TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 69 (03/2020)
No. 69 (03/2020)
Email: ; Website: />
NHẠI (PARODY) TRONG VĂN XUÔI SINH THÁI
VIẾT VỀ NÔNG THÔN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Parody in ecological prose about contemporary rural Vietnam
TS. Trần Thị Ánh Nguyệt
Trường Đại học Duy Tân
TÓM TẮT
Văn học Việt Nam sau Đổi mới 1986 xuất hiện một khuynh hướng viết mang đến một cái nhìn khác về
nông thôn: phản lãng mạn. Một trong những hướng nghiên cứu của phê bình sinh thái là chất vấn những
diễn ngôn viết về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên như văn học điền viên, mục đồng, thôn dã,
lãng mạn.v.v. Chúng tôi nhận thấy giọng giễu nhại trở thành chủ đạo với những hợp âm của hoài nghi,
cật vấn, trào lộng, mỉa mai. Trong văn xuôi sinh thái, nhại còn như một thể loại được các nhà văn sinh
thái thể hiện để đưa ra những phản tư, để phản tỉnh con người trước các vấn đề môi sinh. Thông qua
nhại văn chương mục đồng, lối viết lãng mạn… chứng tỏ rằng văn học sinh thái Việt Nam vẫn bắt nhịp
với những xu hướng toàn cầu bằng những hình thức mới mẻ, cách tân, hiện đại.
Từ khóa: nhại, phê bình sinh thái, phản lãng mạn, văn học sinh thái Việt Nam
ABSTRACT
In Vietnamese literature after Innovation 1986, there is a trend of writing which offers a different look
at the rural region: anti-romanticism. One of the research directions of ecological criticism is to question
the discourses on the relationship between man and nature such as peasant literature, shepherds,
countryside, romance.v.v. The parody voice becomes dominant with the chords of skepticism,
questions, splendor, and sarcasm. In ecological prose, parody is used as a genre by ecological writers to
provide people with reflections on environmental issues. Through parody of shepherds, romantic
writing, it is proved that Vietnamese ecological literature still catches up with global trends in new,
innovative and modern forms.
Keywords: parody, ecocriticism, anti-romanticism, Vietnamese ecoliterature
nghiên cứu ngữ văn của thế kỉ XX bằng
những tư tưởng phong phú và độc đáo. Trong
đó, có những nghiên cứu chuyên sâu về nhại.
Cốt lõi trong hệ thống tư tưởng của M.
Bakhtin là nguyên lí đối thoại (dialogizm).
Đối thoại tạo nên giá trị của văn chương
mà biểu hiện rõ rệt nhất ở tiểu thuyết.
Trong tiểu thuyết, bản chất độc thoại của
các thể loại khác dần bị lật đổ thông qua
1. Dẫn nhập
Nhại (Parody) là một hình thức xuất hiện
từ cổ đại tới nay (từ parodia trong tiếng Hi
Lạp cổ đại) và nhận được nhiều sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu. Nhại được hiểu là sự
cố ý bắt chước phong cách với mục đích gây
cười. Nhại biểu hiện đa dạng cả trong âm
nhạc, hội họa, văn học, điện ảnh.v.v. M.
Bakhtin (1895 – 1975) là người thay đổi
Email:
15
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 69 (03/2020)
thủ pháp đa dạng và nhại là một biện pháp
có nhiều ý nghĩa để thể hiện tính đa giọng
đó. Theo Bakhtin, nhại là một kiểu
carnaval hóa. Trong Sáng tác của Francois
Rabelais và văn hóa trào tiếu dân gian,
ông cho rằng có sự thâm nhập của văn hóa
dân gian vào quyền uy “bên cạnh lễ bái
trang nghiêm là (về mặt tổ chức và điệu
thức) còn có các nghi lễ trào tếu, báng bổ
và thóa mạ thần linh, bên cạnh những
huyền thoại trang nghiêm còn có những
huyền thoại trào tếu và chửi rủa, bên cạnh
những anh hùng còn có những hình tượng
song trùng giễu nhại lại chúng” (M.
Bakhtin, 2003, tr.165), điều này khiến nhại
có tính lưỡng trị, vừa phủ định vừa tái sinh.
Trong Những vấn đề thi pháp của
Dostoyevsky, ông cho rằng nhại là nhân tố
không thể thiếu trong mọi loại hình canaval
hóa “phỏng nhại gắn chặt với sự thụ cảm
canaval về thế giới. Phỏng nhại hóa là tạo
ra sự đồng dạng bị hạ bệ, đó cũng là “thế
giới lộn ngược”. Vì vậy, phỏng nhại mang
tính lưỡng tính” (M. Bakhtin, 1998,
tr.139). Ông phân tích lịch sử của phỏng
nhại và cho rằng cuốn tiểu thuyết vĩ đại
nhất thế giới Donquixote của Xervantex
“mang nhiều tính canaval nhất của văn học
thế giới” (M. Bakhtin, 1998, tr.140).
Khơi nguồn từ lí thuyết của M.
Bakhtin, Nguyễn Thị Tịnh Thy cũng nhận
thấy tính chất giải cấu trúc của phê bình
sinh thái (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2013,
tr.25). Phê bình sinh thái truy tìm căn nguyên
lí do khiến cho trái đất lâm vào tình trạng suy
thoái hiện nay. Các nhà phê bình sinh thái cho
rằng chính tư tưởng “duy nhân” thống trị là
căn nguyên của mọi thảm họa môi trường.
Phê phán mặt trái của tư tưởng “nhân loại là
trung tâm” là đặc điểm trọng tâm của khuynh
hướng văn học này. Nguyễn Thị Bình trong
chuyên luận Văn xuôi Việt Nam sau 1975
(Nguyễn Thị Bình, 2012) cho rằng nhại là
thủ pháp, giọng điệu chính của văn xuôi
đương đại. La Khắc Hòa khám phá những
ý nghĩa của nhại làm nên nét riêng của
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài trong
bài viết Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu
hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị
Hoài (Lã Nguyên, 2011). Lê Huy Bắc nhận
ra thủ pháp nhại đặc sắc “Bậc hiền triết –
con chó xồm” hay “nhại” (parody) của
Nguyễn Huy Thiệp (Lê Huy Bắc, 2012).
Luận án tiến sĩ Parody/ Nhại trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại của Phạm Thị
Thu (Phạm Thị Thu, 2016) đã giúp người
đọc có một cái nhìn bao quát về nhại trên
phương diện lí thuyết và phân tích những
hiệu quả của nhại trong văn chương và
khẳng định nhại xuất hiện phổ biến trong
văn học Việt Nam sau năm 1986. Bài viết
này của chúng tôi tìm hiểu nhại trên
phương diện hình thức giễu nhại gắn với
tiếng cười châm biếm và tinh thần hoài
nghi, đồng thời xem nhại như là một thể
loại mà nghệ thuật sinh thái thể nghiệm về
ý thức phản tư trong thời đại khủng hoảng
môi trường.
2. Giọng giễu nhại với những hợp
âm của mỉa mai, hoài nghi
Nhại trước hết được xem là sự cố ý bắt
chước một cách hài hước để châm biếm.
Nguyễn Huy Thiệp được coi là tác giả tiêu
biểu cho giọng điệu giễu nhại hoài nghi.
Ông hoài nghi giáo dục, phỉ báng văn minh
“Dạy cho trẻ con toàn thứ láo khoét” (lời
ông giáo Hội, Chăn trâu cắt cỏ), “học vấn
có điều nguy hiểm là khiến người ta có ảo
tưởng thay đổi bản thân và hoàn cảnh là
điều vốn dĩ không bao giờ làm được” (lời
thầy giáo Doanh, Những người muôn năm
cũ)… vì đó là những điều khiến cho con
người trở nên hám lợi, nguồn gốc của tham
16
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
vọng, quyền lực, dối trá, hư hỏng. Như vậy,
điều đó cũng khiến cho con người rời xa
bản tính tự nhiên tốt đẹp. Thương nhớ đồng
quê, Chăn trâu cắt cỏ, Sống dễ lắm, Những
người muôn năm cũ… của Nguyễn Huy
Thiệp đi ra ngoài diễn ngôn lãng mạn, từ bỏ
cách nhìn thẩm mĩ hóa thôn dã. Nông thôn
đã vĩnh viễn mất đi bình an, nhân vật chia
tay cái thanh thản của những ảo tưởng
truyền thống, đối diện với đói nghèo, vất vả,
bất an, buồn chán.v.v. Thiềm, một giáo viên
tự nguyện lên miền núi dạy học nhìn cảnh
vật đúng như trong văn chương điền viên
mô tả “Khi chiều về, tiếng mõ trâu lốc cốc
khua vang ở dưới chân núi xa xôi, lẫn lộn
với khói lam chiều” nhưng trước khung
cảnh ấy, anh chỉ cảm thấy “cuộc sống ở
xóm núi trôi đi đơn điệu, buồn tẻ” (Những
người muôn năm cũ); Ông Trụ, một cán bộ
giữ trạm thủy văn nhìn sương phủ trên sông
Đà bằng cách giễu về những hình ảnh đã
thành cổ điển của thơ sơn thủy: “Làn sương
khói lảng vảng lướt trên mặt sông chờn vờn
như ma quỷ nhập làm hoa cả mắt. Đây là
thứ sương khói mà trong thơ Đường Bạch
Cư Dị gọi là “yên ba sầu sát nhân” (Như
sương như khói bay). Ngay cả cách đặt tên
truyện: “giả sơn thủy” (Như sương như khói
bay), “giả mục đồng” (Chăn trâu cắt cỏ),
“nhại lãng mạn” (Những người muôn năm
cũ), Nguyễn Huy Thiệp phản biện lại thói
quen về một không gian thôn dã mĩ lệ,
thanh thản để nhận thức về một thực tại tẻ
nhạt, nỗi cô độc không nơi nương náu của
tâm thức hiện đại.
Tiếp nối cách giễu nhại của Nguyễn
Huy Thiệp, có thể kể đến Đoàn Lê. Chốn
sơn khê đâu còn là nơi ở ẩn, chỗ lánh đời
“dùng bếp dầu, bếp than tổ ong để cướp thời
gian, hỏi bói đâu ra làn khói thơ mộng bảng
lảng vương vít trên mái rạ? Và lũ trẻ trâu
chọi ở đây nghịch hơn lũ giặc… dẫu cho ăn
kẹo cũng đố thổi được sáo. Đòi khê với chả
cháy cơ!”. Những sự thật trần trụi của xóm
Chùa được Đoàn Lê viết bằng một giọng
mỉa mai, giễu cợt và chua chát A tourisme
xóm Chùa, Thành Hoàng làng xổ số, Nghĩa
địa xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, Người
khách đêm giao thừa, Sex, Đất xóm Chùa,
Xóm Chùa thời ung thư… đã nhận chân xã
hội Việt Nam đương đại bằng niềm âu lo
khắc khoải khi đối diện với đô thị hóa.
Người nông dân li hương ngay chính trên
mảnh đất của mình. Đất đai sản xuất trở
thành các khu công nghiệp. Mất đất sản
xuất, người nông dân trở nên bơ vơ, trở
thành tha nhân trên mảnh ruộng quê
hương. Nhiều căn bệnh ung thư phát sinh vì
khu công nghiệp xây dựng trong khu vực dân
cư. Chưa kể, khi giải tỏa, đất như một tài sản
có giá trị kinh tế dẫn tới cha con, vợ chồng,
anh em tranh giành, đối xử tàn nhẫn, đâm
chém lẫn nhau, không nhìn mặt nhau. Làn
sóng “mưa Âu gió Mĩ” làm đổi thay xã hội
nông nghiệp cổ truyền ngày xưa từng được
Vũ Trọng Phụng viết thành một chuỗi cười
dài trong cuốn tiểu thuyết xuất sắc Số Đỏ
thì nay trong các tác phẩm của mình, Đoàn
Lê đã phản ánh thực tế làn sóng lấy chồng
ngoại quốc biến đổi các cô thôn nữ trở
thành những Tú Bà thời hiện đại. Trong
Trinh tiết xóm Chùa, bà cho thấy hậu quả
của đường dây mại dâm quốc tế dưới vỏ bọc
lấy chồng ngoại quốc, du lịch sinh thái là khi
thanh niên xóm Chùa “khám nghĩa vụ quân
sự mới phát hiện có đến phân nửa thanh niên
dương tính với HIV”. Sau 1986, xã hội đi
vào quỹ đạo phát triển kinh tế, bắt đầu tăng
tốc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đó
kéo theo sự đổi thay của nhịp điệu cuộc
sống, phong tục, xã hội. Trước những biến
đổi ấy, nghệ sĩ ưu tư phản kháng trước tình
trạng thương mại hóa ngày càng cao, phản
ứng lại với những ô hợp đô thị, rất nhiều tác
17
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 69 (03/2020)
giả đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên trong thời đại kinh tế thị
trường phát triển mạnh. Tinh thần ấy được
thể hiện qua hệ thống ngôn ngữ thị dân
nhiều kiểu loại như ở hội hè carnaval.
Nhiều tổ hợp từ suồng sã của đời sống hiện
đại, tiếng lóng văng tục vỉa hè “Thế nhưng
con Khờ dám đung đưa háng với bộ váy xẻ
ngược xẻ xuôi, để lộ đến tận khúc đùi nõn
nà, đập cửa sổ ô tô đánh sầm, rồi điềm
nhiên lắc mông đi vào làng (…) Cha con
đĩ, thôn triều phục nó coi chẳng khác gì
cửa hàng Karaôkê nhà nó à!”, “tiên nhân
nó! Nó cho mỗi người một tờ tiền âm phủ
đây này”, “nhát tao cho “năm hìu” đánh
con đề số không bảy” (Trinh tiết xóm
Chùa), Dự án “ngon” thế, không “ăn” được
thì chết cho xong… (Đất xóm Chùa); chêm
xen từ nước ngoài “Mặt trận cấm chỉ việc
để những tệ nạn xã hội bồng bế nhau về đất
xóm Chùa “ăn theo” cái tua-rít-sì-mờ” (A
tourisme xóm Chùa), “và để giúp thánh
thần của mẹ, con xin cung cấp mọi thông
tin về chất beta endorphin ma túy nội sinh
lẫn ma túy ngoại sinh, điểm cảm thụ tập
trung MUY trong tế bào thần kinh, vân vân
và vân vân” (Mẹ, con và thánh thần); thậm
chí cách đặt tên nhân vật cũng đầy hàm ý
mai mỉa “Nay Khờ lấy tên họ Tàu, gọi là
cô Lầy Lầy, chả biết lầy lội đẹp hơn khờ
khạo chỗ nào”, Sĩ Thái sư, Lão Tí Nghệch
(Trinh tiết xóm Chùa).v.v. Tính carnaval
hóa qua ngôn ngữ chợ búa, hổ lốn, suồng
sã lột tả sống động tính đa tạp của không
gian nông thôn hiện tại đã tiêu tán theo cơn
gió đô thị hóa và ảnh hưởng của áp lực
kinh tế thị trường. Tính chất lưỡng trị vừa
trang nghiêm vừa cười cợt, vừa nghiêm túc
vừa buồn cười của hình thức canaval đã hạ
bệ những gì tưởng như trang nghiêm, mực
thước thành ra phóng túng, đôi khi thô tục
để phản ánh cuộc sống ngổn ngang, đa
diện, phồn tạp. Đoàn Lê đã chạm đến
những vấn đề thời sự đương đại của nền
kinh tế thị trường bằng một phong cách
hiện đại với giọng giễu nhại, lạnh lùng,
chua chát, sắc cạnh có phần đanh đá, chao
chát. Giễu nhại do đó là tiếng cười đầy xót
xa để chia tay những ảo tưởng về đời sống
của tác phẩm viết về thôn dã.
Đi qua đồng chiều (Sương Nguyệt
Minh) giễu nhại lại hành trình trở về nông
thôn trong văn học truyền thống. Thăng là
một chàng thanh niên Việt Kiều từ Úc về
quê thăm người bác họ. Nhưng không như
kì vọng của bố, về quê để nhận ra gốc gác,
để học những bài học thôn quê, hành trình
của Thăng không hề làm nhân vật chính
thay đổi mà chỉ làm sâu sắc hơn chênh lệch
giữa nông thôn và thành thị. Câu nói cửa
miệng của Thăng “Người nhà quê hay
nhỉ?” trước cảnh vật, sinh hoạt nơi thôn dã
là cái nhìn của kẻ khác, đứng từ vị thế của
người bên ngoài. Vẻ đẹp thôn dã của cô gái
nông thôn được miêu tả cũng tước khỏi cái
nhìn lãng mạn, chỉ còn là một sự mỉa mai:
“Bạn chị xinh nhỉ. Người eo tuyệt vời. Con
gái nhà quê, eo đẹp thế là sự lạ. Cái mũi
dọc dừa. Mắt như mắt nai. Xinh lắm!
Nhưng mà tù hãm, đôi mắt đang báo hiệu
một sự tù đọng”. Cái Hương hỏi: “Thăng
nhìn thấy mắt nai ở đâu, đi săn thấy ở rừng
à?” “Không. Em thấy ở trong vườn bách
thú.” “Thế ra Thăng bảo bạn chị như con
nai đẹp bị nhốt trong vườn bách thú, hở?”.
Thậm chí, mái tóc gội đầu thơm hương
bưởi được ca ngợi trong văn thơ lãng mạn
cũng chỉ được cảm nhận bằng một thái độ
thờ ơ, hiếu kì. Vậy nên, hành trình của
Thăng không phải là một hành trình lí
tưởng trở về thôn dã để trưởng thành mà
hành trình của một kẻ thành phố kênh kiệu,
hời hợt về nông thôn với những định kiến
về một vùng nông thôn dã man, tăm tối và
18
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
thất học mông muội lạc hậu cần khai hóa.
Giọng điệu giễu nhại với đặc trưng
hình thức tổng hợp của cả hai tính chất tự
phản tỉnh và liên văn bản trở thành đặc
trưng nổi bật của văn xuôi sinh thái sau
năm 1975. Giễu nhại là cách để gây ra hiệu
ứng ngược. Nó mang hai nghĩa. Hai nghĩa
đó đối chọi nhau, tranh cãi nhau. Điều đó,
giúp thoát khỏi tính độc thoại của sử thi,
đạt đến tính đối thoại đầy tinh thần hiện
đại. Vậy, việc sử dụng hình thức nhại
khiến đối thoại trở nên mạnh mẽ, giọng
điệu, do vậy trở nên đa âm, đa thanh. Giễu
nhại khiến người đọc nhận ra cái “bất ổn”
ở đáy sâu của hiện thực đời sống. Thực
chất, giễu nhại thể hiện một thái độ hoài
nghi sâu sắc. Tác giả nhận ra cần phải kiến
lập một điều gì khác với cái đổ vỡ của mối
quan hệ trong hiện tại nhưng có lẽ chưa
thấy nên tấn công vào cái tồn tại hiện hữu
bằng thái độ phỏng nhại, mỉa mai những
giá trị cũ. Niềm khắc khoải của Nguyễn
Huy Thiệp, Sương Nguyệt Minh, Đoàn
Lê... là cách phản ứng lại với thực tại cay
đắng, u ám, cuộc sống kĩ trị đang xâm
chiếm và ngự trị. Chính áp lực của xã hội
thị trường, cộng hưởng với dư âm chiến
tranh đã khiến con người đang cảm thấy
bất an, mất mát và hoài nghi.
3. Phản lãng mạn - Nhại như một thể
loại
Ở một cấp độ khác, như quan điểm của
Hutcheon “Nhại có thể là một thể loại hơn
là một kĩ thuật” (Dẫn theo Phạm Thị Thu,
2016, tr 16). Hình thức này có thể thấy rõ ở
nghệ thuật sinh thái (eco-art) với những tác
phẩm tác động mạnh mẽ vào giác quan để
tỉnh thức về những tác động của con người
lên môi sinh. Nhiều nghệ sĩ sinh thái đã nói
lên niềm ưu tư với khủng hoảng sinh thái
thời hiện đại bằng lối thể hiện “nhại” lại
các mô thức truyền thống. Trần Tiến dù
hóm hỉnh, pha chút giễu cợt cũng thể hiện
âu lo về sự xâm lấn của các sản phẩm văn
hóa đô thị với nông thôn (Lambada quê
ta). Một loạt tranh biếm họa trên báo Tuổi
trẻ cười về hiện tượng cá chết trên biển
miền Trung, hay cách chế giễu việc phá
rừng phòng hộ để xây dựng sân gofl phục
vụ cho cuộc thi hoa hậu Trái đất… đã tấn
công một cách trực diện vào sự bất hợp lí
trong cách đối xử với môi trường. Jeff
Hong mượn hai nhân vật hoạt hình nổi
tiếng của Disney (Hoa Mộc Lan bịt khẩu
trang đi dạo giữa đường phố đầy bụi, Nàng
tiên cá nổi lên giữa vùng biển đầy vết dầu
loang) để đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ
về thảm họa sinh thái (Theo Đậu Dung,
2019). Những họa phẩm đầy chất nghịch dị
của họa sĩ Lê Minh Phong (Hóc, Tiếng hót
cuối cùng, Sông này không phải là sông,
Cha tôi, Ăn một tiếng hót…) là những ám
gợi sâu xa cho những ý niệm về môi
trường mà hội họa, một loại hình nghệ
thuật vừa mang tính trực giác vừa giàu ý vị
triết lí với những liên tưởng triết học mang
đến cho độc giả. Nếu như tính trực giác của
nghệ thuật sinh thái mang đến những thông
điệp mạnh mẽ, trực diện thì nhại trong văn
học đưa đến những liên tưởng, tưởng tượng
đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ.
Nhại khiến văn học có khả năng du
nhập vào nó nhiều hình thức ngôn ngữ.
Nhại không chỉ dừng lại ở nhái phong cách
của một tác giả, sử dụng giọng châm biếm,
hoài nghi mà còn nhại thể loại “Thể loại là
một nguyên tắc giao tiếp giữa tác giả và
người đọc, khi làm chiến lược này biến
dạng sẽ tạo ra nhại thể loại” (Phạm Thị
Thu, 2016, tr 104). Ví dụ Don Quijote của
Cervantes là một tác phẩm nhại thể loại
tiểu thuyết hiệp sĩ xuất sắc được ưa chuộng
của Tây Âu thời trung đại, chế giễu những
tàn dư của lí tưởng hiệp sĩ phiêu lưu đã trở
19
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 69 (03/2020)
nên lỗi thời, cứng nhắc và tầm thường. Văn
học Việt Nam sau đổi mới đã chứng kiến
nhiều tác phẩm nhại của Phạm Thị Hoài,
Hồ Anh Thái, Thuận, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Huy Thiệp,
Đoàn Lê… khiến cho nhại trở thành một
phương thức rộng rãi. Tuy nhiên, viết về
nông thôn, văn xuôi sinh thái Việt Nam
đương đại xuất hiện những hình thức nhại
làm biến dạng những thể loại mục đồng,
điền viên hay lãng mạn với ý hướng phản
mục đồng, giải huyền thoại, phản lãng
mạn.v.v.
Viết về nông thôn, văn học truyền
thống thường nghiêng về lí tưởng hóa,
thẩm mĩ hóa là nơi yên bình để lánh trú hay
chốn chân quê hiền hòa mà khi thất vọng
về thế sự (trong thơ điền viên) hay mệt mỏi
chốn phồn hoa (trong văn học lãng mạn)
khiến con người muốn trở về. Nhưng đã có
những cách viết xuất hiện sự hoài nghi diễn
ngôn lãng mạn về nông thôn. Phản đề về
khuynh hướng lí tưởng hóa, lãng mạn hóa
nông thôn, vùng hẻo lánh, Henry David
Thoreau cho rằng “văn học đồng quê thực
chất chỉ là sự khắc họa về thôn quê của
những người ngồi trong cánh cửa sổ phòng
khách để nhìn ra” (H. D. Thoreau, 2016,
tr 15). Terry Gifford dựa vào mô hình 3 lớp
của kịch đồng quê: đồng quê (pastoral),
phản đồng quê (anti-pastoral) và hậu đồng
quê (post-pastoral) để nhìn lại về văn học
đồng quê. Ông cho rằng thực chất của cái
nhìn về nông thôn trong văn học thôn dã
truyền thống chủ yếu là đã lí tưởng hóa,
che đậy đời sống khó khăn vất vả. Gifford
cho rằng truyền thống văn học đồng quê
chỉ là “những kiến tạo lí tưởng hóa, làm sai
lệch đời sống nông thôn thông qua việc che
đậy cuộc sống lao động thực tế và đời sống
khó khăn vất vả chốn thôn quê” (Terry
Gifford, 1999, tr 84-85).
Giễu nhại văn chương mục đồng là sự
chất vấn về cách nhìn có phần lí tưởng hóa
về không gian thôn quê đẹp đẽ, nhàn tản,
yên bình. Trong Chăn trâu cắt cỏ (Nguyễn
Huy Thiệp), trước hết, tên truyện dễ khiến
người đọc liên tưởng đến hình tượng đẹp
đẽ về thôn dã thanh bình: Mục đồng thổi
sáo trâu về hết/ Cò trắng từng đôi lượn
xuống đồng (Thiên Trường vãn vọng, Trần
Nhân Tông), kì thực, Nguyễn Huy Thiệp
đang giễu lại nó. Thứ hai là “phản lãng
mạn” qua việc tránh miêu tả cảm xúc:
“Năng không nghĩ ngợi, không xét đoán”,
“Năng thấy lòng mình trống rỗng”. Thứ ba
là “chống mĩ hóa”: đối diện với cảnh vật
“Năng không biết ở đây cảnh đẹp hay
không đẹp”. Không cảm xúc như là một
phản ứng với truyền thống văn chương
thôn dã để bước vào địa hạt gồ ghề của đời
sống với hiện thực trần trụi như dòng đời
thản nhiên vốn vậy “Tiền điện tháng này
của nhà hết 28 ngàn đồng. Tiền lễ Thánh
mỗi nhà 5 ngàn đồng. Tiền tiêm chó 3 ngàn
đồng. Cả thảy 36 ngàn đồng”. Không đủ
tiền để đóng các loại phí, người mẹ phải
bán con gà ri để trả. Nông thôn do vậy hiện
lên với những nhọc nhằn lo toan. Nhiều tác
phẩm sau năm 1986 phá bỏ những diễn
ngôn về ý niệm miền thôn dã ấy, đưa người
đọc đối mặt với làng quê nhọc nhằn, gánh
lên đó tất cả những cay cực của nghèo khó.
Heo may gió lộng của Ma Văn Kháng cũng
hé lộ cho người đọc về một nông thôn đói
nghèo, thất học, tăm tối qua hình ảnh người
chị gái của Đoan. Cứ mỗi năm, khi heo
may gió lộng là lúc nông nhàn, bác Thảo,
chị gái Đoan lại thường lên thành phố chơi
với gia đình em trai. Những món quà quê
như cân nếp, đậu xanh, bánh đa thái, bột
sắn dây… khiến người thành phố ảo tưởng
về một gia đình sung túc “tao cho về quê
bác ấy hẳn một tháng mà chơi. Mà ăn bánh
20
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
đa thái mỏng với gạo mới cho nó sướng.
Về đúng vụ gặt mà xem. Trong nhà, ngoài
sân, trên trời dưới đất, đâu cũng thóc. Cơ
man là thóc. Ngao ngán là thóc. Ngồi trên
thóc, ngủ trên tiền. Thật là vô sự, vô sách
mà vô lo vô lự, sướng cả đời Bác mày giàu,
giàu lắm”. Tất cả những cảm giác ấy che
đậy một cuộc sống đầy vất vả của nông
thôn qua giấc mơ đứt nối của người bác.
Cuộc sống nặng nề ấy đã biến cô gái thành
phố xinh đẹp thành một bà lão “Sau hai
năm không gặp lại, giờ đây, ngồi đối diện
với Đoan không còn là người chị gái tươi
đẹp, óng ả năm xưa. Trước mặt Đoan là
một hình hài khác, một kiếp phận khác,
một tâm trạng khác. Trước mắt Đoan là
một bà lão nhà quê còm cõi, mệt mỏi và
bất an. Trước mắt Đoan là thân xác và tinh
thần của một đời sống lao lực, quá sức và
triền miên trong dày vò, cắn rứt, tuy cố
nhẫn nhịn mà vẫn tiết ra xung quanh một
nỗi buồn hiu hắt”.
Xu hướng giải huyền thoại về nông
thôn trong văn xuôi đương đại biểu hiện
qua cốt truyện trở về. Nguyện (Thung Lam,
Hồ Thị Ngọc Hoài) trở về, nằm cảm nghe cái
không gian xưa cũ của gia đình trong căn
nhà xưa để thức nhận rằng mỗi lần đi xa trở
về quê lại mất đi một thứ: mất cha, mất mẹ,
mất nhà và mất gốc. Cô đã mất dần từng thứ
một cho đến hết. Những tác phẩm ấy là
những trang viết “giải huyền thoại” về nông
thôn, đầy day dứt về những vẻ đẹp đã tiêu
vong, chỉ còn nằm trong miền kí ức, và đối
mặt với một nông thôn cơ cực, đói nghèo,
thất học, bất an, bị xâm lấn bởi những sản
phẩm ô hợp của đô thị. Thầy giáo Triệu
(Thương nhớ đồng quê, Nguyễn Huy Thiệp)
ngậm ngùi “Người thành phố đầu độc nông
thôn bằng những lạc thú vật chất”. Làng quê
không còn là nơi yên bình nữa khi những cô
thôn nữ (hai cô bé dễ thương Minh và Mỵ) đi
học về bị ô tô cán chết. Ô tô - sản phẩm của
văn minh công nghiệp như là một biểu tượng
của đô thị giết chết những giá trị của thôn
quê. Đô thị hóa làm thay đổi nông thôn,
nhưng sự nhộn nhạo đô thành cũng khiến
cho cái bình lặng ngàn đời bị phá vỡ. Cơn
gió đô thị hóa lướt qua vùng miền núi trong
tiểu thuyết Bóng của cây sồi (Đỗ Bích Thúy)
khiến người đọc không khỏi âu lo cho tình
trạng người nông dân rời bỏ đất đai, rời bỏ
mối gắn kết với những giá trị của nông thôn
để chạy theo những ảo vọng đô thành phù
phiếm. Tiểu thuyết viết về một dự án sẽ được
xây dựng ở một vùng cao. Dự án ấy làm đổi
thay nhiều phong tục miền núi đẹp đẽ.
Những người nông dân gắn với đất trở nên
biếng nhác, không chịu làm lụng, chỉ chăm
chăm bán đất để tiêu pha, quanh quẩn ở quán
rượu thịt chó. Đồng tiền cũng khiến những
cô sơn nữ biếng lười không vào rừng để
kiếm lá dong gói bánh, những phong tục
miền núi dần mai một. Thậm chí, có nhân vật
còn quật mồ mả ông bà lên để bán đất. Tiểu
thuyết đặt ra vấn đề nhức buốt của việc con
người trở nên mất gốc rễ như thế nào trước
sự xâm thực của thị thành. Trong cốt truyện
trở về thôn quê đương đại, các nhân vật nhận
ra cái vĩnh viễn mất đi của nông thôn.
Đoàn Lê đã bóc trần cái yên bình giả tạo của
làng quê, lôi ra ánh sáng ảo tưởng về một
làng quê thanh bình nhàn tản: chẳng thể nào
còn chốn ẩn dật mà chỉ là nơi ô hợp, lọc lừa,
đầy bạo lực (Chốn sơn khê), xóm Chùa đã bị
khuấy đảo bởi sức nặng của đồng tiền (A
tourism xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa...).
Đối với Quyên (Thương nhớ đồng quê,
Nguyễn Huy Thiệp), đối với Tuấn (Trở về,
Đặng Nhật Minh) như là cuộc chia tay buồn
bã vô tận với giấc mơ đã mất, nông thôn
không còn trong trẻo như trong kí ức.
Văn xuôi sau năm 1975 thể hiện một
phương thức “phản lãng mạn” về cuộc
21
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 69 (03/2020)
sống thôn quê. Nhiều tác phẩm đã đưa đến
một thái độ chất vấn lại những ý niệm về
thôn dã, miền núi, là phản đề về khuynh
hướng lí tưởng hóa, lãng mạn hóa vùng
nông thôn, vùng hẻo lánh. Nó đòi hỏi
chúng ta phải có một cái nhìn thấu suốt
hơn về đời sống lao động, người nông dân
và sự bóc lột của thành thị với nông thôn.
Đi qua đồng chiều của Sương Nguyệt
Minh chỉ ra nông thôn không phải là nơi lí
tưởng mà là nơi để thành thị bóc lột “Cái
bọn thành phố như nó chỉ muốn đè nén, áp
bức nông thôn mình… nông thôn chỉ là bãi
rác thải, là nơi dừng chân của người thành
phố. Người nhà quê chỉ dùng lại đồ cũ, đồ
hạng ba: Xe máy cũ, quần áo cũ, hàng hoá
chất lượng thấp đều do người thành phố
tuồn về. Họ bắt nạt sự ngu dốt của thôn
quê”. Phá bỏ những ý niệm về thôn dã, về
miền núi thanh sạch, an lành, Cơn mưa hoa
mận trắng (Phạm Duy Nghĩa) cho thấy ý
niệm “miền núi cái gì cũng sạch” là sai
lầm. Trong bữa tiệc đãi các giáo sinh hết
thời hạn dạy lớp xoá mù chữ ở Kin Chu
Phìn, hiệu trưởng Tiến khích lệ Kiên: “Ra
trường xin lên đây mà dạy, Kiên ạ (…) Lên
vùng cao được thở khí sạch, ăn rau sạch,
ngủ gái sạch. Rượu uống mềm môi, nhai
thịt rừng mỏi răng, thỉnh thoảng được xem
gái Mèo, gái Mán tắm truồng, đếch cần
biết gì đến công nghệ thông tin hay chiến
tranh vùng Vịnh. Hề hề!”. Nhưng Thanh,
một giáo viên sống ở vùng cao nhiều năm
đã bóc trần những diễn ngôn mị dân về
vùng cao đó của hiệu trưởng: “Kiên nó ở
Kin Chu Phìn nửa năm rồi, lừa nó thế nào
được. Thịt sạch ở tít núi Rú, còn dăm mống
khỉ còm đấy, ai bắn được mà ăn. Gái sạch
mà sẵn thì tao với mày đã không ế vợ”;
“Camêra chõ vào chỗ nào thì chỗ ấy toàn
hoa ban trắng ngần, hoa đào đỏ thắm. Thế
rồi bất ngờ pặp pặp pừ pừ, tí tú tủ, tí tí tủ…
khèn sáo réo rắt nổi lên, rượu vít cong cần,
trai gái nắm tay nhau ù xoẹ lên cả lũ. Cô
gái nào cũng trắng nõn trắng hồng. Cả đời
làm bục mặt, lấy đâu mà trắng mà thơm.
Tao ở vùng cao nhiều năm, chả thấy gì, chỉ
ngửi thấy mùi cứt ngựa”. Ngoài chủ đề cơ
bản về việc ca ngợi tình yêu đẹp thuần
khiết, sáng trong thì Phạm Duy Nghĩa đã
khước từ cái nhìn đầy tính du lịch về miền
núi, không hề lãng mạn, vui vẻ với tiếng
khèn sáo tưng bừng như người ta vẫn hình
dung về Tây Bắc mà đầy khó khăn với
những điều kiện sống khắc nghiệt và nỗi
buồn triền miên. Điều này, trước đó, cũng
được Nguyễn Huy Thiệp thể hiện thấm thía
qua hình tượng những người giáo viên lên
dạy học ở vùng cao (Sống dễ lắm, Những
người muôn năm cũ... ). Đọc các tác phẩm
viết về miền núi của Đỗ Bích Thúy (Bóng
của cây sồi, Ngải đắng ở trên núi, Sau
những mùa trăng…), người đọc cũng nhận
thấy những nhọc nhằn của người lao động
trong sự túng quẫn của đói ăn và các điều
kiện sinh thái khắc nghiệt.
Trên thế giới, tiểu thuyết phiêu lưu là
thể loại được yêu thích. Nhiều tác phẩm
phiêu lưu như Trên sa mạc và trong rừng
thẳm, Tám mươi ngày vòng quanh thế giới,
Người tình… được độc giả đón nhận nồng
nhiệt. Văn học Việt Nam, đề tài phiêu lưu
cũng được nhiều nhà văn theo đuổi. Ví dụ
Nguyễn Tuân với “chủ nghĩa xê dịch”, đi
để trốn cái bức bối của xã hội thị dân, của
môi trường công chức tù hãm, nhạt nhẽo,
ganh ghét, cảm giác bức bối không thoát ra
được, phải đi để vượt thoát là tâm trạng của
Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt
cua.v.v. Văn học phiêu lưu gắn với phong
trào phát kiến địa lí, khám phá những điều
mới lạ ở những vùng đất mới. Thế nhưng,
trong thời đại khủng hoảng môi trường, khi
những vẻ đẹp tự nhiên bị tàn phá nghiêm
22
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
trọng, văn học phiêu lưu đưa đến một cái
nhìn “phản lãng mạn” về một thực thể
thiên nhiên cỗi cằn, tàn rã và đang có nguy
cơ biến mất. Tiểu thuyết Sông (Nguyễn
Ngọc Tư) lại là hành trình nhại tiểu thuyết
phiêu lưu. Nguyễn Ngọc Tư có vẻ cũng
khởi đầu Sông bằng một chuyến đi. Cuốn
tiểu thuyết viết về hành trình du khảo trên
sông Di. Ân, một nhân vật đồng tính, thất
vọng với mối tình của mình khi Tú kết
hôn; đồng thời, chán nản với công việc
nhàn nhạt của mình và thêm vào đó là cảm
giác chán chường hoang hoải đã nhận lời
thực hiện một dự án viết về kí sự sông Di.
Ân cùng với hai người bạn săn tìm vẻ đẹp
trên hành trình khám phá dọc sông. Nhưng
hầu như, không một trang nào viết về sự
trù phú hai bên sông. Không một trang nào
viết về cảm hứng chinh phục tự nhiên.
Cũng không có vẻ đẹp tráng lệ, thơ mộng.
Trải nghiệm của cuộc đi là trải nghiệm của
sự tàn rã, cỗi cằn. Hành trình du khảo trên
sông Di là hành trình với những người bé
mọn, đau khổ, vất vả mưu sinh trên những
khúc đoạn sông Di “Báo chí đếm được có
đến chục cái không ở những cái làng giăng
giăng gần bờ này. Không đất. Không tiền.
Không chữ. Không biết đi về đâu. Không
biết chôn ở đâu. Không thịt. Không luật
pháp...”. Mỗi bước chân mà Ân đặt đến ở
những nhánh của con sông Di là những
phận người trên mỗi khúc của dòng sông
ấy. Tình trạng biến đổi khí hậu giăng mắc
khắp nơi. Là chỗ hạ nguồn có cái tên lạ Mù
Sa, nơi người ta sẵn sàng cho những cuộc
đi, tất cả đều được bỏ trong các thùng mì
tôm “Xóm cồn nhà nào cũng thấp, phần
lớn cất bằng vật liệu tạm bợ. Cả xóm như
đang dợm bỏ đi. Đồ đạc gói gém trong mấy
cái thùng mì tôm, thùng bột ngọt”. Là một
địa danh bất kì cách Sài Gòn 448km, mà kí
ức về cánh rừng trôi vẫn còn mồn một
trong tâm trí của bà già “nửa đêm có vạt
rừng rùng rùng trôi ra biển, trên đó có khi
cả một cái xóm, người ta và chó gà”. Thực
hiện dự án về kí sự sông Di Ân coi đó là
cuộc ra đi mãi mãi của mình như những
con sông lở - đất đai, địa danh, nhà cửa,
con người… bị đứt rời, cắt khúc, mất tích
vào khoảng không mênh mông của dòng
nước "Dân Ngã Chín không lạ gì với việc
mất một ai đó, một căn phòng nào đó biến
mất. Họ quen với việc một người ngồi cạnh
mình bỗng dưng lọt tõm vào một hố sâu
nào. Mọi sự biến mất đã trở nên bình
thường, họ thò đôi đũa ra để gắp thức ăn
thì không thấy mâm cơm đâu nữa, họ với
tay lấy áo mặc sau khi tắm xong thì nó
không còn ở đó, họ đứng dậy rót rượu và
cái ghế vẫn còn ấm hơi người lẳng lặng rơi
xuống sông và người kia thì ngồi phịch vào
khoảng không, cũng biến mất". Khắp các
trang viết là nỗi ai hoài trước vẻ đẹp tự
nhiên ngày một nhạt phai, phập phồng một
nỗi âu lo về những hiểm họa thiên nhiên đe
dọa cuộc sống của người dân cực Nam tổ
quốc “Mười bảy bài báo cậu đọc được trên
mạng nói về sạt lở đất trên một trăm cây số
vuông từ Yên Hoa đến dốc Sương Mù”.
Cách viết này cũng thật khác các nhà văn
Nam Bộ trước đó: Sơn Nam (tập Hương
rừng Cà Mau) với cảm hứng về khát vọng
chinh phục tự nhiên, sự kiêu hùng của con
người trước thiên nhiên; Đoàn Giỏi (Đất
rừng phương Nam) với một cậu bé thành
phố khám phá vùng đất hoang sơ, mới lạ,
Nguyễn Ngọc Tư ngược lại đã đưa ra nhiều
cảnh báo về môi trường và ảnh hưởng của
những biến đối khí hậu đến số phận của
người dân lao động. Như vậy, Nguyễn
Ngọc Tư đã phá hủy cốt truyện phiêu lưu
cổ điển.
Hành trình cuối cùng ở Túi, Ân nhớ về
cuộc hội ngộ với sông Di lần đầu tiên là
23
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 69 (03/2020)
một trận lũ “thực sự ở đây là cái biển rồi”:
“Cậu gặp sông Di lần đầu. Hung hãn một
cách ráo riết, cay nghiệt. Mặt sông là cái
xoáy nước đỏ ngầu cuộn xiết. Không có
bờ. Hệ thống các con sông lớn ở miền Hạ
chìm trong một trận lũ lụt được cho là lớn
nhất trong một trăm năm trở lại. Ở mái nhà
sắp chìm lút, những cánh tay đen đúa thò
khỏi mớ ngói vẫy vẫy. Trên cái đệm cao su
rách rã trôi qua có một em bé chừng hai
tuổi nằm như ngủ, nước săm sắp đến vành
tai. Nửa dưới để truồng, da xanh ngắt. Cậu
không khóc được khi ôm xác em nhỏ trên
tay”. Mở đầu và kết thúc hành trình du
khảo sông Di ở Túi bằng một “Đại hồng
thủy” (Ngay cả tên địa danh là “Túi” hẳn
có một hàm nghĩa như là hình tượng trái
bầu trong những cơn đại hồng thủy), tiểu
thuyết của Nguyễn Ngọc Tư như là một
cách nhại lại Kinh Thánh, nhại lại những
biểu tượng “đại hồng thủy” để ẩn dụ về sức
mạnh của sinh mệnh tự nhiên. Hơn nữa,
trong các truyền thuyết về đại hồng thủy,
sau cái chết sự sống sẽ hồi sinh còn trong
tiểu thuyết Sông người đọc hồ nghi không
biết các nhân vật có vượt thoát nỗi cô độc,
chán chường không nương náu của mình
để bơi trở lại hay họ sẽ chìm vào hư không,
vô tăm tích như chị Ánh, chị San.v.v.
Lần theo những địa danh lịch sử được
ghi chép trong Di lưu kí, Ân đặt chân đến
đâu thì những huyền thoại đều được “giải
thiêng”. Ân đến khúc sông ghi về đặc sản
ốc Bụt - một loài ốc rất quý ở Đồng Nàng,
thì Ân chua chát hơn vì khi có thể nghe
được tiếng hát của con ốc đó, nó bị bắt đến
cạn kiệt. Cô gái nghe tiếng hát của ốc Bụt
phải trả một cái giá rất lớn về mặt thể xác.
Cô phải đánh đổi đôi mắt (năm cô chín tuổi
mắt bị mù thì cô thăm được tiếng hát của
ốc Bụt bằng cây mần gai), hạnh phúc bình
thường (cô sẽ không bao giờ nghe thấy
tiếng hát nữa nếu như cô không còn trinh
trắng), phải chịu nỗi đau thể chất cho khả
năng huyền bí nghe tiếng hát ốc Bụt dưới
đáy sông “Tự dưng cô gái lặng ngắt sau
một cái rùng mình. Cọng rau chay chết
cứng trên tay trái… người nhũn ra, bợt bạt.
Kiệt sức, cô gái vẫn cố đưa còi lên miệng
thổi”. Ân xót xa cho cô gái mù. Sông với
những hoài nghi về du lịch sinh thái: Băng
Khâu - vùng núi hoang dã bị nhà nghỉ, biển
báo biến thành thương tích; Hồ Thiêng trở
thành đống rác, chỗ chị Ánh rửa chân trên
bến Lở giờ chỉ còn lều phều những rác…
Lệ Kiều - đẹp một cách phẳng phiu, che
đậy đằng sau nó là số phận nhọc nhằn của
người dân bản địa. Những địa danh đẹp đẽ
được ghi lại trong sách vở khi Ân đến đều
đã trở nên tiêu tán theo những cách khác
nhau. Như vậy, Sông nhại lại các hình thức
mang màu sắc lãng mạn, nhại các huyền
thoại trong sách kí sự, nhại các hình thức
du lịch sinh thái mĩ miều.v.v. Grey Garrard
trong chuyên luận Phê bình sinh thái (thuật
ngữ phê bình mới) cho rằng “những cách
thức chuyển nghĩa đồng quê (pastoral) và
hoang dã (wilderness) ngụ ý là không gian
thẩm mĩ du lịch” (G. Grey, 2004, tr 108).
Ông chỉ ra rằng, dưới cái nhìn của các nhà
phê bình sinh thái, văn chương thôn dã
(pastoral) là “những mô tả cố tình lảng
tránh hay đầy hư ngụy về đời sống nông
thôn” (G. Grey, 2004, tr 38). Những chất
vấn ấy đã được Nguyễn Ngọc Tư khéo léo
đưa người đọc qua những cạm bẫy của lí
thuyết, đào sâu vào những tranh luận chính
của phê bình sinh thái hôm nay thông qua
nhại phiêu lưu của Sông.
Lựa chọn nhân vật chính là một người
đồng tính (Ân) không phải là sự câu khách
về một chủ đề thời thượng, Nguyễn Ngọc
Tư không khai thác về những tranh cãi
mang tính xã hội, mà nhà văn thể hiện một
24
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
hàm ý nghệ thuật về một thế giới phi trung
tâm. Người đồng tính tồn tại giữa cuộc
sống này cũng giống như cây độc, như sấm
sét, như cỏ dại… mà Xu và Bối mê cuồng.
Tôn trọng tất cả điều đó như tôn trọng sự
khác biệt, đa dạng của toàn bộ hành tinh.
Chúng ta bắt gặp triết lí sinh thái trong
cách đề xuất. Không dành cho con người
thế ưu trội, nhà văn đã đưa ra một cái nhìn
bình đẳng với tự nhiên, chỉ ra cho chúng ta
thấy, rằng chúng ta không công bằng với
tạo vật. Do đó, phản biện lại với nhiều lí
thuyết mĩ học cho rằng vẻ đẹp của loài vật
(con công múa, chim hót gọi bạn tình, tình
mẫu tử của loài vật…) là mang tính bản
năng nên thấp hơn cái đẹp có ý thức của
con người. Theo lí thuyết phê bình sinh
thái, trong tự nhiên không có gì là xấu. Đẹp
xấu là do con người áp đặt. Các nhân vật
của tiểu thuyết Sông như Xu, Bối đều hiểu
được giá trị của tự nhiên. Ân có một bộ sưu
tập những cây cỏ độc. Xu tìm đến các vẻ
đẹp bị bỏ rơi – mải mê chụp ảnh loài hoa
dại với mong muốn “Tụi này có tham vọng
làm sao đại gia phải treo tấm ảnh cỏ cứt
heo ở phòng khách", khi thực hiện đơn đặt
hàng bộ lịch Hoa dại. Bối có một niềm
đam mê cuồng si với các bức ảnh giông tố
“Mùa này lang thang sẽ săn được nhiều
giông gió… Bối sắm sửa mọi thứ để phục
vụ cho mỗi việc bắt lấy khoảnh khắc một
tia sét lóe lên, một bầu trời đen tối đầy
thịnh nộ, một cơn lốc xoáy… Ảnh nền máy
tính là một cánh đồng nghẹt thở dưới một
đụn mây đầy nộ khí, và hai cái cây cổ thụ
nằm ở góc ảnh trông như đang lẩy bẩy
run”. Thậm chí khoái cảm với sự vần vũ
của trời “- Tin tôi đi, không có đứa con gái
nào mang đến cái lạc thú khi tôi chụp được
ảnh tia sét như rễ cây khổng lồ phóng
xuống cao ốc Thiên Đường. Cúc cu tôi
phun ra ướt luôn vạt áo”. Niềm say mê với
các thân phận tự nhiên bên lề ấy có lẽ hàm
ý về một triết lí sinh thái: trong tự nhiên
không có sự phân cách của đẹp – xấu, có
ích – không có ích, cao – thấp… tự nhiên
tồn tại như sự đa dạng muôn màu của nó
ngoài tất cả định kiến của con người “Bức
ảnh của Bối nổi tiếng vì tia sét lộng lẫy ấy
đã làm cháy trụi hai chị lao công đang lấy
đồ phơi trên tầng thượng. Cậu xem ảnh,
nghĩ mãi không hiểu tại sao hai mạng
người kia không làm tia sét xấu đi. Nó vẫn
lộng lẫy, ma mị. Mình không thể ghét nó,
cậu nghĩ”. Quan tâm đến những vẻ đẹp của
tự nhiên (bị con người) thù ghét, điều ấy
nhấn mạnh quan niệm của mĩ học sinh thái
(eco-aesthetic) cái đẹp của tự nhiên không
phụ thuộc vào lợi ích, định kiến của con
người. Con người phân chia ra tình cảm
cao thượng, thấp hèn. Con người đem lí trí
vào mọi loại tình cảm, đồng thời cũng đem
luôn cả thói ích kỉ, sự ngạo mạn, tính tàn
nhẫn… để đối xử với nhau. Điểm nhìn của
phê bình sinh thái (ecocriticism) chuyển từ
“con người làm trung tâm” sang “trái đất là
trung tâm”. Tuy nhiên, đó không phải là
thái độ hạ thấp con người mà đề xuất tư
tưởng con người hài hòa với tự nhiên. Phê
bình sinh thái yêu cầu tôn trọng bất cứ sinh
mệnh nào (từ con người đến động vật thực
vật…), coi tất cả sinh vật đều có giá trị của
riêng mình. Các nhà phê bình sinh thái
(ecocritic) đi tìm câu trả lời và giải pháp về
mặt tư tưởng: văn hóa xã hội quyết định
thái độ, hành vi của con người đối với tự
nhiên, thay đổi cách nhìn về tự nhiên sẽ tạo
cơ sở cho sự thay đổi trong ứng xử với tự
nhiên. Như vậy, trong truyện phiêu lưu,
điểm hấp dẫn là các nhân vật đưa người
đọc đi qua những miền đất mới lạ, kì vĩ…
thì các nhân vật của Sông chỉ mê cuồng
những sinh vật tự nhiên bên lề, nhỏ bé.
Việc giải bỏ nhân vật phiêu lưu để đưa vào
25
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 69 (03/2020)
đó cái nhìn từ bỏ thái độ độc tôn con người
là trung tâm để nhận ra tiếng nói của đại tự
nhiên “Nội hàm căn bản của phê bình sinh
thái là tính giải cấu trúc mạnh mẽ của nó,
biểu hiện ở các đặc điểm lệch tâm, tản
quyền, cái chết của chủ thể, lật đổ và tái
thiết, tính đối thoại…” (Nguyễn Thị Tịnh
Thy, 2013, tr 25).
4. Kết luận
Nhại không chỉ dừng lại là một thủ
pháp nghệ thuật mà như là một thể loại. Ở
đó, nhại đã lật đổ những phong cách,
những mẫu hình thể loại mặc định, đông
cứng để nhại lại nó, đưa ra một cái nhìn
phản biện sắc sảo đa chiều khơi gợi suy
nghĩ và liên tưởng. Bản thân phê bình sinh
thái là một sự lật đổ thuyết loài người là
trung tâm (anthropocentrism). Soi chiếu tư
tưởng ấy trong sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp, Đoàn Lê, Nguyễn Ngọc Tư, Sương
Nguyệt Minh… người đọc nhận thấy các
tác giả đã chất vấn lại những diễn ngôn
truyền thống về bản thể tự nhiên, về nông
thôn, về du lịch sinh thái, về những huyền
thoại… ẩn dấu những hư ngụy và ảo tưởng
để thức nhận về một thực tại tàn rã, cỗi
cằn, khắc khoải, bất an… khi tự nhiên dần
biến mất.
Từ chối cái nhìn lí tưởng hóa về không
gian thôn dã, nhại trong văn xuôi sau năm
1986 đã xuất hiện một khuynh hướng
“phản lãng mạn” về nông thôn. Có thể nói,
một số tác phẩm đã đem lại một cái nhìn
khác, đưa văn học trở về với những góc
cạnh hiện thực xù xì của đời sống, về với
mặt đất nhiều âu lo, nó còn phản ánh cảm
quan của thời đại. Thông qua việc phá vỡ
cái nhìn phiến diện, một chiều về đời sống
nông thôn, giúp chúng ta nhận chân được
gương mặt của xã hội Việt Nam đương đại.
Tinh thần “giải huyền thoại”, “phản lãng
mạn” của văn xuôi viết về nông thôn cho
thấy một cuộc chia tay buồn bã với những
giá trị đã tiêu vong trong bối cảnh nền kinh
tế thị trường, là cái nhìn đầy phê phán vừa
lạnh lùng, âu lo vừa khắc khoải của những
tác giả gắn tình yêu sâu đậm vào tâm hồn
đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
M. Bakhtin. (2003). Francois Rabelais và văn hóa trào tiếu dân gian. Lí luận và thi pháp
tiểu thuyết. Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn và dịch. Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.
M. Bakhtin. (1998). Những vấn đề thi pháp của Dostoyevsky. Trần Đình Sử, Lại Nguyên
Ân, Vương Trí Nhàn dịch. Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.
Lê Huy Bắc. (2012). “Bậc hiền triết – con chó xồm” hay “nhại” (parody) của Nguyễn Huy
Thiệp, Văn học hậu hiện đại lí thuyết và tiếp nhận. Hà Nội: NXB Hội Nhà văn,
tr.203-211.
Nguyễn Thị Bình. (2012). Văn xuôi Việt Nam sau 1975. Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.
Đậu Dung. (2019). Nghệ thuật sinh thái: Mỹ cảm về một thế giới bên miệng vực.
/>
26
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Garrard G. (2004). Ecocriticism (The New Critical Idiom). London and New York:
Routledge.
Gifford T. (1999). Pastoral, Routledge, the Critical Idiom series.
Lã Nguyên. (2011). Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam
qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài,
/>Thoureau H.D. (2016). Walden - Một mình sống trong rừng. Hiếu Tân dịch. Hà Nội: NXB
Tri thức.
Phạm Thị Thu. (2016). Parody/Nhại trong tiểu thuyết Việt nam đương đại, Luận án tiến sĩ.
Hà Nội: Đại học Sư phạm.
Nguyễn Thị Tịnh Thy. (2013). Phê bình sinh thái – nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc, Văn học
hậu hiện đại lí thuyết và thực tiễn. Hà Nội: NXB Đại học Sư Phạm, tr.25 – 30.
Ngày nhận bài: 25/12/2019
Biên tập xong: 15/3/2020
27
Duyệt đăng: 20/3/2020