TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA: KHÁCH SẠN – DU LỊCH
---–&—---
BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Nghiên cứu đặc điểm văn hóa vùng Trung Bộ và
việc khai thác những đặc điểm văn hóa này trong kinh
doanh du lịch.
Học phần: Cơ sở văn hóa Việt Nam
Lớp HP :2016ENTI0111
Nhóm :6
Giảng viên: Kiều Thu Hương
MỤC LỤC
PHẦN 1: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI
1.1. Lịch sử hình thành
1.2. Vị trí, địa hình
1.3. Khí hậu
1.4. Văn hóa chung của vùng văn hóa Trung Bộ
PHẦN 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA VÙNG TRUNG BỘ VÀ THỰC TRẠNG KHAI
THÁC VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ TRONG KINH DOANH DU LỊCH
2.1. Văn hóa ăn, ở
2.2. Văn hóa biển
2.3. Văn hóa Chăm Pa
2.3.1. Kiến trúc Chăm
2.3.2. Văn hóa Chăm
2.4. Tiểu vùng văn hóa xứ Huế
2.4.1. Kiến trúc Huế
2.4.2. Con người Huế
2.4.3. Ẩm thực Huế
2.4.4. Văn hóa nghệ thuật Huế
2.4.4.1.
Nghệ thuật tuồng ở Huế
2.4.4.2.
Ca Huế
2.4.4.3.
Nhã nhạc cung đình Huế
2.4.4.4.
Vũ khúc cung đình Huế
2.4.5. Lễ hội Huế
PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHAI THÁC NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
VĂN HÓA VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ TRONG KINH DOANH DU LỊCH
3.1.
Cơ sở đề xuất giải pháp
3.2.
Một vài giải pháp đề ra
PHẦN 1: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI
1.1.Lịch sử hình thành
Miền Trung Việt Nam trong lịch sử đã được gọi bằng các tên khác nhau như Trung Kỳ
(là tên gọi do vua Minh Mạng đặt ra cho phần giữa của Việt Nam kể từ năm 1834), An Nam
(theo cách gọi của người Pháp) và Trung phần (thời Việt Nam Cộng hòa). Tây Nguyên
thường được gộp vào Trung Bộ, đôi khi có tài liệu gọi vùng này bằng tên ghép Miền Trung Tây Nguyên. Tên gọi Trung Bộ được dùng sau khi vua Bảo Đại thành lập cơ quan hành chính
cấp vùng cao hơn tỉnh vào năm 1945, thay cho tên gọi Trung Kỳ gợi nhớ thời kỳ bị Pháp đô
hộ, và còn được các tài liệu chính thức của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng.
Tên gọi này cũng được nhiều người sử dụng cho đến ngày nay.
1.2.Vị trí, địa hình
Nếu nhìn từ góc độ hành chính, lâu nay, người ta hay xếp Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng
thuộc Trung Bộ, và coi là Bắc Trung Bộ. Có nhà địa lí học nói rằng, trên một ý nghĩa nào đó,
châu thổ sông Mã, sông Cả chỉ là sự "nối dài của châu thổ Bắc Bộ". Song về mặt văn hóa, từ
trước - sau công nguyên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã thuộc không gian văn hóa Đông Sơn, trước
đó nữa, có những di tích có tính chất của văn hóa Phùng Nguyên, nếu phải nhìn xa hơn thì
cồn sò hến Đa Bút, cồn Cổ Ngựa và các di chỉ hang động xứ Thanh là thuộc về không gian
văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn. Cả giới địa học và dân tộc học, văn hóa học đều coi miền núi
Thanh - Nghệ - Tĩnh là sự nối dài cùng một dải của sơn hệ Tây Bắc - Bắc Bộ. Như vậy có thể
chứng tỏ rằng chúng thuộc vùng văn hóa Bắc Bộ.
Do vậy, vùng văn hóa Trung Bộ là vùng đất thuộc lãnh thổ các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận và thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Đặc điểm địa hình vùng văn hóa Trung Bộ:
Thứ nhất, địa hình miền Trung hẹp theo chiều ngang Đông Tây, nếu quay mặt về đông thì
trước mặt mỗi người dân Trung Bộ sẽ là Biển Đông, sau lưng là dãy Trường Sơn.
Thứ hai, địa hình chia cắt theo chiều dọc Bắc Nam, bởi các đèo là những dãy núi đồi tách
từ Trường Sơn đâm ngang ra biển. Nếu tính từ Tam Điệp đèo Ba Dội thuộc xứ Thanh thì cứ
một đèo, một đèo lại một đèo, lặp đi lặp lại qua đèo Hoàng Mai, đèo Ngang, đèo Hải Vân,
đèo Cù Mông v.v.. Đây là chỉ kể các đèo con, chứ thật ra còn nhiều đèo khác, chẳng hạn đèo
Lý Hòa, núi Lễ Dễ (hay núi Ma Cô) ở giữa Quảng Bình, đèo Bình Đê ở khoảng giữa Quảng
Ngãi và Bình Định. Dưới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều Đông Tây
ra biển, sông ngắn, nước biếc xanh, ít phù sa, châu thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu tạo thành các
vịnh, cảng. Vận động tạo sơn còn "ném" ra biển xa các đảo và quần đảo. Chưa kể các quần
đảo san hô xa khơi như Hoàng Sa, Trường Sa, chỉ nói các hòn đảo gần bờ như Hòn Gió
(Quảng Bình); Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú
Quý (Phú Yên), Hòn Tre (Khánh Hòa) v.v..., tạo ra những "bình phong" ngăn chặn bớt sóng
gió Biển Đông.
1.3. Khí hậu
Là vùng có điều kiện khí hậu khắc nghiệt nhất trong cả nước. Hàng năm thường xảy ra
nhiều thiên tai như mưa nhiều , bão,lũ, gió Lào, hạn hán…
Vùng này cũng chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc lạnh, tuy nhiên không nhiều như
Bắc Bộ. Điều kiện khí hậu của vùng gây khó khăn cho sản xuất đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp.
1.4. Văn hóa chung vùng văn hóa Trung Bộ
Khác với Nam Bộ được khai phá muộn hơn, khác với Bắc Bộ là địa bàn tụ cư và khai
thác lâu đời của người Việt, vùng Trung Bộ một thời kì dài thuộc các tiểu quốc của
vương quốc Chăm-pa. Trước khi người Việt vào nơi này, nền văn hóa Chăm Pa một
thời rạng rỡ, như một ánh hào quang hắt lên mặt nước trong buổi chiều tà. Vì vậy, đặc
điểm thứ nhất của vùng văn hóa Trung Bộ phải là một vùng đất chứa nhiều dấu tích
văn hóa Chăm pa.
Mặt khác, Trung Bộ là vùng đất được người Việt khai phá theo kiểu tiệm tiến. Sự cộng
cư với người Chăm, thái độ ứng xử với những vốn văn hóa hiện diện trên mặt đất tàng
ẩn dưới lòng đất theo bản chất hiền hòa của người Việt, tạo cho sự giao lưu văn hóa ở
đây có những điểm khác biệt.Trước hết, người Việt tiếp nhận những di sản văn hóa
của người Chăm, Việt hóa biến thành di tích văn hóa của mình. Tháp Chăm, đền Chăm
khi người Chăm ra đi thì người Việt thờ cúng, sử dụng. Chẳng hạn như Tháp Bà ở Nha
Trang tỉnh Khánh Hòa, vốn là một ngôi tháp của người Chăm, được người Việt sử
dụng, coi như nơi thờ tự, linh thiêng của tín ngưỡng thờ Mẫu, một tín ngưỡng của
người Việt.
So với thiên nhiên Bắc Bộ và Nam Bộ, Trung Bộ là vùng đệm, mang tính chất trung
gian. Vì thế, sự phản ánh thiên nhiên đa dạng của một vùng đất là đặc điểm thứ ba của
vùng văn hóa này. Yếu tố biển, sông, đầm, đồng bằng, núi non đều ánh xạ vào trong
các thành tố văn hóa, từ diện mạo đến các phương diện khác. Có thể thấy ngay điều
này từ diện mạo các loại hình văn hóa, với Trung Bộ, làng làm nông nghiệp tồn tại đan
xen với làng của ngư dân. Bên cạnh lễ cúng đình của làng nông nghiệp là lễ cúng cá
ông của làng làm nghề đánh cá. Điều này là đương nhiên, bởi lẽ, đồng bằng Trung Bộ
thường là đồng bằng nhỏ hẹp, sát biển.
Trong văn hóa đời thường, bữa ăn của cư dân Việt Trung Bộ đã bắt đầu có sự thay đổi,
nghiêng về các hải sản, đồ biển. Nói cách khác, yếu tố biển đã đậm đà hơn trong cơ
cấu bữa ăn của cư dân ở đây. Mặt khác, người dân Việt Trung Bộ, do tính chất khí hậu,
nói rộng hơn là điều kiện tự nhiên chi phối, nên sử dụng nhiều chất cay trong bữa ăn.
Tóm lại, vùng văn hóa Trung Bộ có những đặc điểm riêng của mình, khi đặt trong tương
quan với các vùng văn hóa khác.
PHẦN 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA VÙNG TRUNG BỘ VÀ THỰC TRẠNG
KHAI THÁC VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ TRONG KINH DOANH DU
LỊCH
2.1. Văn hóa ăn, ở
Về văn hóa ở:
Đặc điểm:
Người dân miền Trung chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng duyên hải sát biển và
thưa hơn ở vùng ven sát với Lào và Campuchia. Điều này đã dẫn đến hình thành các khu đô
thị, các thành phố sát biển phát triển với những cảnh đẹp và đô thị phát triển như Khánh Hòa,
Đà Nẵng,...
Thành phố Đà Nẵng- 1 trong những thành phố tập trung đông dân cư nhất của Trung Bộ
Nhà rông Tây Nguyên
Nếu kiến trúc nhà ở truyền thống của người Việt thường đơn giản gồm nhà, sân, vườn, ao
thì nhà ở truyền thống miền Trung có gì phù hợp với văn hóa ở của người dân nơi đây? Kiến
trúc nhà ở miền Trung bao gồm nhiều nếp nhà được xây dựng với mái liền kề. Trong đó nhà
trên để đặt bàn thờ tổ tiên còn nhà dưới để sinh hoạt. Đa số nhà miền Trung được xây dựng là
nhà 4 mái có đầu hồi. Diện tích nhà miền Trung cũng xây dựng lớn hơn so với miền Bắc. Hệ
thống nhà truyền thống này cũng là 1 nét đẹp trong văn hóa mà người miền Trung luôn bảo
tồn và giữ gìn. Tây Nguyên cũng là 1 phân cuả Trung Bộ với nét văn hóa ở nhà sàn, tập trung
trong 1 buôn làng, 1 bản,…
Khai thác trong kinh doanh du lịch:
+ Tour du lịch ở những thành phố đẹp và nổi tiếng của Trung bộ như Huế, Khánh Hòa ,Đà
Nẵng ,….
+Tour du lịch khám phá nét văn hóa nhà ở truyền thống của người miền Trung
+Tour du lịch tìm hiểu về dân tộc vùng Tây Nguyên với văn hóa nhà sàn và cộng đồng dân
tộc nơi đây
Về văn hóa ăn:
Đặc điểm:
Miền Trung ở sát với biển, nên trong văn hóa đời thường, bữa ăn của cư dân Việt Nam ở
Trung Bộ đã bắt đầu có sự thay đổi nghiêng về đồ biển và hải sản. Nói cách khác, yếu tố biển
đã đậm đà hơn trong cơ văn hóa ăn của người dân nơi đây.Mặt khác, người dân Việt ở miền
Trung, do tính chất khí hậu, nói rộng hơn là điều kiện tự nhiên chi phối, nên sử dụng nhiều
chất cay trong bữa ăn. Nhắc đến văn hóa ăn, ta có thể nhắc đến 1 nền văn hóa ẩm thực đầy đa
dạng của miền Trung ở các tiểu vùng như xứ Huế, xứ Nghệ , …với nhiều nét riêng biệt của
từng vùng mà không có nơi nào có được.
Khai thác trong kinh doanh du lịch:
Tổ chức các lễ hội ẩm thực giới thiệu nền văn hóa ẩm thực đa dạng và phong phú
đến các du khách trong và ngoài nước, phát triển 1 nền ẩm thực riêng, mang 1 màu
sắc độc đáo mà chỉ vùng Trung Bộ mới có được.
Việc khai thác du lịch miền Trung trong văn hóa ăn và ở tuy có những ưu điểm
nhưng cũng có những nhược điểm nhất định mà chúng ta phải rút ra để khắc phục:
* Ưu điểm:
Miền Trung đã có sẵn những nền văn hóa ăn, ở rất đa dạng, tự nhiên, lâu đời
và vẫn còn giữ được bản sắc cho tới ngày nay. Nên việc đưa những nền văn hóa
này vào khai thác có phần dễ dàng và nhanh chóng hơn, cũng không mất quá
nhiều vào việc phục hồi những nền văn hóa này. Hơn nữa nền kinh tế của miền
Trung cũng có thể phát triển đi lên nhờ việc thu hút khách du lịch đến tham quan
và trải nghiệm và cũng góp phần giúp nền văn hóa Trung Bộ được biết đến rộng
rãi hơn tới bạn bè quốc tế trong và ngoài nước, có cơ hội được bảo tồn và phát
triển ngày càng đa dạng và phong phú hơn.
* Nhược điểm:
Một số vùng văn hóa còn tồn tại ở các vùng sâu xa của Trung Bộ hay vùng Tây
Nguyên ở miền núi cao nên việc khai thác du lịch ở đây còn nhiều hạn chế trong
việc di chuyển, khai thác. Việc đưa khai thác du lịch ở miền Trung cũng phải đối
mặt với việc làm tổn hại đến các kiến trúc, cảnh quan,..nếu không có những biện
pháp bảo vệ thích hợp trong quá trình khai thác du lịch.
2.2. Đặc điểm văn hóa biển
Đặc điểm:
Phương tiện đánh cá: ghe mành, ghe bầu, thuyền thúng, thuyền chai,…
Nghề sinh sống: nghề giã cào đơn, giã cào đôi, cào ngao, bắt cáy, đập hàu, câu mực,
vớt sứa, nuôi trồng thủy sản,..
Ẩm thực: ăn kèm với các gia vị mang tính nhiệt, đậm mùi, cay nồng ( ớt, gừng, nghệ,
hành, tỏi,…) chế biến đơn giản xong vẫn giữ được vị tươi ngọt của thực phẩm.
Tín ngưỡng: Thờ cá ông và các vị thần biển ( Thủy Long công chúa, Long Vương,
Ngũ xà,..)
Lễ hội dân gian: lễ hội cầu ngư
Tri thức dân gian: Nhật trình đi biển, vè đi biển…
“Chóp Chài đội mũ
Mây phủ đá bia
Ếch nhái kêu lia
Trời mưa như đổ”
Cấu kết cộng đồng : khi thuyền có nguy cơ bị chìm, buộc ngón tay vào nhau tạo dây
người, đóng góp và phân chia các sản phẩm lao động.
Cách thức tổ chức: Làng và vạn
Khai thác trong kinh doanh du lịch:
Festival biển chỉ có cầu ngư mới thể hiện được nét văn hóa của dân biển Khánh Hòa.
Lần này, nó khác một chút là nó thể hiện được đúng nghệ thuật đường phố, do những
người làm nghề ngư phủ, trực tiếp biểu diễn trên đường phố. Để rồi người xem, người
diễn hòa vào nhau, tạo thành không gian của Lễ hội.
Nghề nuôi cá lồng bè là một nghề mới hình thành ở Bình Thuận vào những năm 1990,
chủ yếu ở Phú Quý. Đây là một trong những nghề nuôi hải sản xuất khẩu có giá trị
kinh tế cao, chủ yếu nuôi các loại cá mú, cá bớp và tôm hùm có giá trị cho xuất khẩu.
Nghề này gắn với mô hình du lịch homestay trên biển, thu hút ngày một nhiều du
khách với loại hình du lịch tham quan, nghỉ ngơi tại nơi nuôi cá lồng bè. ẩm thực
miền biển cũng là thế mạnh có thể níu chân du khách nếu ta biết cách khai thác.
Đưa các loại đặc sản biển vào thực đơn của các tour du lịch, để giới thiệu nền ẩm thực
địa phương đến với du khách, kể cả các món ăn dân gian như bánh quai vạc, cốm,
bánh rế, bánh xèo... Và tổ chức các chuỗi cửa hàng đúng tiêu chuẩn về vệ sinh, bao bì,
nhãn mác, giá cả để bán các đặc sản địa phương: nước mắm, hải sản khô, thanh
long…
Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) là nơi có nhiều thắng cảnh nổi tiếng, được xem như là một
trong những vùng biển có độ đa dạng sinh học cao với các hệ sinh thái điển hình.
Năm 2013 khi Lý Sơn hòa lưới điện quốc gia, lượng du khách đến với hòn đảo này
tăng đột biến. Trong năm 2016, huyện đảo đón hơn 165.000 du khách trong và ngoài
nước, tăng 37,5 lần so với năm 2010. Riêng 7 tháng đầu năm 2018, có hơn 210.000
du khách ra đảo Lý Sơn tham quan, nghỉ dưỡng.
* Một số hình ảnh về vùng biển Trung Bộ
Cửa Lò
Biển Lý Sơn
2.3.Văn hóa Chămpa
Biển Cửa Đại – Hội An
Bãi biển An Bàng – Quảng Nam
Có thể coi các tỉnh ven biển miền Trung – từ Quảng Bình đến Bình Thuận – và các tỉnh khu
vực Tây Nguyên là thuộc địa bàn của vương quốc Chămpa cổ xưa.
2.3.1. Kiến trúc Chăm
Trong lĩnh vực văn hoá vật thể thì nghệ thuật Champa cổ và nghệ thuật Việt cổ có nhiều nét
tương đồng. Nhìn chung thì nghệ thuật Champa có trước nghệ thuật Việt và đã đạt đỉnh cao
ngay khi nghệ thuật Việt độc lập chưa ra đời.
Đặc trưng của các ngôi tháp Chăm Pa:
Mọi ngôi tháp đều được xây bằng gạch hoặc chủ yếu bằng gạch. Gạch có màu đỏ
hồng, đỏ sẫm, được nung trước với độ xốp cao, được xây không có mạch vữa và có
thể có điêu khắc trực tiếp trên gạch.
Có chiều cao lớn hơn vài ba lần so với chiều ngang thân tháp. Tỷ lệ các phần của tháp
có tính nhân bản, nghĩa là nó được xuất phát từ con người.
Tháp có phần ngọn được thu nhỏ dần hoặc giật cấp.
Các trang trí kiến trúc, điêu khắc có tính nhịp điệu, tính lặp lại và đồng dạng, đăng
đối.
Đa phần các tháp có cửa quay ra hướng Đông, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí
đăng đối với cửa chính.
Trong tháp theo nguyên mẫu có thờ thần Siva, biểu trưng là bộ ngẫu
tượng Yoni và Linga được làm bằng sa thạch.
Tháp thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi cao, không gần chỗ người dân sinh
sống.
*Phong cách tháp Chăm ở thánh địa Mỹ Sơn:
Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn . Những cột
ốp trên mặt tường đứng thành đôi một. Đứng giữa hai cột ốp là các bức tượng người. Các
vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc gì. Bộ diềm kép, các hình đá trang
trí góc được khoét thủng. Thân chính của tháp được xây dựng có hình dáng cao vút lên và các
tầng thu nhỏ dần lại.
* Phong cách tháp Chăm ở Bình Định:
Nếu như ngôn ngữ nghệ thuật chính của các tháp Champa thuộc phong cách trước là
thành phần kiến trúc đều đi vào đường nét thì ở phong cách này đó lại là mảng khối: vòm cửa
thu lại và vút lên thành hình mũi giáo, các tháp nhỏ trên các tầng cuộn lại thành các khối
đậm, khỏe, các trụ ốp thu vào thành một khối phẳng, mặt tường có các gân sống.
Tháp Cánh Tiên
Tháp Bánh Ít
Giá trị của kiến trúc đền Chăm
Các đền tháp Champa phản ánh đầy đủ và chân thực hoàn cảnh văn hoá Champa từ
giai đoạn đầu tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cho đến giai đoạn thích
nghi, tiếp biến và trỗi dậy mạnh mẽ tính bản địa và sự giao lưu thường xuyên về mặt
văn hóa bên cạnh các mặt kinh tế - chính trị với các dân tộc liền kề.
Giá trị nghệ thuật của các hình điêu khắc, ngoài việc giúp đỡ cho các đền tháp đẹp
hơn còn có ý nghĩa văn hóa đặc biệt, giúp cho việc nghiên cứu sâu hơn về niên đại,
phong cách và chức năng của các đền tháp.
2.3.2. Văn hóa Chăm
Đặc điểm:
Dù chịu ảnh hưởng sâu sắc nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của văn minh Ấn Độ, nhưng
người Chăm xưa đã biết nhìn đời sống và tôn giáo theo những cảm quan riêng của mình. Sự
tiếp thu có chọn lọc đó đã tạo ra thế giới nghệ thuật Chăm một vẻ đẹp rất riêng, gần gũi
nhưng lại thiêng liêng, quen thuộc nhưng lại độc đáo, tinh tế, không lẫn lộn. Chế độ mẫu hệ
và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn tại ở cộng đồng người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn
bà lo việc trong nhà và gia phả; con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần. Nhưng gái cưới
chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, khi chết nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang,
sau đó mang hài cốt trả lại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản,
người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Kiến trúc nhà ở, nếp sống sinh hoạt, trang phục nam, nữ của người Chăm có nhiều điểm khác
biệt và nét tinh tế riêng, rất hấp dẫn khách du lịch.
Dân tộc Chăm có nhiều lễ hội, trong đó hai lễ hội quan trọng chính là Lễ hội Katê (Ninh
Thuận, Bình Thuận) và Lễ hội Ponagar (Khánh Hoà). Các lễ hội này mang tính tôn giáo tín
ngưỡng, tuy nhiên bao giờ cũng đi kèm với các trò vui như ngâm thơ, chơi nhạc hoặc trình
diễn các nghề khéo tay. Chămpa cổ có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng tôn thờ Nữ thần Mẹ của
vương quốc là Pô Inư Nagar theo truyền thống tín ngưỡng Mẫu hệ lâu đời của cư dân Đông
Nam Á. Tín ngưỡng này còn tồn tại khá đậm nét trong xã hội người Chăm hiện nay. Từ khi
tiếp nhận ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ, người Chăm cổ theo Ấn Độ giáo. Tôn giáo
chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, thờ một hay cả 3 vị thần của Tam Vị nhất thể là
Brahma-Visnu-Siva. Tuy nhiên, người Chăm cổ tôn sùng thần Siva hơn cả. Các văn bia cổ
bằng Phạn ngữ ở Di tích Mỹ Sơn cho biết người Chăm đã tôn Siva là chúa tể của muôn loài,
là cội rễ của nước Chămpa. Thần Siva thường được thờ bằng ngẫu tượng sinh thực khí nam
giới. Ngoài ra người Chăm cổ còn theo Phật giáo với Trung tâm Đồng Dương (Quảng Nam)
phát triển cực thịnh hồi thế kỷ IX-X.
Tiêu biểu cho quá trình tiếp biến văn hóa ở Trung Bộ của người Việt là tiếp thu tín
ngưỡng thờ bà mẹ xứ sở (Po yan Ina Nagar) của người Chăm. Với tín ngưỡng thờ Mẫu ẩn
trong tâm thức, khi vào Trung Bộ. người Việt gặp tín ngưỡng này của người Chăm, họ đã tiếp
thu các nữ thần Chăm và chuyển hóa thành các nữ thần Việt Nữ thần Mưjưk của người Chăm
được biến thành bà Chúa Ngọc. Câu chuyện mà Phan Thanh Giản ghi trên bia kí ở sau Tháp
Bà, là câu chuyện đã Việt hóa sự tích một nữ thần chăm tại điện hòn Chén, thánh mẫu Vân
Hương (tức thánh Mẫu Liễu Hạnh) được đưa vào điện thần cùng với bà chúa ngọc. Nói cách
khác đi là, sự tiếp biến văn hóa đã khiến diện mạo tín ngưỡng của người Việt ở Trung Bộ thay
đổi, so với người Việt Bắc Bộ.
Lễ hội Katê
Lễ hội Ponagar
Khai thác trong kinh doanh du lịch:
Dọc miền Trung, nhiều di sản văn hóa hữu thể còn tồn tại trên mặt đất. Đó là các tháp
Chăm phơi sương gió cùng năm tháng. Lịch sử đi qua bao nỗi thăng trầm, cuộc đời
phải trải qua bao cơn dâu bể, tháp Chăm vẫn sừng sững như một dấu ấn không thể
phai mờ. (Ở Huế, theo tác giả Trần Đại Vinh, còn tháp đôi Liễu, Cốc Thượng, tháp
Núi Rùa. Ở Quảng Nam, Đà Nẵng, tại Mỹ Sơn đã có 7 tháp, "đại diện tiêu biểu cho
tất cả các giai đoạn và phong cách nghệ thuật kiến trúc Chămpa, tại Bằng An có 1
tháp, tại đồng Dương có 1 tháp, tại Chiên đản có 3 tháp, tại Khương Mỹ có 3 ngôi
tháp. ở Bình Dương có tháp Phước Lộc, tháp Cánh Tiên, tháp Bánh ít, tháp Bình Lâm,
tháp Thủ Thiện, ba ngôi tháp Dương Long; hai ngôi tháp ở Hưng Thạnh. ở tỉnh Phú
yên có tháp Nhạn; ở Khánh Hòa có tháp Pô Nagar; ở Ninh thuận có cụm tháp Hòa
Lai, cụm tháp Núi Trầm; ở Bình Thuận có tháp Pô Đam (hay Pô Tấm), tháp Phú Hải).
Cùng các di sản văn hóa hữu thể, vùng Trung Bộ còn khá nhiều các di sản văn hóa vô
thể của văn hóa Chăm pa. Đó là các địa danh Việt mà chúng ta có quyền ngờ rằng, gốc
tích của nó phải là các địa danh Chăm, kiểu như Cồn Ràng, Cồn Lồi, Cồn Mọi. Đó là
các tín ngưỡng dân gian của người Chăm như thờ bà mẹ xứ sở, thờ cá voi, thờ thần
biển .v.v...)
Hiện nay, nhiều di tích lịch sử, văn hoá nghệ thuật đã được quy hoạch tôn tạo và đưa
vào phục vụ du lịch, nhiều loại hình sinh hoạt văn hoá dân tộc đã được khai thác, các
ngành nghề thủ công truyền thống đã được chú ý khôi phục. Đáng kể nhất là việc tu
sửa các di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật, các đền tháp, tiêu biểu là tháp Chăm
Trong những năm gần đây, sản phẩm văn hóa Chăm cung ứng cho hoạt động du lịch ở
các tỉnh miền Trung đã được lưu ý.Thời gian qua đã có hàng ngàn lượt du khách trong
và ngoài nước tìm đến các làng nghề thủ công truyền thống của người Chăm như: làng
gốm Bàu Trúc, làng dệt Mỹ Nghiệp ở Ninh Thuận để tham quan. Vào các dịp lễ hội
Katê hàng năm, các tháng Ramađan (người Chăm ở Ninh Thuận quen gọi là
Ramưwan) ở Ninh Thuận đã thu hút hàng vạn du khách tham dự, chiêm ngưỡng tháp
Chăm, âm nhạc, vũ đạo và ác nghi lễ cúng tế thần thánh...
Ngoài ra, một số nhà khoa học nước ngoài đi theo hình thức tour du lịch để nghiên cứu
văn hóa Chăm ở các tỉnh miền Trung .Những hoạt động du lịch văn hóa Chăm ở các
tỉnh miền Trung đang được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng một số ban ngành
liên quan của các tỉnh chú trọng và quan tâm rất nhiều.
2.4. Tiểu vùng văn hóa xứ Huế
2.4.1. Kiến trúc Huế
Đặc điểm:
Kiến trúc ở Huế rất phong phú, đa dạng: có kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian,
kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu, kiến trúc truyền thống và kiến trúc hiện đại... Những
công trình kiến trúc công phu, đồ sộ nhất chính là quần thể kiến trúc dưới triều các vua
Nguyễn. Mỗi công trình kiến trúc là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, đặc sắc, độc đáo,
thể hiện một phần những yếu tố triết lý, tâm linh và giá trị thẩm mỹ riêng biệt đã góp phần
làm cho Huế trở thành "bài thơ đô thị tuyệt tác".
Với phong cách riêng, quần thể kiến trúc kinh thành, đền đài, lăng tẩm, nhà cửa nơi
đây đã hoà quyện cùng ngoại cảnh thiên nhiên thơ mộng của sông suối, núi rừng, bãi đồi xứ
Huế. Quốc Sử Quán triều Nguyễn khi nói lên lý do chọn Huế làm kinh đô đã từng viết: "Nơi
miền núi, miền biển đều họp về, đứng giữa miền Nam, miền Bắc, đất đai cao ráo, non sông
phẳng lặng, đường thuỷ thì có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm, đường bộ thì có Hoành
Sơn, dải Hải Vân chặn ngang, sông lớn giăng phía trước, núi cao phủ phía sau, rồng cuộn hổ
ngồi, hình thế vững chãi, ấy là do trời đất xếp đặt, thật là thượng đô...". Với cái nhìn phong
thuỷ, kinh đô Huế được xây dựng trên một địa thế núi sông, âm dương hoà hợp, tạo nên một
không gian kiến trúc "tạo cảnh" mang nhiều triết lý sâu xa, huyền bí.
Đại nội Huế
Tử Cấm Thành
Khai thác trong kinh doanh du lịch:
* Ưu điểm:
Hoàng thành
Lăng Khải Định
Huế là vùng đất có nhiều lợi thế về phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch di sản. Hiện nay
đã có rất nhiều các tour du lịch truyền thống ( tham quan lăng tẩm, chùa chiền, nhà vườn,
đầm phá và cuối cùng là buổi trò chuyện với thầy Bửu Ý - dịch giả của nhiều tác phẩm
văn
học
nổi
tiếng
)
được
tổ
chức,
thực
hiện.
* Hạn chế:
Nhưng du lịch huế vẫn chưa khai thác hết được tiềm năng, chưa thu hút được lượng
lớn khách du lịch, chưa níu chân được du khách dài ngày. Khi du khách đến Huế,
ngoài việc tham quan lăng tẩm thì không có nhiều nơi để vui chơi, giải trí và mua
sắm…đúng nghĩa.
Nhiều du khách khi tham quan di sản có chung nhận định rằng chỉ cần 1 ngày là có
thể tham quan hết tất cả các di sản và những loại hình dịch vụ trong quần thể di sản
không hấp dẫn và độc đáo để níu kéo họ. Và như vậy, việc xem Huế là điểm dừng
chân tạm thời chứ không phải là nơi lưu trú để tham quan cũng là điều dễ hiểu. Cần
có chiến lược tour tham quan các khu di tích lịch sử một các rõ ràng cụ thể.
Nhiều di tích nay đã trở thành phế tích, thậm chí có nơi bị xóa sổ hẳn trên mặt đất, khi
tiến hành nghiên cứu khảo cổ, hiện trạng còn lại rất mờ nhạt nhưng đó vẫn là một
phần trong hệ thống kinh đô xưa. Đối với những phế tích, không nhất thiết để trống
địa điểm đó mà chấp nhận trong khi đi tìm kiếm tư liệu lịch sử để phục hồi có thể sử
dụng nó hợp lý nhưng phải đặt trong tổng thể kiến trúc kinh thành Huế. Việc ứng xử
và sử dụng quỹ đất ở những vị trí này như thế nào cũng là vấn đề mà địa phương đang
gặp nhiều vướng mắc.
* Giải pháp:
Đầu tư hình thành các khu giải trí, mua sắm: Hình thành trung tâm mua sắm tập trung
phục vụ cho đối tượng khách du lịch tàu biển và các đoàn có số lượng khách đông,
loại hình này thiết lập tại thành phố Huế và khu Chân Mây.
Phát huy nét đặc trưng của du lịch tâm linh, đặc biệt tại các địa điểm hiện nay du
khách đang quan tâm như Đền Huyền Trân, Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã, Tượng
Quán Thế Âm, các cổ tự..., đáp ứng xu hướng hiện nay của khách du lịch đang hướng
tới trải nghiệm sự thanh tịnh. Hình thành các dịch vụ trên và hai bên bờ sông Hương
dựa trên thưởng thức cảnh quan, quy hoạch 2 bờ sông Hương do tập đoàn Koica Hàn Quốc đang tư vấn triển khai đồng thời phát triển mạnh du lịch nông thôn, du lịch
dựa vào cộng đồng tại làng cổ Phước Tích, cầu ngói Thanh Toàn.
Những di tích đã trở thành phế tích vẫn có thể sử dụng khai thác quỹ đất khi Nhà
nước chưa đủ kinh phí để trùng tu, khôi phục. Đó là những giải pháp tạm thời có tính
khả thi lớn, biến những nơi này thành địa chỉ văn hóa phù hợp. Để làm được điều này,
tỉnh Thừa Thiên - Huế cần xây dựng được một bộ công cụ kết hợp hài hòa lợi ích của
Nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng và khuôn khổ quy định của luật pháp. Bộ công
cụ này sẽ cung cấp thông tin về những công trình lịch sử đã từng tồn tại ở những vị trí
nay là phế tích, mô hình kiến trúc phù hợp có thể xây dựng với chiều cao, chất liệu,
màu sắc cụ thể qua đó kêu gọi các doanh nghiệp có ý tưởng đầu tư phù hợp.
Điều này vừa tạo ra một sinh khí mới cho di tích, tránh tình trạng để hoang hóa hoặc
xu hướng ngược lại là xây dựng lên những công trình mới không phù hợp với cảnh
quan chung. Qua đó làm phong phú thêm những sản phẩm du lịch cho du khách khi
đến tham quan quần thể Cố đô Huế.
2.4.2. Con người Huế
Đặc điểm:
Bạn đã từng tiếp xúc với người Huế thì sẽ không thể quên giọng nói ngọt ngào, nhẹ
nhàng, dễ thương của họ. Mặc cho ở bất kì đâu nhưng chỉ cần nghe tiếng “dạ”, “thưa” mềm
mại thì ai cũng có thể nhận ra đấy là giọng Huế đặc trưng. Người Huế thân thiện, nhiệt tình
và vô cùng hiếu khách. Đặc biệt là ở người con gái Huế, bạn sẽ không thể nào không yêu quý
họ bởi sự thanh tao, nhẹ nhàng trong cử chỉ, duyên dáng trong cách cư xử và giọng nói dễ
thương trong tà áo dài sắc tím mộng mơ bên chiếc nón bài thơ. Văn hóa Huế đặc trưng chính
bởi vẻ đẹp trong con người Huế dù bạn có tiếp xúc một lần nhưng mỗi lần nhớ đến cũng
khiến bạn không khỏi yêu mến.
Huế từng là kinh đô của nước ta vào thời phong kiến của triều Nguyễn. Nên khái
niệm về tam cương, ngũ thường gần như in đậm vào tâm trí của con người Cố Đô.
Nếu như các chàng trai sở hữu giọng nói ấm, trầm, sâu lắng thì nét dịu dàng, dễ
thương pha lẫn với sự e ấp, kín đáo hiện rõ qua từng hành động, lời nói của các cô gái
nơi đây. Không phải chỉ khi Du lịch Huế du khách mới bắt gặp được những nét đặc
trưng này mà hầu như bất cứ nơi nào những người con của xứ Huế đặt chân đến thì
đều mang theo nét đặc trưng vốn có của chốn này.
Du khách có thể cảm nhận rõ được sự gần gũi của người dân nơi đây. Người Huế
luôn nở nụ cười trên môi khi gặp người khác bất kể bạn là người địa phương hay là
khách du lịch. Họ luôn sẵn sàng giúp đỡ bạn hết sức có thể.
Nếu như sự phóng khoáng tạo nên nét đặc trưng của người miền Nam , còn con
người miền Bắc toát lên vẻ nền nã, lịch thiệp, thì người Huế của miền Trung nhã
nhặn, ít nói và rất cẩn trọng trong lời nói thường ngày. Chính điều này đã tạo nên nét
đặc trưng trong tính cách con người Huế.
Cùng với áo dài mà sắc tím và trắng luôn làm chủ đạo cùng với chiếc nón bài thơ mà
đâu đâu du khách cũng có thể thấy Huế đã tạo cho con người Huế một nét quyến rũ lạ
thường nếu du khách có dịp thấy những đoàn nữ sinh ngày ngày cặp sách qua cầu
Trường Tiền đi học.
2.4.3. Ẩm thực Huế
Đặc điểm:
Nói đến ẩm thực xứ Huế, bạn sẽ không khỏi cảm thán bởi sự cầu kì trong cách chế biến,
bài trí của họ. Chỉ đi một vòng tour Huế thưởng thức hết các món ngon đặc sản Huế nổi tiếng
từ bún bò, cơm hến, bún hến đến các loại bánh đặc sản xứ Huế, chè Huế, bạn sẽ cảm thấy
thời gian không bao giờ là đủ để cảm nhận hết những món ăn này.
* Cơm hến:
Cơm hến ngon nhất chỉ có ở Huế. Cơm hến tuy là món ăn dân dã có khắp mọi nơi dù ở
thôn xóm hay đường quê, nghèo mà vẫn sang, đậm đà hương vị. Cơm hến được làm từ cơm
trắng nấu chín và để nguội. Người ta cho phần thịt hến cùng các phụ gia, thêm tóp mỡ được
chiên giòn. Cơm hến có thêm chút mắm ruốc Huế vừa bùi, chát, cay và hăng. Được ăn kèm
với phụ gia là rau sống gồm có: rau sống, bắp chuối, giá đỗ và ít thân khoai môn trắng thái
nhỏ. Lạc được rang vàng và phi dầu vàng cho có màu đẹp mắt.
Cơm hến ngon nhất là ở cồn Hến, hoặc quán chị Nhỏ, bán trong ngõ đường Phạm Hồng Thái,
góc giao với Trương Định – nhưng chỉ bán buổi sáng, đến trưa là hết, hoặc không thì ăn ở số
2 Trương Định. Cơm hến khá rẻ, một tô chỉ khoảng 10.000 đồng.
Các món ăn dân gian được nấu theo lối Huế vẫn được người Huế lưu giữ hơn 1000 món
ăn khác nhau. Người Huế nấu ăn chú trọng vào chất hơn lượng với nghệ thuật trình bày đẹp
mắt, nghệ thuật tinh tế. Nếu có cơ hội hãy một lần chiêm ngưỡng bàn ngự thiện của nhà vua
nhà Nguyễn, bạn sẽ không khỏi cảm giác thán phục những món ăn cao lương mĩ vị, được bố
trí công phu, tỉ mỉ, nấu nướng cầu kì.
Khai thác trong kinh doanh du lịch:
Mặc dù không có một loại hình du lịch mang tên du lịch ẩm thực và không có một du
khách nào đi du lịch thuần túy về ăn uống nhưng trong bất cứ loại hình nào cũng chứa đựng
tư tưởng du lịch về ẩm thực. Theo số liệu thống kê của Viện nghiên cứu phát triển du lịch Tổng cục du lịch Việt Nam, giai đoạn 1995 - 2000 khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đã chi
65% tổng chi tiêu cho các dịch vụ lưu trú và ăn uống. Điều này khẳng định vai trò quan trọng
của dịch vụ ăn uống trong cơ cấu thu nhập từ các hoạt động du lịch ở Việt . Riêng ở Thừa
Thiên Huế trong những năm qua, dịch vụ kinh doanh ăn uống đã thu được khoảng từ 36 - 40
tỷ đồng so với những dịch vụ kinh doanh khác. Điều ấy cho thấy trong các tour du lịch Huế,
"ẩm thực" thật sự có một chỗ đứng không chỉ mang lại lợi nhuận về kinh tế mà còn được xem
như là lời mời hấp dẫn nhất với du khách khi đến vùng đất thơ mộng này.
*Ưu điểm :
Huế đang thừa hưởng, lưu giữ nhiều giá trị di sản văn hóa quý giá của dân tộc;
trong đó có ẩm thực, được xem là di sản phong phú và là nền văn hóa ẩm thực
tinh tế bậc nhất Việt Nam.
Du khách khi đến Huế đa phần đều bị thu hút bởi lối ẩm thực thanh tao, đặc
sắc của Huế. Thậm chí lui đến nơi đây vì văn hóa ẩm thực này.
Các nhà hàng hoặc các phố ẩm thực ngày càng phát triển và mở rộng quy mô.
* Nhược điểm:
Về mặt nhận thức, có thể thấy đa số chỉ tiếp cận ẩm thực dưới khía cạnh là
hoạt động gắn với du lịch mà chưa xác định đó là một loại hình du lịch. Tư
duy này chưa bắt kịp tốc độ phát triển của du lịch kể cả lý thuyết lẫn thực tiễn.
Vì thế, nhiều doanh nghiệp chỉ xem ẩm thực là một phần được tích hợp của
chuyến đi, đóng vai trò phục vụ nhu cầu ăn nghỉ đơn thuần của du khách.
Một số ít tour khai thác ẩm thực theo yêu cầu của du khách chỉ dừng ở mức độ
giới thiệu cơ bản một số món ăn đặc sản, truyền thống. Thiếu cơ sở vật chất để
phục vụ những đoàn lớn, nhân sự hướng dẫn nấu ăn thiếu chuyên nghiệp cả
nghề lẫn tiếng, món ăn Huế có khi chỉ duy trì tên gọi nhưng nguyên liệu và
cách chế biến không còn nguyên bản…
Về quảng bá truyền thông, lâu nay Huế chưa hình thành được thông điệp sử
dụng cho việc quảng bá ra ẩm thực thế giới.
Các món ăn dân dã mang đậm phong vị địa phương chưa được quy hoạch một
vị trí, du khách rất khó để có thể thưởng thức tất cả các món ăn trong một thời
gian ngắn mà thường phải di chuyển rất xa, đi từ con phố này qua các con phố
khác.
2.4.4. Văn hóa nghệ thuật Huế
2.4.4.1.Nghệ thuật tuồng ở Huế:
Nghệ thuật tuồng phát triển sớm từ thế kỉ 17 dưới thời chúa Nguyễn. Đến triều Nguyễn,
tuồng trở thành quốc kịch và rất được xem trọng. Triều đình nhà Nguyễn đã ban hành nhiều
chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho nghệ thuật tuồng phát triển. Ngày nay khi đến du lịch
Huế, bạn có cơ hội đi thăm Đại Nội Huế sẽ được tham quan nhà hát Duyệt Thị Đường, Tĩnh
Quang Viện, Thông Minh Đường. Dưới triều Minh Mạng, nhà vua đã cho xây dựng Thanh
Bình Thự làm nơi dạy tuồng cho diễn viên. Vua Tự Đức thì thành lập Ban Hiệu Thư chuyên
chỉnh lí, hiệu đính và sáng tác tuồng. Các vở tuồng cung đình vẫn còn được lưu truyền,
thường xuyên biểu diễn ngày nay có thể kể đến như: Sơn Hậu, Dương Chấn Tử, Tam nữ đồ
Vương, Hồ thạch phủ, Lý Phụng Đình, Giác oan,…
2.4.4.2.Ca Huế:
Nếu chưa đến Huế nhưng chắc chắn ai cũng một lần nghe đến ca Huế trên sông Hương.
Đây là hình thức nghệ thuật giải trí được người Huế rất ưa chuộng. Bên cạnh dòng âm nhạc
dân gian và dòng ca nhạc cung đình thì người ta xếp ca Huế vào giữa. Ca Huế có những đặc
trưng riêng với chất trữ tình sâu lắng làm xao động lòng người, chất chứa nhiều nỗi niềm
cuộc đời của người dân xứ Huế. Một bản ca Huế có cấu trúc chặt chẽ, nghiêm ngặt. Khi biển
diễn ca Huế sẽ kết hợp với bộ ngũ tuyệt Tranh, Tỳ, Nhị, Nguyệt, Tam xen với Bầu, Sáo và bộ
gõ trông Huế, sanh loan và sanh tiền tạo nên những khúc nhạc sâu lắng chạm vào tâm hồn
người nghe. Ngày nay, tham gia tour du lịch Huế ngồi trên thuyền rồng lênh đênh trên dòng
Hương giang, lắng nghe những lời ca trữ tình của ca Huế sẽ là một trải nghiệm văn hóa Huế
đặc sắc mà du khách không nên bỏ qua.
2.4.4.3.Nhã nhạc cung đình Huế:
Nhã nhạc cung đình Huế là thuật ngữ dùng để chỉ loại nhạc chính thống dùng trong cung
đình phong kiến thời xưa mỗi dịp lễ tế và triều hội, là sản phẩm kết hợp giữa lễ và nhạc. Nhã
nhạc cung đình bắt nguồn từ thời Lê nhưng phải đến thời Nguyễn, nhã nhạc phát triển một
cách có hệ thống và bài bản. Nhã nhạc cung đình Huế đã được tổ chức UNESCO công nhận
là di sản văn hóa phi vật thể vào năm 2003.