên
chỉ phản ánh được tình trạng mức độ điều chỉnh
tâm lý của bệnh nhân mang HMNT tại thời
điểm nghiên cứu và không phân tích được mối
liên hệ nhân quả giữa các yếu tố liên quan đến
sự điều chỉnh tâm lý. Ngoài ra, nghiên cứu chưa
đi sâu vào phân tích được hiệu quả của tự chăm
sóc bản thân và tác động của sự thay đổi ngoại
hình đến tâm lý của bệnh nhân mang HMNT.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020

5.


6.

7.

8.

KẾT LUẬN
Bệnh nhân mang HMNT có khả năng điều
chỉnh tâm lý ở mức trung bình, trong đó bệnh
nhân nam, có người giúp chăm sóc HMNT hoàn
toàn có mức độ điều chỉnh tâm lý tốt hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

United Ostomy Asociations of American (2017). Colostomy
Guide.
URL:
/>United Ostomy Association of American (2017). Ileostomy
Guide.
URL:
/>American Cancer Society (2017). Types of Clostomies and
Pouching Systems. Accessed on 22 Nov 2018; Available from:

/>Mohammed IMI, Haggstrom DA, Maggard-Gibbons MA, et al
(2018). Patients With Temporary Ostomies: Veterans
Administration Hospitals Multi-institutional Retrospective

9.

10.

11.

12.

13.

Study. Journal of Wound Ostomy & Continence Nursing, 45(6):510515.
World Health Organization (2018). GLOBOCAN 2018:
Estimated Cancer Incidence, Mortality and Prevalence
Worldwide in 2018. International Agency for Research on
Cancer 2018 Accessed on 25 Oct 2018; Available from:
/>World Health Organization (2018). GLOBOCAN 2018:
Estimated Cancer Incidence, Mortality and Prevalence Viet
Nam in 2018. International Agency for Research on Cancer 2018
Accessed
on
25
Oct
2018;
Available
from:
/>Simmons KL, Smith JA, Maekawa A (2009). Development and

psychometric evaluation of the Ostomy Adjustment Inventory23. J Wound Ostomy Continence Nurs, 36(1): 69-76.
Cheng F, Meng AF, Yang LF, Zhang YN (2013). The correlation
between ostomy knowledge and self-care ability with
psychosocial adjustment in Chinese patients with a permanent
colostomy: a descriptive study. Ostomy Wound Manage, 59(7): 358.
Gautam S, Poudel A (2016). Effect of gender on psychosocial
adjustment of colorectal cancer survivors with ostomy. J
Gastrointest Oncol, 7(6):938-945.
Piwonka MA, Merino JM (1999). A multidimensional modeling
of predictors influencing the adjustment to a colostomy. J
Wound Ostomy Continence Nurs, 26(6): 298-305.
Haugen V, Bliss DZ, Savik K (2006). Perioperative factors that
affect long-term adjustment to an incontinent ostomy. J Wound
Ostomy Continence Nurs, 33(5):525-35.
Li C, Rew L, Hwang SL (2012). The relationship between
spiritual well-being and psychosocial adjustment in Taiwanese
patients with colorectal cancer and a colostomy. J Wound Ostomy
Continence Nurs, 39(2):161-9; quiz 170-1.
Gautam S, Koirala S, Poudel A, Paudel D (2016). Psychosocial
adjustment among patients with ostomy: a survey in stoma
clinics, Nepal. Dovepress, 6:13-21.

Ngày nhận bài báo:

02/12/2019

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

10/12/2019


Ngày bài báo được đăng:

10/03/2020

127



×