MỞ ĐẦU
Nêu như kêt hôn là điểm khởi đầu để xác lập mối quan hệ vợ chồng thì
ly hôn có thể coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hệ này thực sự tan ra ,
đời sống vợ chồng chung không như mong ước của mỗi bên. Khi đời sống
hôn nhân không thể duy trì được nữa thì ly hôn là một giải pháp cần thiêt
cho cả đôi bên vợ chồng cũng như cho xa hội. Ly hôn giải phóng cho các
cặp vợ chồng và những thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu
thuẫn, bê tắc trong cuộc sống . Để có thể hiểu rõ hơn vấn đề này, em chọn
phân tích đề tài : “Phân tích và đánh giá các căn cứ ly hôn theo các trường
hợp ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014” cho bài tập học kì .
NỘI DUNG
I.Một số khái niệm pháp lý về ly hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình
2014
1. Cơ sở lý luận
Gia đình là tê bào của xa hội, gia đình được xây dựng dựa trên quan
hệ huyêt thống, nuôi dưỡng và hôn nhân. Quan hệ hôn nhân với đặc điểm
tồn tại lâu dài, bền vững cho đên suốt cuộc đời con người vì nó được xác lập
trên cơ sở tình yêu thương, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc
sống vợ chồng, vì những lý do nào đó có thể dẫn tới giữa vợ chồng có mâu
thuẫn sâu sắc đên mức họ không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn
được đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi
mâu thuẫn gia đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể
thiêu được khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng
đa thực sự rạn nứt tới mức không thể hàn gắn, cứu van được nữa.
Từ đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 định nghĩa: “Ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án” (Khoản 14 Điều 3).
2.Khái niệm căn cứ ly hôn.
Căn cứ li hôn là những tình tiêt, điều kiện do pháp luật quy định mà khi
có những tình tiêt, điều kiện đó thì Tòa án mới ra quyêt định công nhận
thuận tình ly hôn hoặc ra bản án ly hôn .
II.Căn cứ ly hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2014
1.Căn cứ thuận tình ly hôn
Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định :
“ Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên
thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi
chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu
không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi
chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.”
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì trong trường hợp
hai vợ chồng có yêu cầu thuận tình ly hôn, đầu tiên là Vợ chồng cùng thể
hiện ý chí cùng mong muốn ly hôn tiếp theo là sự thể hiện ý chí phải thống
nhất với ý chí của hai bên vợ chồng .Sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu
cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyêt định việc chấm dứt hôn nhân.
Bảo đảm“thật sự tự nguyện ly hôn” là cả hai vợ chồng đều được tự do bày
tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình
ly hôn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn của hai vợ chồng đều
phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình họ, phù hợp với yêu cầu của
pháp luật và chuẩn mực, đạo đức xa hội.
Cũng trong Điều 55, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong việc
thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ
chồng, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản,
việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo
quyền lợi chính đáng của vợ và con, nêu vợ chồng không thoả thuận được
hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng
của vợ và con thì Toà án quyêt định giải quyêt việc ly hôn.
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn phải
tiên hành hoà giải, mục đích là để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn và đoàn
tụ với nhau. Việc cho ly hôn trong trường hợp thuận tình này đối với Tòa án
là không phải dễ, bởi vì khó có thể định lượng khi chỉ dựa trên yêu tố thỏa
thuận tự nguyện thật sự của hai vợ chồng nêu không xem xét đên các yêu tố
tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đên đâu, mức độ ảnh hưởng đên cuộc sống
hôn nhân đên cấp độ nào và gắn với việc thỏa thuận của họ đên đâu về việc
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn. Thực tê, nguyên nhân
phát sinh tranh chấp trong cuộc sống vợ chồng dẫn đên ly hôn hay thuận
tình ly hôn cũng là do tình cảm của vợ chồng bị rạn nứt, một trong hai bên
đa không làm tròn nghĩa vụ của mình với gia đình hay vì tự ái cá nhân hoặc
hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng mình nên đa quyêt định yêu cầu
Tòa án giải quyêt cho họ được ly hôn. Nhưng khi có sự giải thích, phân tích
đúng, sai trong quan hệ của họ của người làm công tác hòa giải để khuyên
họ nên bỏ qua những lầm lỗi, tha thứ cho nhau để quay lại chung sống với
nhau thì họ đa hiểu ra và quay lại đoàn tụ chung sống với nhau và Tòa án
cũng không phải giải quyêt về các vấn đề kéo theo như con và tài sản
2.Căn cứ ly hôn theo yêu cầu của một bên
Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ
chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được
chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành
thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi
bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng
làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích
yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51
của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng,
vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của người kia.”
2.1. Vợ chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng .
Khi giả quyêt ly hôn theo yêu cầu của một bên, để xem xét toàn diện quan
hệ vợ chồng, Tòa án không chỉ xem xét tình trạng khách quan của quan hệ
hôn nhân mà còn xem xét nguyên nhân dẫn đên tình trạng đó . Khoản 1 điều
56 Luật hôn nhân & Gia đình 2014 quy định về căn cứ li hôn theo yêu cầu
một bên bao gồm Hành vi bạo lực của vợ, chồng và hành vi vi phạm nghiêm
trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
Luật hiện hành quy định rất rõ “bạo lực gia đình” là căn cứ để giải quyêt
cho ly hôn. Bởi qua tổng kêt thực tiễn giải quyêt các án kiện ly hôn của Toà
án cho thấy số vụ ly hôn có hành vi ngược đai, đánh đập chiêm tỉ lệ cao nhất
trong các nguyên nhân dẫn đên ly hôn ở nước ta trong đó thì đa phần phụ nữ
là nạn nhân của tình trạng này. Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng
gia tăng và thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó. Tình trạng bạo lực trong
gia đình xảy ra do nhiều lý do khác nhau. Có trường hợp do cuộc sống vật
chất quá khó khăn. Có trường hợp do ghen tuông, nghi ngờ một bên ngoại
tình nên đa đánh đập nhau. Tệ cờ bạc, nghiện ngập cũng là lý do dẫn đên
tình trạng vợ chồng đánh đập, ngược đai nhau. Đa phần bạo lực trong gia
đình dẫn đên tình trạng vợ chồng ly hôn, có trường hợp dẫn đên án mạng.
Bên cạnh đó, đối với những vi phạm khác, những mâu thuẫn, xung đột, bất
đồng trong đời sống vợ chồng... là lý do để ly hôn thì luật cũng quy định rõ
ràng phải có cơ sở nhận định chung rằng tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì mới giải
quyêt cho ly hôn.
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 từ Điều 17 đên Điều 50 ghi nhận quyền
và nghĩa vụ về nhân thân, tài sản giữa vợ và chồng. Luật chỉ xác định phạm
vi quyền và nghĩa vụ vợ chồng để qua đó có thể xác định những hành vi nào
được coi là hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng để
làm căn cứ ly hôn. Việc đánh giá mức độ nghiêm trọng tùy thuộc vào thái đô
của bên vợ hoặc chồng bị vi phạm quyền, nghĩa vụ, đánh giá chủ quan của
thẩm phán khi giải quyêt yêu cầu ly hôn. Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm
quyền, nghĩa vụ của vợ chồng phải là vợ, chồng hoặc cả hai bên vợ chồng.
Nghĩa là hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng có thể
là hành vi từ một phía của người vợ hoặc chồng hoặc cả hai phía vợ chồng.
Một người có thể bị coi là vi phạm quyền, nghĩa vụ khi hành vi đó là hành
vi có ý thức của họ. Những hành vi thực hiện vào thời điểm vợ, chồng
không nhận thức và làm chủ hành vi của mình thì không được coi là hành vi
vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Có thể nói Luật Hôn nhân và gia
đình 2014 đa lần đầu tiên quy định giải quyêt ly hôn dựa vào “lỗi” của vợ,
chồng bên cạnh việc xem xét thực chất quan hệ vợ chồng. Đây là một quy
định có tính bước ngoặt, thể hiện quan điểm, nhận thức mới về căn cứ ly hôn
của Nhà nước ta. Lỗi ở đây được xem xét với tư các là nguyên nhân dẫn đên
thực trạng quan hệ hôn nhân tan vỡ. Lỗi của vợ chồng không phải là căn cứ
ly hôn độc laajo để Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn mà phải được đặt trong
mối quan hệ vớ thực trạng quan hệ vợ chồng.
2.2. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được
Có thể thấy rằng việc đưa ra những nguyên nhân của hôn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn
nhân không đạt được để cụ thể hoa căn cứ cho ly hôn “vợ, chồng co hành vi
bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng”
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đa tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho
Tòa án khi giải quyêt việc ly hôn theo yêu cầu của một bên. Đây là một quy
định rất tiên bộ mang ý nghĩa quan trọng nhằm cụ thể hoa Hiên pháp năm
2013 về quyền con người và bảo vệ quyền con người trong tiên trình hội
nhập quốc tê. Điều này cũng tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật
khi giải quyêt việc ly hôn trong cả nước.
Khi thực tê quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài” thì thường dẫn tới hậu quả làm cho “mục đích của
hôn nhân không đạt được”. Mục đích của hôn nhân là tình yêu giữa nam và
nữ muốn chung sống với nhau suốt đời, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh
phúc, bền vững trên cơ sở giúp đỡ nhau cùng tiên bộ. Con người tiên tới
hôn nhân với mục đích mong muốn co được một cuộc sống hạnh phúc. Do
vậy, khi mục đích hôn nhân “không đạt được” thì quan hệ hôn nhân thường
co tác động ngược lại. Khi đo chấm dứt hôn nhân được giải quyêt bằng việc
ly hôn. Bất cứ một cuộc hôn nhân nào, nêu không đạt được mục đích là xây
dựng gia đình hạnh phúc, bền vững thì việc duy trì nó là không cần thiêt và
vợ chồng có thể được ly hôn.
2.2 Vợ, chồng bị tuyên bố mất tích
Tuyên bố một người mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm xác định một
người cụ hoàn toàn không rõ tung tích, cũng không rõ còn sống hay đa chêt.
Theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“ 1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy
đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay
đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có
thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người
đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này
được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng;
nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này
được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
2. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn
thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và
gia đình.
3. Quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích
để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.”
Khoản 2 Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định về căn
cứ cho ly hôn có đề cập tới trường hợp yêu cầu ly hôn khi một trong hai
người mất tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa
án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.”.
Trường hợp đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích và yêu cầu Tòa
án giải quyêt ly hôn, cần lưu ý Tòa án chỉ giải quyêt cho ly hôn có bằng
chứng chứng minh được chồng hoặc vợ đa biệt tích từ hai năm trở lên kể từ
ngày có tin tức cuối cùng về chồng (vợ), mặc dù đa áp dụng đầy đủ các biện
pháp thông báo, tìm kiêm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng
vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đa chêt. Việc
tuyên bố cá nhân mất tích có ý nghĩa hêt sức quan trọng. Nó góp phần bảo
vệ lợi ích của cá nhân cũng như các chủ thể có liên quan. Việc xác định
đúng điều kiện và hậu quả pháp lí của các tuyên bố này là cơ sở đảm bảo
quyền lợi cho các chủ thể, đồng thời góp phần thực hiện có hiệu quả nhưng
quy định của pháp luật trong tuyên bố các cá nhân mất tích
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đa
ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình.
Cần phải giải phóng chồng thoát khỏi “hoàn cảnh đặc biệt” này, khi họ có
yêu cầu được ly hôn với người chồng (vợ) đa bị tòa án tuyên bố mất tích.
2.3. Vợ hoặc chồng có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51
của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc
chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia
Khoản 2, Điều 51 trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định
như sau:
“2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly
hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn
nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.”.
Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu
tòa án giải quyêt ly hôn như trước đây thì kể từ nay, căn cứ để cha, mẹ,
người thân thích khác cũng co quyền yêu cầu tòa án giải quyêt ly hôn khi
một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo
lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đên
tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Việc Luật hôn nhân và gia đình trước
kia không có sự điều chỉnh trong trường hợp này đa dẫn tới thực trạng co rất
nhiều trường hợp vợ hoặc chồng muốn ly hôn nhưng Tòa án lại không thể
tiên hành giải quyêt được, có nhiều vụ việc kéo dài trong rất nhiều năm với
nguyên nhân duy nhất là do người vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi
dân sự. Bên cạnh đó, đối với trường hợp này các nhà làm luật yêu cầu cha,
mẹ, người thân thích khác của vợ hoặc chồng cần phải chứng minh được
việc người chồng hoặc vợ bị mất năng lực hành vi dân sự phải là nạn nhân
của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đên tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Vậy nên, nhằm bảo đảm
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như góp phần hoàn thiện
các quy định của pháp luật thì các nhà lập pháp cần xem xét lại quy định
trên nhằm điều chỉnh một cách thấu đáo nội dung này.
III.Đánh giá căn cứ ly hôn trong Luật Hôn nhân & Gia đình 2014
1.Ưu điểm
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đa bổ sung điểm mới khi cho ly
hôn khi có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và
nghĩa vụ của vợ, chồng. Như vậy, luật hiện hành quy định rất rõ “bạo lực
gia đình” là căn cứ để giải quyêt cho ly hôn. Luật Hôn nhân và gia đình
2014 cũng đa mở rộng thêm đối tượng có quyền yêu cầu ly hôn chứ không
dừng lại ở vợ hoặc chồng như Luật hôn nhân 2000. Quy định này đa tháo gỡ
cho nhiều trường hợp mong muốn xin ly hôn thay cho người thân bị mất
năng lực hành vi mà không được do trước đây chỉ quy định việc ly hôn phải
do chính đương sự (vợ, chồng) yêu cầu, trong khi họ lại bị mất năng lực
hành vi dân sự dẫn đên không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để xin ly
hôn.
2. Nhược điểm
Thứ nhất, bất cập trong việc đánh giá tình trạng trầm trọng của hôn nhân
trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của vợ hoặc chồng Khoản 1 Điều 56
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu
ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn
nếu co căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm
nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân
không đạt được”. Việc quy định về căn cứ ly hôn thể hiện yêu tố tình cảm
vẫn còn chung chung. Khi giải quyêt các trường hợp cụ thể, với sự đa dạng
của cuộc sống, thì mỗi cặp vợ chồng, mỗi vụ án ly hôn thường có mâu thuẫn
cũng như hoàn cảnh không giống nhau. Trong khi đó, không có căn cứ rõ
ràng để xác định thê nào là “làm cho hôn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân
không đạt được”, thê nào là hành vi “vi phạm nghiêm trọng” nên việc xem
xét, đánh giá căn cứ trên là rất khó khăn, vướng mắc.
Thứ hai, đối với trường hợp vợ, chồng đa ly thân trên thực tê. Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 không quy định ly thân là căn cứ cho ly hôn. Tuy
nhiên, trong thực tiễn xét xử, các Tòa án thường đánh giá ly thân là căn cứ
để giải quyêt cho ly hôn. Vấn đề này không được luật quy định nên đa gây
kho khăn trong cả việc xác định vợ, chồng nào đo co trong tình trạng ly thân
hay không. Mặt khác, không xác định được thời gian ly thân, nên việc giải
quyêt án ly hôn thườn phải kéo dài khiên cho nhiều đương sự gặp kho khăn
trong việc xây dựng cuộc sống mới.
Thứ ba, trường hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp
hành án phạt tù Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa quy định căn cứ
ly hôn trong trường hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt tù. Vì vậy,
trường hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án
phạt tù thì không đủ cơ sở giải quyêt cho ly hôn. Điều này đa ảnh hưởng
đên quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị giải quyêt cho ly hôn.
3.Một số giải pháp
Thứ nhất, nên cụ thể hoa quy định về hành vi bạo lực gia đình làm căn cứ
cho ly hôn.
Thứ hai, pháp luật Việt Nam cần công nhận ly thân và xem ly thân là một
trong những căn cứ để cho ly hôn.
Thứ ba, cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội
và đang chấp hành án phạt tù.
KẾT LUẬN
Những quy định về căn cứ yêu cầu ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 cho thấy những đổi mới so với luật cũ. Việc thực hiện quy định
này có ý nghĩa quan trọng trên phương diện khoa học pháp lý cũng như thực
tiễn đời sống, giải quyêt được những bất cập còn tồn tại. Song cũng cần
hoàn thiện hơn nữa chê định ly hôn để đảm bảo trật tự trong quan hệ hôn
nhân, tiên tới xây dựng xa hội công bằng, tiên bộ mà ở đó quyền con người
được bảo vệ tối đa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân
2. Luật hôn và gia đình 2014, Nxb Lao động
3. Bộ Luật Dân sự 2015, Nxb Lao động
4. />ItemID=1835
5. />