1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ,
sự ứng dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại
vào quá trình sản xuất đã làm năng suất lao động tăng nhanh. Tuy nhiên,
nếu không có con người thì cũng không thể có thành tựu khoa học, sự ứng
dụng các thành tựu đó. Mặt khác, khoa học và công nghệ dù có sức mạnh
thế nào cũng không thể thay thế hoàn toàn vai trò của con người. Nguồn
nhân lực là một nguồn lực quan trọng, quyết định quá trình sản xuất, tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Garry Bechker, người Mỹ được giải
thưởng Nobel kinh tế năm 1992, khẳng định “không có đầu tư nào mang lại
nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo
dục” [44, tr.25]. Thế giới đang có xu hướng chuyển từ nền kinh tế dựa vào
sự giàu có của các nguồn tài nguyên sang kinh tế tri thức. Trong bối cảnh
như vậy, nguồn lực con người càng trở thành động lực chủ yếu của sự phát
triển nhanh và bền vững.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập, bên cạnh sự hợp tác thì sự cạnh
tranh giữa các quốc gia cũng ngày càng gay gắt. Lợi thế về nguồn nhân lực
không chỉ là sự dồi dào mà còn phải là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Vì
vậy phát triển nguồn nhân lực là vấn đề cấp bách của mọi quốc gia. Qua kinh
nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy, những nước
quan tâm và có chính sách phát triển nguồn nhân lực đúng, tạo ra một lực
lượng lao động với trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao trong tổng số lao động
của nền kinh tế thì nước đó có tốc độ phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế
tri thức chỉ giành được những thắng lợi khi chúng ta biết khai thác hợp lý và
sử dụng hiệu quả tất cả các nguồn lực. Song, yếu tố giữ vai trò quyết định
nhất, đảm bảo cho sự thắng lợi của quá trình đó chính là nguồn lực con người,
đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao.Vì vậy phát triển nguồn nhân lực
2
là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước của mỗi
quốc gia, vùng, lãnh thổ.
Đảng và Nhà nước ta luôn xem con người là yếu tố đặc biệt quan trọng
trong chiến lược phát triển đất nước và không ngừng đào tạo, bồi dưỡng phát
triển NNL đáp ứng yêu cầu, mục tiêu trong từng thời kỳ. Điều đó thể hiện
trong nhiều văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng đã chỉ rõ: con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi
nguồn lực, quyết định sự hưng thịnh của đất nước. Tại Đại hội lần thứ VIII,
Đảng ta khẳng định sự cần thiết phải thực hiện một cách có hiệu quả chiến
lược phát triển con người. Tiếp tục thực hiện đường lối đúng đắn và khoa học
đó, Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Nguồn lực con người là yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững…, là nhân
tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH”. Đại hội
lần thứ X của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2010 là “Phát triển mạnh khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế
tri thức” [10, tr.187].
Bắc Ninh được tái lập từ 1/1/1997, có diện tích nhỏ 822,7 km2 nhưng
mật độ dân số tương đối cao 1243 người/1km2, đặc biệt là thành phố 3.301
người/1 km2. Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và
cũng là tỉnh có nhiều lợi thế so sánh về vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, con
người và các tiềm năng phát triển khác. Hiểu rõ vai trò, tầm quan trọng của
NNL trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đồng thời để khai thác có hiệu
quả các lợi thế, nguồn lực sẵn có cũng như tận dụng được các cơ hội và điều
kiện thuận lợi trong bối cảnh mới, việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
nói chung, lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm nói riêng
của tỉnh là một trong các nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu.
3
Ngày 10 tháng 9 năm 2006 Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã
ban hành chương trình phát triển nguồn nhân lực - giải quyết việc làm giai
đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2015 trên tinh thần Nghị quyết đại
hội lần thứ 17 của Đảng bộ tỉnh. Đồng thời đánh giá giai đoạn 2001-2005
Nguån nh©n lùc cña tØnh không chỉ duy trì được tốc độ
phát triển hợp lý về mặt số lượng mà còn cải thiện khá rõ rệt về mặt
chất lượng nhưng nguồn nhân lực vẫn tập trung chủ yếu ở khu vực
nông thôn (86,8%), với chất lượng không cao: năng suất lao động
thấp, trình độ chuyên môn kỹ thuật không cao, do vậy chưa đáp ứng
được yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước cũng như yêu cầu
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế [25, tr.2].
Trong hơn 3 năm qua, chương trình phát triển nguồn nhân lực của tỉnh
đã đạt được những kết quả rõ rệt. Chất lượng NNL đã được nâng lên đáng kể,
nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh. Đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên gia giỏi và công nhân có trình độ tay
nghề kỹ thuật cao còn hạn chế. Việc nghiên cứu triển khai, chuyển giao công
nghệ của tỉnh còn yếu. Tác phong, kỷ luật lao động của một bộ phận người
lao động nhìn chung vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp nhất là
trong các khu công nghiệp, năng suất lao động chưa cao, chưa phát huy được
hết lợi thế của các làng nghề trong tỉnh…
Định hướng chung của kế hoạch 5 năm 2011-2015 của tỉnh là tiếp tục
thực hiện những mục tiêu cơ bản do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã đề
ra: “Xây dựng Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015 và
trở thành một trong những tỉnh dẫn đầu vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ vào
năm 2020”. Để đạt được mục tiêu này thì phát triển nguồn nhân lực (PTNNL)
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng hàng đầu của tỉnh. Đòi
hỏi tỉnh phải có những chính sách, giải pháp hợp lý nhằm đào tạo, phát triển
và sử dụng có hiệu quả NNL. Với ý nghĩa trên tôi chọn đề tài “Phát triển
4
nguồn nhân lực ở tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận
văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
NNL là một trong những nguồn lực quan trọng và quyết định nhất của
tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững đối với mỗi quốc gia nói chung và
mỗi tỉnh nói riêng. Đã có nhiều công trình khoa học, hội thảo khoa học, các
luận văn, luận án nghiên cứu ở nhiều góc độ, phạm vi, địa điểm khác nhau;
trong đó nổi bật lên là các công trình sau:
Trên phạm vi quốc gia, địa phương có:
- TS. Mai Quốc Chánh (1999), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS. Nguyễn Bá Ngọc và KS Trần Văn Hoan (2002) “Toàn cầu hoá: Cơ
hội và thách thức đối với lao động Việt Nam” Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
- TS. Nguyễn Hữu Dũng (2003) “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con
người ở Việt Nam” Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
PGS,TS. Phạm Thành Nghị và TS Vũ Hoàng Ngân (2004), “Quản lý
nguồn nhân lực ở Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội.
- TS. Nguyễn Thanh (2005), “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS. Đoàn Văn Khải (2005) “Nguồn nhân lực con người trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Đặng Tú Lan (2001) “Giải quyết việc
làm ở tỉnh Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp”, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Ngọc Tú (2003) “Nguồn nhân
lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở
tỉnh Bắc Ninh”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
5
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Hoàng Văn Nhiệm (2009) “Phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Vĩnh
Phúc”, Học viện Chính trị -Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Phạm vi ngành doanh nghiệp:
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Dương Thị Kim Chung (2005) “Phát
triển nguồn nhân lực của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Văn Dụng (2007) “Phát triển
nguồn nhân lực của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội”,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Hoàng Thị Thu Hải (2008) “Giải pháp
hỗ trợ nâng cao chất lượng nhân lực trong các khu công nghiệp tỉnh Bắc
Ninh”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Các công trình trên đã tiếp cận tới nhiều khía cạnh, phạm vi khác nhau
về phát triển nguồn nhân lực. Trong quá trình nghiên cứu luận văn sẽ tiếp thu
và kế thừa các thành quả khoa học của các công trình đi trước nhằm luận giải
những vấn đề thực tiễn đang đặt ra và hướng phát triển nguồn nhân lực tỉnh
Bắc Ninh nhằm đạt mục tiêu của tỉnh trong những năm tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bắc Ninh những năm
qua và đề xuất các giải pháp PTNNL của tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận về PTNNL như: khái niệm, nội dung, các
nhân tố ảnh hưởng đến PTNNL, kinh nghiệm PTNNL của một số quốc gia và
địa phương.
Khảo sát, nghiên cứu đánh giá thực trạng PTNNL ở tỉnh Bắc Ninh giai
đoạn 2001-2010, chỉ rõ những thành tựu, hạn chế trong PTNNL của tỉnh và
nguyên nhân của nó.
Đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục PTNNL của tỉnh Bắc Ninh trong thời
gian tới.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu PTNNL ở phạm vi địa phương
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát
triển nguồn nhân lực về các mặt giáo dục - đào tạo con người, sử dụng, tạo
môi trường làm việc và đãi ngộ đối với người lao động.
- Về không gian: Tỉnh Bắc Ninh
- Về thời gian: từ 2001 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, cụ thể:
- Nghiên cứu lý thuyết: phân tích và tổng hợp các tài liệu về lý thuyết
phát triển nguồn nhân lực để làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của phát triển
nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế xã hội
- Nghiên cứu thực tiễn: sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, để đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bắc Ninh thời
gian qua và đưa ra những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong thời
gian tới.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần luận giải một số vấn đề lý luận PTNNL ở phạm vi địa
phương.
- Đánh giá thực trạng PTNNL của tỉnh Bắc Ninh từ năm 2001 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát triển NNL trong giai
đoạn mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
7
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1.1.1. Khái niệm, nội dung và các tiêu chí đánh giá phát triển nguồn
nhân lực
1.1.1.1. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực
Đến nay đã có khá nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu đưa ra những
khái niệm, định nghĩa về PTNNL, với những quan niệm không giống nhau,
nhưng tựu chung lại đó là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và
cơ cấu của nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế
xã hội. Quá trình đó bao gồm phát triển thể lực, trí tuệ, khả năng nhận thức và
tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động và sức sáng tạo của lao động gắn
với truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc.
Dưới góc độ kinh tế, quá trình PTNNL được mô tả như sự tích lũy vốn
con người và sự đầu tư vốn đó một cách có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế.
Dưới góc độ chính trị, PTNNL là nhằm chuẩn bị cho con người ở một chế độ
chính trị - xã hội xác định tham gia ngày càng tốt hơn vào hoạt động chính trị
của xã hội đó. Dưới góc độ xã hội thì PTNNL là góp phần giúp mọi người
biết sống cuộc sống ngày càng phong phú, đa dạng, hiện đại hơn. PTNNL là
“cả một quá trình quan trọng mà qua đó sự lớn mạnh của cá nhân hay tổ chức
đều có thể đạt được những tiềm năng đầy đủ của họ theo thời gian [20, tr.23].
Trong xu thế hội nhập quốc tế, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến
PTNNL, tạo ra NNL có chất lượng, có trình độ cao, có khả năng nắm bắt khoa
học công nghệ mới và ứng dụng vào sản xuất đời sống. Phát triển NNL là một
“quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực
ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế xã hội” [9, tr.13], đó là
tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn
9
thiện và nâng cao chất lượng cho NNL (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý
xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về NNL cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong
từng giai đoạn phát triển.
- Ở tầm quốc gia hoặc vùng, lãnh thổ hay trên giác độ vĩ mô: PTNNL là
tạo ra sự biến đổi số lượng và chất lượng về mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến
thức, tinh thần của từng con người lao động, tạo lập một cơ cấu đội ngũ nhân
lực hợp lý và sử dụng năng lực của con người cùng với đội ngũ của họ vì sự
tiến bộ xã hội. Hay PTNNL là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra nguồn lực xã hội
với số lượng và chất lượng đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân phù hợp với yêu
cầu của môi trường. Phát triển nguồn nhân lực gồm hai mặt:
Một mặt là phát triển về số lượng: là sự gia tăng về số lượng và thay đổi
cơ cấu của đội ngũ nhân lực theo hướng phù hợp với môi trường và điều kiện
hoạt động mới. Sự thay đổi về cơ cấu nhân lực của quốc gia diễn ra theo cơ
cấu độ tuổi, cơ cấu nhân lực và cơ cấu giới tính ngày càng hợp lý hơn.
Mặt thứ hai là phát triển về chất lượng là sự gia tăng mức sống, trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật và sức khỏe của các thành viên trong
xã hội hoặc trong tổ chức. Thước đo để đánh giá sự PTNNL qua các thời kỳ
phát triển của một quốc gia hiện nay được dùng phổ biến và do Liên hợp quốc
sử dụng là chỉ số phát triển con người (HDI). Chỉ số HDI đo đạc những khía
cạnh cơ bản của năng lực con người, gồm một hệ thống tiêu chí khoảng 100
chỉ số thể hiện chất lượng cuộc sống. Trong đó 3 chỉ số quan trọng nhất là (i)
chỉ số kinh tế (phản ánh tổng sản phẩm xã hội bình quân đầu người GDP/người); (ii) năng lực sinh thể (phán ánh qua chỉ số tuổi thọ bình quân
của người dân) và (iii) năng lực tinh thần (phản ánh qua chỉ số giáo dục, xác
định bằng tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của các cấp giáo dục).
Các chỉ số để tính HDI cơ bản nêu trên mang giá trị từ 0 đến 1: chỉ số giáo
dục được coi là 1 khi 100% người trên 15 tuổi biết viết và bằng 0 khi 0%
người trên 15 tuổi không biết đọc, biết viết. Chỉ số tuổi thọ được coi bằng 1
10
khi tuổi thọ bình quân là 85 tuổi, bằng 0 khi tuổi thọ bình quân là 25 tuổi. Chỉ
số kinh tế được coi là bằng 1 khi GDP bình quân đầu người đạt 40.000$/năm
(tính theo sức mua tương đương), bằng 0 khi giá trị đó là 100$/năm.
Theo nghĩa hẹp hay ở tầm vi mô (ngành, doanh nghiệp, tổ chức): phát
triển NNL là việc phát triển về số lượng và chất lượng nhân lực thông qua các
chức năng của công tác PTNNL, nhằm có được một đội ngũ nhân lực phù hợp
với mục tiêu và định hướng phát triển của tổ chức trong thời gian nhất định.
PTNNL là hoạt động mang tính chủ quan để đáp ứng các yêu cầu hoặc thách
thức của điều kiện khách quan, giúp người lao động có khả năng thích ứng
cao hơn theo định hướng tương lai của tổ chức đó. Là một hoạt động hướng
đích, PTNNL có các mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn.
Có quan niệm coi PTNNL là hoạt động đào tạo, nhưng trên thực tế
PTNNL có nghĩa rộng hơn. Nó không chỉ nhằm làm tăng năng lực thực thi
nhiệm vụ của tổ chức và từng thành viên mà còn nhằm đảm bảo sự phát triển
hiệu quả của tổ chức, là sự gia tăng số lượng phù hợp với mục tiêu và quy mô
phát triển của tổ chức trong tương lai. PTNNL là hoạt động mang tính chiến
lược lâu dài, trang bị và nâng cao kiến thức, kỹ năng toàn diện cho nhân lực,
nhằm tới những nhu cầu dài hạn của tổ chức. PTNNL chính là việc thực hiện
các chức năng và công cụ quản lý phù hợp về mặt số lượng, có chất lượng cao
nhằm thông qua hoạt động của đội ngũ nhân viên đó để không ngừng nâng
cao hiệu quả và sự phát triển bền vững của tổ chức. Về nội dung PTNNL của
tổ chức bao gồm các chức năng công việc của quản trị nguồn nhân lực với
mục đích phát triển nhân lực, thực hiện các chức năng và công cụ như: thu
hút, tuyển dụng, bổ nhiệm và sử dụng nhân sự, khích lệ, duy trì nhân sự, đào
tạo và phát triển nhân sự nhằm có được một đội ngũ nguồn nhân lực. Mục
tiêu của tuyển dụng nhân sự là tuyển những người lao động có trình độ học
vấn, có khả năng phù hợp với yêu cầu của công việc vào thời điểm và vị trí
công việc cần thiết và với chi phí có thể chấp nhận được. Bổ nhiệm và sử
dụng nhân sự phải đảm bảo mục tiêu là sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện
11
có trong hướng phát triển của tổ chức, bố trí đúng người, đúng việc, đồng thời
cũng thực hiện các biện pháp sàng lọc để một mặt duy trì và phát triển nguồn
nhân lực lòng cốt hữu cơ, mặt khác giảm thiểu thành phần nhân lực dư thừa.
Trong chiến lược PTNNL, cần phân loại thành hai nguồn nhân lực chính là
nhân lực chủ chốt và nhân lực bổ sung. Qua đó có thể sử dụng một cách hợp
lý các nguồn nhân lực khác nhau trong từng giai đoạn phát triển của tổ chức,
mặt khác hoạt động PTNNL có thể tập trung nguồn lực vật chất và điều kiện
có thể phát triển nhóm nhân sự chủ chốt. Mục tiêu của công tác đào tạo phát
triển nhân lực là nâng cao năng lực và phát triển tiềm năng của nhân viên
nhằm đáp ứng các yêu cầu của nhiệm vụ. Do hoạt động đào tạo thường không
đem lại hiệu quả trong ngắn hạn, mặt khác lại mang nhiều rủi ro, như di
chuyển nhân sự sau đào tạo hoặc khả năng thích ứng của nhân lực quá yếu…
nên phải coi đào tạo là hoạt động đầu tư chiến lược, vì đào tạo mang lại lợi
ích lâu dài cho tổ chức. Nhằm tránh thất bại trong phát triển nhân lực cần thực
hiện PTNNL theo định hướng tổng thể; các chức năng của quản trị nhân lực
được triển khai trong một quá trình đồng bộ, mỗi chức năng là một công đoạn
có sự bổ trợ, tương tác với nhau. Trong đó chức năng đánh giá nhân sự là
phần cơ bản để thực hiện các chức năng còn lại. Đây là sự khác biệt của cách
thức PTNNL định hướng tổng thể với các cách thức PTNNL khác. Mục tiêu
của công việc đánh giá nhân lực là xác định rõ khả năng và tiềm năng của
nhân lực để có thể tuyển dụng, bố trí công việc, đãi ngộ thỏa đáng và phát
triển đúng mục tiêu.
Phát triển NNL ở cấp độ vi mô thường sử dụng nhiều loại phương pháp
tiếp cận và công cụ hỗ trợ khác nhau. Một trong những phương pháp đó là
phương pháp tiếp cận năng lực, dựa trên công cụ “mô hình năng lực” để xác
định một cách rõ ràng những năng lực cụ thể và tiềm năng của các cá nhân,
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ và thống nhất các khả năng của
cá nhân với năng lực cốt lõi của tổ chức. Nội dung của “mô hình năng lực” sử
dụng các chỉ tiêu tổng thể về kỹ năng để phân tích và đánh giá năng lực nhân
12
lực. Qua phân tích, đánh giá các kỹ năng để xác định những thiếu hụt năng
lực và định ra giải pháp ngắn hạn hoặc dài hạn để bổ sung những thiếu hụt đó.
Theo quy định của hiệp hội những người làm đào tạo và phát triển Mỹ
(ASTD) thì mô hình năng lực thể hiện 16 kỹ năng, chia thành 6 nhóm: (I) kỹ
năng về năng lực cơ bản: đọc, viết, tính toán; (II) kỹ năng truyền đạt, nói,
nghe; (III) kỹ năng về năng lực thích ứng, giải quyết vấn đề; (IV) kỹ năng
phát triển, tự trọng, động viên và xác định mục tiêu; (V) kỹ năng tác động ảnh
hưởng; hiểu biết về văn hóa tổ chức, lãnh đạo tập thể; (VI) kỹ năng làm việc
nhóm [16, tr.4]. Tuy nhiên, mô hình năng lực của mỗi nhóm nhân sự thường
khác nhau về số lượng và tỷ trọng của các kỹ năng.
Tóm lại, PTNNL chính là việc thực hiện các chức năng và công cụ
quản lý nhằm có được một đội ngũ nhân lực phù hợp về mặt số lượng, cơ cấu
và có chất lượng cao để thông qua việc sử dụng nguồn nhân lực đó nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.
1.1.1.2. Nội dung phát triển nguồn nhân lực
- Nuôi dưỡng nguồn nhân lực
Là tổng thể các hoạt động liên quan tới việc nhằm nâng cao, phát triển
thể lực và tinh thần của NNL, bao gồm công tác y tế, chăm sóc sức khỏe,
công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, công tác nước sạch và vệ sinh môi
trường, công tác thể dục, thể thao, các hoạt động văn hóa, xã hội…Tất cả các
hoạt động trên đều có tác động thuận chiều, trực tiếp hoặc gián tiếp tới việc
nâng cao thể lực và tinh thần (thể chất) của NNL.
- Giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực:
Giáo dục - đào tạo không chỉ là giáo dục tri thức, kỹ năng nghề nghiệp
mà là tổng thể các hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp tới trình độ tay nghề, tác
phong, nề nếp làm việc, khả năng thích ứng của NNL, bao gồm giáo dục từ
mầm non tới đào tạo sau đại học, đào tạo lại. Vì tác phong sinh hoạt hàng
ngày có ảnh hưởng nhất định tới tác phong nghề nghiệp của người lao động.
NNL phải được giáo dục ý thức thường xuyên và ngay từ mầm non. Tri thức
13
khoa học có một vai trò rất lớn đối với trình độ tay nghề của người lao động,
tri thức này phải được bồi dưỡng dần và rèn luyện thường xuyên, liên tục
ngay từ khi còn học phổ thông chứ không phải đến khi đào tạo nghề hay đại
học cao đẳng. Thực tế cho thấy các nước có nền giáo dục phổ thông tốt thì lao
động cũng có tác phong nghề nghiệp, trình độ năng tay nghề, khả năng thích
ứng với công việc cao.
- Sử dụng nguồn nhân lực
Là tổng thể các hoạt động của con người nhằm sử dụng NNL như thế
nào cho có hiệu quả hay chính là việc bố trí, sắp xếp, sử dụng nguồn nhân lực
tương ứng với các nguồn lực khác để tạo ra tăng trưởng và phát triển kinh tế
cao. Việc sử dụng nguồn nhân lực là phải bố trí, sắp xếp NNL sao cho càng
hợp lý, tận dụng tối đa các nguồn lực hiện có thì càng đem lại năng suất và
hiệu quả cao cho xã hội, đó là mục đích của sử dụng NNL.
- Tạo môi trường làm việc và đãi ngộ nguồn nhân lực
Môi trường làm việc và đãi ngộ nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ các
điều kiện tác động đến người lao động như môi trường chính sách, cơ chế làm
việc, cơ sở vật chất kỹ thuật, môi trường văn hoá chính trị, xã hội….. Nội
dung của tạo môi trường làm việc và đãi ngộ nguồn nhân lực trong PTNNL là
tổng thể các hoạt động của con người nhằm tạo ra một môi trường làm việc
thuận lợi để sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả nhất, đem lại hiệu quả kinh
tế xã hội cao nhất trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Đồng thời có
chế độ đãi ngộ nguồn nhân lực thỏa đáng nhất để thu hút nhân tài từ bên ngoài
và giữ được nguồn nhân lực có chất lượng cao làm việc lâu dài gắn bó với tổ
chức, địa phương, quốc gia.
1.1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá phát triển nguồn nhân lực
Có nhiều chỉ tiêu đánh giá phát triển nguồn nhân lực trong đó như trên
đã nói có một chỉ tiêu chung thường được sử dụng đó là chỉ số phát triển con
người HDI (Human Development Index), chỉ số này ngày càng tăng là một
trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của NNL. Liên hợp quốc sử dụng
14
chỉ số phát triển con người trên 3 phương diện chính sức khỏe, tri thức và thu
nhập làm thước đo chung để so sánh sự phát triển của con người và nhân lực
của các quốc gia trên thế giới. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới cũng thường
dùng chỉ số HDI để đánh giá ở mức độ nhất định về phát triển nhân lực
(Human Resource Development - HRD) của quốc gia mình. Chỉ số 0
và chỉ số HDI càng lớn thì nguồn nhân lực càng phát triển.
Chỉ số HDI được xác định trên 3 tiêu chí cơ bản:
(1) Tổng sẩn phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người tính theo sức
mua tương đương - PPP (Purchasing Power Parity) là phương pháp tính
GDP/người của một nước theo sức mua tương đương của họ tại Mỹ, theo
đồng USD.
(2) Trình độ học vấn (tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của các
cấp giáo dục).
(3) Tuổi thọ bình quân.
Phương pháp tính chỉ số HDI như sau:
HDI =
IA IE IW
3
Trong đó:
IA là chỉ số tuổi thọ
Ai - Amin
IA =
Amax- Amin
Với
Amax: Tuổi thọ trung bình của nước cao nhất thế giới
Amin: Tuổi thọ trung bình của nước thấp nhất thế giới
Ai: Tuổi thọ trung bình của nước i
2E1 - E2
IE: Chỉ số kiến thức:
IE =
3
Tỷ lệ biết chữ của nước i - Tỷ lệ biết chữ thấp nhất thế giới
Với E1 =
Tỷ lệ biết chữ cao nhất thế giới - Tỷ lệ biết chữ thấp nhất TG
15
Tỷ lệ đi học của nước i - Tỷ lệ đi học thấp nhất thế giới
E2 =
Tỷ lệ đi học cao nhất thế giới - Tỷ lệ đi học thấp nhất TG
Trong đó:
E1:Tỷ lệ % người lớn biết chữ (những người từ 15 tuổi trở lên).
E2: Tỷ lệ % nhập học của các cấp giáo dục: tiểu học, trung học, đại học.
IW: chỉ số thu nhập:
log (Wi ) - log (Wmin )
IW =
log (Wmax ) - log (Wmin )
Trong đó:
Wi: Mức thu nhập theo đầu người của nước i;
Wmin: Mức thu nhập theo đầu người thấp nhất thế giới;
Wmax: Mức thu nhập theo đầu người cao nhất thế giới;
Log: Lôgarit thập phân hoặc Lôgarit tự nhiên.
Ở tầm địa phương (tỉnh) thường ít quan tâm đến chỉ số này
Ngoài ra cũng có thể chia các tiêu chí theo nội dung phát triển nguồn
nhân lực như sau:
- Nhóm chỉ tiêu đánh giá PTNNL thông qua nuôi dưỡng, chăm sóc sức khoẻ
+ Nuôi dưỡng NNL thông qua công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình:
(1) Tốc độ tăng dân số hợp lý
Tốc độ tăng dân số là chỉ tiêu cơ bản phản ánh sự tăng, giảm dân số của
quốc gia, địa phương trong thời kỳ nhất định thường là một năm. Tốc độ tăng
dân số hợp lý là sự gia tăng dân số phải phù hợp và đảm bảo với điều kiện
kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên (diện tích, đất đai) của quốc gia, địa phương.
Nếu tốc độ này tăng quá nhanh trong khi điều kiện tự nhiên có hạn, điều kiện
kinh tế - xã hội tăng chậm hơn thì sẽ không đảm bảo các điều kiện cần thiết
cho sự nuôi dưỡng, phát triển con người và thế hệ sau, như vậy sẽ làm giảm
chất lượng nguồn nhân lực. Nếu tỷ lệ này quá nhỏ thì sẽ không đảm bảo
16
nguồn nhân lực cho sự phát triển sản xuất như vậy cũng sẽ làm giảm sự phát
triển nguồn nhân lực.
Tốc độ tăng dân số hàng năm được tính bằng công thức:
ln Pt - lnP0
r =
t
Trong đó:
r: Tỷ lệ tăng dân số của thời kỳ nghiên cứu
t: độ dài của thời kỳ nghiên cứu
P0: dân số đầu kỳ
Pt: dân số cuối kỳ
(2) Tỷ lệ sinh hợp lý
Tỷ lệ sinh phản ánh việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình của địa
phương, quốc gia như thế nào. Tỷ lệ sinh hợp lý nghĩa là nó phải đảm bảo
tái tạo nguồn nhân lực, đồng thời phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế
xã hội của địa phương, quốc gia, góp phần thúc đẩy phát triển nguồn nhân
lực của địa phương, quốc gia. Tỷ lệ sinh là số trẻ em được sinh ra trong
năm tính trên 1000 dân số bình quân trong năm xác định. Công thức tính
như sau:
Số trẻ em sinh ra trong năm
Tỷ lệ sinh
(‰)
=
x 1000
Tổng dân số trung bình trong năm
(3) Tỷ lệ chết giảm
Tỷ lệ chết phản ánh tỷ lệ người chết của địa phương (quốc gia) taị thời
điểm nhất định thường là một năm. Tỷ lệ chết giảm cũng phản ánh chế độ
chăm sóc sức khoẻ của nười dân được nâng lên, và phần nào cho thấy đời
sống kinh tế của địa phương (quốc gia) được cải thiện. Đó là điều kiện để
NNL phát triển
Tỷ lệ chết là số người chết trong năm tính trên 1000 dân số bình quân
trong năm xác định, được tính bằng công thức:
17
Số người chết trong năm
Tỷ lệ sinh
(‰)
=
x 1000
Tổng dân số trung bình trong năm
(4) Cơ cấu dân số theo khu vực chuyển dịch theo hướng tỷ trọng dân số
khu thành thị tăng lên, khu vực nông thôn giảm. Chỉ tiêu này cho biết cơ cấu
NNL theo khu vực chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, đó là biểu thị sự phát
triển của NNL. Nó được tính bằng tỷ lệ % giữa dân số khu vực nông thôn
(thành thị) trên tổng dân số tại thời kỳ nghiên cứu.
Các chỉ tiêu trên được địa phương quan tâm và tính toán hàng năm qua
các cuộc điều tra dân số.
+ Nuôi dưỡng NNL thông qua hoạt động y tế, chăm sóc sức khoẻ:
(1) Số giường bệnh (số bác sĩ) trên một vạn dân tăng phản sự quan tâm,
khả năng của địa phương, quốc gia với chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Khi
chỉ tiêu này có xu hướng tăng nghĩa là địa phương, quốc gia đã ngày càng chú
ý đến chăm sóc sức khoẻ của người dân, như vậy sức khoẻ của NNL ngày
càng được quan tâm và sẽ được cải thiện. Chỉ số này thường được theo dõi
qua các năm, được tính bằng cách lấy số giường bệnh (số bác sĩ) trong năm
chia cho tổng dân số trong năm nhân với 10.000.
(2) Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng là tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi có
chỉ số z-score nhỏ hơn một khoảng 2 độ lệch chuẩn của nhóm trẻ em phát
triển bình thường được lựa chọn và sử dụng làm tiêu chuẩn xác định tình
trạng dinh dưỡng của những trẻ em cùng độ tuổi. Chỉ số z-score được tính
toán trên cơ sở ba thông số là: suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, suy dinh dưỡng
thể thấp còi, suy dinh dưỡng thể gầy còm. Tỷ lệ này ngày càng giảm chứng tỏ
trẻ em ngày càng được chăm sóc tốt hơn, điều này sẽ góp phần nâng cao thể
lực nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng lao động trong tương lai. Chỉ tiêu
này được tính bằng công thức:
18
Số trẻ em dưới 5 tuổi
bị suy dinh dưỡng
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi =
dinh dưỡng ( %)
x 100
Tổng số trẻ em dưới 5 tuổi
sống trong cùng năm
(3) Số trẻ em được tiêm chủng mở rộng tăng
Số trẻ em được tiêm chủng mở rộng là số trẻ em trong thời kỳ nghiên
cứu (thường là một năm) được tiêm chủng mở rộng theo chương trình tiêm
chủng quốc gia. Chỉ số này tăng cho biết sự quan tâm đến sức khỏe trẻ em
ngày càng tăng, sẽ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai.
(4) Tỷ lệ dân sử dụng nước sạch tăng: là tỷ lệ số hộ được sử dụng nước
hợp vệ sinh, theo tiêu chuẩn quốc gia. Chỉ tiêu này phản ánh sự chăm sóc sức
khỏe của NNL được tăng lên và được tính bằng số hộ sử dụng nước của nhà
nước từ các nhà máy trên tổng số hộ tại thời kỳ nghiên cứu.
(5) Rác thái ngày càng được thu gom và lý tốt chỉ tiêu này phản ánh việc
chăm sóc sức khỏe NNL ngày càng tốt được tính bằng số rác thải được thu gom
và xử lý trên tổng lượng rác thải tại thời kỳ nghiên cứu. Chỉ tiêu này được các địa
phương thống kê thường xuyên hàng năm bằng phương pháp điều tra xã hộ học.
(6) Số người thường xuyên đến cơ sở tập thể dục tăng, phản ánh tình
hình chăm sóc sức khỏe, thể lực của NNL ngày càng tăng.
Các chỉ tiêu (1), (3), (5), (6) được địa phương quan tâm, thống kê hàng
năm bằng phương pháp điều tra xã hội học. Các chỉ tiêu (2), (4) do kinh phí
và nguồn lực có hạn, nên ở tầm địa phương không thể thống kê thường xuyên.
Ngoài ra còn một số các chỉ tiêu khác ở tầm địa phương cũng khó có thể tính
toán thường xuyên được như: tỷ suất chết ở trẻ em giảm, tuổi thọ bình quân
của dân số tăng, chiều cao và cân nặng trung bình của người lao động tăng.
Nhóm chỉ tiêu đánh giá PTNNL thông qua giáo dục - đào tạo
(1) Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành tăng
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hóa ở mức tối thiểu
của một quốc gia. Chỉ tiêu này tăng chứng tỏ trình độ văn hóa tối thiểu của
19
quốc gia (địa phương) tăng, trình độ văn hóa của người lao động tăng, chứng
tỏ chất lượng nguồn nhân lực tăng.
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành là số % những người 15 tuổi trở
lên có thể đọc, viết và hiểu được những câu đơn giản của Tiếng việt và được
tính theo công thức:
Số người 15 tuổi trở lên
biết chữ trong năm
Tbc =
x 100
Tổng số dân 15 tuổi
trở lên trong cùng năm
Trong đó: Tbc là tỷ lệ biết chữ của dân số 15 tuổi trở lên (%).
(2) Tỷ lệ đi học các cấp tăng
Tỷ lệ đi học các cấp; là tỷ lệ biểu thị số người học cấp nào đó trong
tổng dân số độ tuổi cấp tương ứng, được tính theo công thức:
Số người đi học cấp J
IJ =
x 100
Tổng dân số trong độ tuổi cấp J
Trong đó: IJ là tỷ lệ đi học cấp J(%)
Chỉ tiêu này đánh giá trình độ phát triển hệ thống giáo dục của các quốc
gia, sự quan tâm của Nhà nước, xã hội đối với nâng cao dân trí và mức sống
của nhân dân.
Hiện nay, với những địa phương đã phổ cập giáo dục đến cấp nào thì
100% số học sinh trong độ tuổi cấp đó được đi học, nên chỉ số này thường
thay bằng chỉ số số lượng học sinh các cấp tăng.
(3) Tỷ lệ tốt nghiệp các cấp tăng phản ánh chất lượng đào tạo được
tăng lên, cũng là phản ánh chất lượng nguồn nhân lực tăng lên. Chỉ tiêu này
được tính thông qua thống kê tình hình học sinh tốt nghiệp các năm được tính
bằng % là tỷ số giữa số học sinh tốt nghiệp với số học sinh dự thi tốt nghiệp
trong năm điều tra.
20
Đây là chỉ tiêu đánh giá chất lượng giáo dục và trình độ của học sinh
các cấp.
(4) Số trường, lớp, giáo viên tăng, phản ánh sự quan tâm đầu tư cho
giáo dục của lãnh đạo nhà nước và người dân, chứng tỏ công tác đào tạo phát
triển, hay chất lượng giáo dục được quan tâm, điều này góp phần làm cho chất
lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao.
(5) Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn -kỹ thuật tăng
Để đánh giá tổng quan trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân
lực quốc gia người ta thường dùng hai chỉ tiêu sau:
(5.1)Tỷ lệ giữa số lao động đã có trình độ (từ có bằng sơ cấp, chứng chỉ
nghề trở lên so với tổng số lao động, thuộc thuộc lực lượng lao động hoặc
thuộc lực lượng lao động đang làm việc và tính theo công tức
Tổng số LĐ có bằng sơ cấp, chứng chỉ nghề trở
lên thuộc NNL trong độ tuổi lao động; LLLĐ; LĐĐLV
IDT1 =
x 100
NNL trong độ tuổi lao động; LLLĐ; LĐĐLV
Trong đó: IDT1: Tỷ lệ lao dộng qua đào tạo có bằng, chứng chỉ trở lên
của nguồn nhân lực trong tuổi lao động, của LLLĐ, hoặc của LĐĐLV (%).
(5.2) Tỷ lệ giữa số lao động đã qua đào tạo (có bằng công nhân kỹ thuật
qua đào tạo nghề đạt từ bậc 3 trở lên, tốt nghiệp sơ cấp, trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học, sau đại học) của nguồn nhân lực trong độ tuổi lao
động, của lực lượng lao động đang làm việc so với tổng lao động, thuộc thuộc
nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động, thuộc lực lượng lao động hoặc thuộc
lao động đang làm việc và tính theo công thức
Tổng số LĐ có bằng CNKT trở lên của
NNL trong độ tuổi lao động; LLLĐ; LĐĐLV
IDT2 =
x 100
NNL trong độ tuổi lao động; LLLĐ; LĐĐLV
21
Trong đó: IDT2: Tỷ lệ lao động qua đào tạo công nhân kỹ thuật trở lên
(CNKT, THCN, CĐ, ĐH, sau ĐH) của nguồn nhân lực trong tuổi lao động,
của LLLĐ, hoặc của LĐĐLV (%).
Chỉ tiêu này đánh giá trình độ tay nghề của người lao động.
Các chỉ tiêu (2), (3), (4), (5) được địa phương quan tâm, thống kê hàng
năm bằng phương pháp điều tra xã hội học. Còn chỉ tiêu (1) do kinh phí và
nguồn lực có hạn, nên ở tầm địa phương không thể thống kê thường xuyên.
- Nhóm chỉ tiêu đánh giá PTNNL thông qua sử dụng nguồn nhân lực:
(1) Tỷ lệ lao động có việc làm tăng.
Chỉ số này cho biết khả năng sử dụng lao động, giải quyết việc làm
ngày càng tăng. Điều đó cũng có nghĩa là nền kinh tế đang phát triển, là điều
kiện để nguồn nhân lực phát triển.
Tỷ lệ lao động có việc làm là tỷ số giữa số lao động có việc làm và số
lao động trong độ tuổi lao động, có nhu cầu làm việc và đang tìm việc làm.
(2) Cơ cấu sử dụng lao động chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH:
(2.1) Cơ cấu lao động theo trạng thái hoạt động: tỷ trọng lao động trong
khu vực sản xuất vật chất có xu hướng giảm, trong khu vực phi sản xuất vật
chất có xu hướng tăng. phản ánh sự phát triển của sản xuất theo hướng tiến
bộ, tăng tỷ lệ lao động trong khu vực có năng suất, hiệu quả cao, điều đó cũng
gắn với việc phát triển NNL theo hướng CNH, HĐH
(2.2) Cơ cấu lao động theo ngành nghề có xu hướng tỷ trọng lao động
trong ngành nông nghiệp giảm, trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng,
phản ánh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, điều đó cũng gắn với việc
phát triển NNL theo hướng CNH, HĐH.
(2.3) Cơ cấu lao động theo tổ chức có xu hướng giảm tỷ trọng lao động
trong khu vực kinh tế nhà nước, tăng tỷ tọng lao động trong khu vực ngoài
nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phản ánh sự phát triển của nền
kinh tế theo hướng tiến bộ, tăng tỷ lệ lao động trong khu vực có năng suất,
chất lượng, hiệu quả cao, đòi hỏi lao động có chuyên môn tay nghề cao, điều
đó cũng gắn với việc phát triển NNL theo hướng CNH, HĐH.
22
(3) Năng suất lao động xã hội tăng phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn
lực xã hội tăng lên, cũng là phản ánh pần nào hiệu quả sử dụng NNL tăng.
Tính bằng tổng sản phẩm xã hội trong phạm vi nghiên cứu theo giá thực tế
bình quân một lao động đang làm việc ( bằng tổng sản phẩm xã hội theo giá
thực tế chia cho tổng lao động đang làm việc trên phạm vi nghiên cứu), theo
phương pháp thống kê, điều tra xã hội học.
Trên phạm vi địa phương các chỉ tiêu trên có khả năng tính được và
thường được tính trên một năm.
- Nhóm chỉ tiêu đánh giá PTNNL thông qua tạo môi trường làm việc và
đã ngộ NNL
(1) Điều kiện cơ sở vật chất ngày càng hiện đại thể hiện ở chỉ tiêu chi
cho đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước ngày càng tăng, đây là
khoản mục chi nhằm tăng cường cơ sở vật, khoản chi này tăng lên, chứng tỏ
cơ sở vật chất của tỉnh ngày càng được quan tâm đầu tư nhằm hiện đại hóa cơ
sở vật chất, góp phần tăng năng suất lao động.
(2) Hệ thống chính sách của Nhà nước (chính sách tiền lương hợp lý,
công bằng hơn, bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội tốt hơn, chính sách tài chính
minh bạch, rõ ràng hơn,). thể hiện ở các chỉ tiêu:
(2.1) Chỉ tiêu về Số người tham gia BHYT, BHXH tăng
(2.2) Chỉ tiêu về lao động làm công ăn lương
(3) Thu nhập, đời sống người lao động tăng: thu nhập được tính bằng
thu nhập bình quân đầu người(GDP/người) hoặc tổng sản phẩm GDP của địa
phương, quốc gia/năm, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm; con số này càng tăng chứng
tỏ thu nhập của người lao động càng tăng, …..
(4) Môi trường chính trị, xã hội ổn định lâu dài, môi trường pháp luật
ngày càng hoàn thiện thông thoáng, phù hợp với thông lệ và pháp luật quốc
tế. Chỉ có một môi trường chính trị xã hội ổn định mới có thể phát triển kinh
tế. Môi trường chính trị ổn định cũng là điều kiện để thu hút các nhà đầu tư,
đầu tư yên tâm đầu tư vào địa phương, quốc gia là điều kiện tiền đề để
23
PTNNL Cũng như môi trường chính trị xã hội, môi trường pháp luật cũng là
điều kiện tiền đề cho PTNNL. Chỉ có môi trường pháp luật hoàn thiện thông
thoáng mới có thể PTNNL một cách có hiệu quả. Chỉ tiêu này có thể thể hiện
qua việc thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào địa phương quốc gia và
có thể thể hiện cụ thể ở chỉ tiêu Chi ngân sách bảo đảm xã hội ngày càng tăng,
hoặc chi quản lý nhà nước và ANQP ngày càng tăng.
Trong nhóm chỉ tiêu này, Ngoài chỉ tiêu (2) trên phạm vi địa phương
khó có thể tính toán được, còn các chỉ tiêu khác có thể tính được.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển nguồn nhân lực
Là một hoạt động mang tính chiến lược, dù ở tầm vĩ mô hay vi mô
PTNNL chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Trong đó, có những
nhân tố mang tính khách quan, có nhân tố mang tính chủ quan của con người.
1.1.2.1. Nhân tố khách quan
- Dân số: Đây là yếu tố đầu tiên, có tác động trực tiếp đến sự phát triển
nguồn nhân lực. Dân số của một quốc gia có mối quan hệ chặt chẽ với quy
mô NNL, là cái gốc sản sinh ra NNL. Thông thường nước nào có quy mô dân
số lớn thì quy mô nguồn nhân lực lớn và ngược lại; mặt khác, cơ cấu tuổi của
dân số có ảnh hưởng quyết định đến quy mô và cơ cấu NNL. Quy mô dân số
phụ thuộc vào tỷ suất tăng tự nhiên của dân số, vì vậy quy mô NNL cũng phụ
thuộc vào tỷ suất tăng dân số tự nhiên. Ngoài ra tốc độ tăng dân số cũng ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nuôi dưỡng, giáo dục- đào tạo nguồn nhân lực: nếu tốc
độ tăng dân số quá lớn so với sự phát triển của kinh tế xã hội sẽ làm giảm khả
năng nuôi dưỡng, giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực và sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng NNL và khả năng sử dụng NNL trong tương lai. Tỷ suất sinh còn tác
động đến cơ cấu NNL. Việc tăng dân số cơ học cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến PTNNL, nó làm cho quy mô và cơ cấu NNL của quốc gia, hay địa
phương thay đổi theo, đồng thời cũng làm thay đổi chất lượng và sự phát triển
của NNL.
24
- Trình độ phát triển kinh tế - xã hội
Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đóng vai trò quyết định đến
trình độ phát triển NNL và có tác động thuận chiều; bởi vì trình độ phát triển
kinh tế là cơ sở xác định tiền lương, thu nhập, nâng cao mức sống và dân trí
của các tầng lớp dân cư. Khi thu nhập được nâng cao sẽ góp phần nâng cao
nuôi dưỡng, giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực, điều kiện chăm sóc sức khỏe,
thể lực nguồn lao động được cải thiện; trình độ chuyên môn tay nghề, trình độ
văn hóa, xã hội của dân cư cũng được chú trọng do vậy sẽ làm tăng chất
lượng NNL.
Phát triển kinh tế là cơ sở để Chính phủ tăng đầu tư cho giáo dục, đào
tạo, y tế, văn hóa thể thao…Nhờ đó mà quy mô giáo dục - đào tạo được mở
rộng, điều kiện chăm sóc sức khỏe dân cư và người lao động được cải thiện,
đời sống tinh thần được nâng cao. Các yếu tố này tác động tích cực đến trình
độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, sức khỏe của dân cư, người lao động và
cũng có nghĩa là tác động tích cực đến sự phát triển của nguồn nhân lực.
Ngoài ra, trong một nền kinh tế trình độ cao, cơ cấu kinh tế hợp lý và
sử dụng phần lớn công nghệ hiện đại, các thành tựu khoa học công nghệ được
cập nhật đưa vào cuộc sống. Sử dụng lao động có hiệu quả cao, đem lại năng
suất lao động lớn điều đó lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển và ngược lại giúp
NNL phát triển hơn nữa.
- Phát triển của khoa học công nghệ
Tiến bộ KHCN và kinh tế tri thức là thành tựu tiên tiến của xã hội loài
người. Càng ngày KHCN càng có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời
sống xã hội, đưa đến sự thay đổi toàn diện trong mọi lĩnh vực của con người
đặc biệt đối với PTNNL. Nó không chỉ tác động đến nguồn nhân lực mà cả
con người và phương thức quản lý nguồn nhân lực.
Với sự tiến bộ của KHCN máy móc thiết bị, phương tiện làm việc ngày
càng hiện đại, để điều khiển được nó và quản lý nó đòi hỏi người lao động và
người quản lý NNL phải tìm hiểu, nắm bắt các phương tiện hiện đại đó. Với
25
công nghệ hiện đại, chu kỳ sản xuất ngày càng rút ngắn, thao tác của người
lao động đòi hỏi ngày càng phải chính xác. Mặt khác, sự tác động của cơ chế
thị trường làm cho nhu cầu đổi mới sản phẩm về mẫu mã, chủng loại đòi hỏi
công nghệ phải thường xuyên thay đổi cho phù hợp. Tiến bộ KHCN tất yếu
dẫn đến tăng năng suất lao động, giảm số người làm việc, giảm số lượng NNL
nhưng phải tăng chất lượng NNL.
Sự phát triển của khoa học công nghệ làm cho chất lượng cuộc sống của
con người được nâng lên về mọi mặt: y tế giáo dục, vật chất, tinh thần… góp
phần nuôi dưỡng nguồn nhân lực được tốt hơn, đồng thời con người có thể áp
dụng KHCN để nâng cao sức khỏe của người lao động, thúc đẩy PTNNL.
Tri thức KHCN được coi như nguồn sáng, là nhân tố tạo nên các văn
minh, làm nên các cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng KHCN. Việc
áp dụng nhanh các tiến bộ KHCN sẽ giúp cho tri thức đến với mọi người
được nhanh chóng hơn, con người dễ dàng trao đổi các thông tin với nhau
hơn và tri thức được nâng cao nhanh chóng. Muốn ứng dụng KHCN không
chỉ cần phải đầu tư trực tiếp để hưởng thụ các tiến bộ đó mà đòi hỏi con gười
phải có tri thức nhất định thì mới có điều kiện để hưởng thụ. Vì vậy, đòi hỏi
con người phải nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ hiểu biết xã
hội nói chung một cách thường xuyên, phải không ngừng tìm hiểu, nghiên
cứu, học tập, đổi mới và cập nhật thông tin để không bị tụt hậu so với sự phát
triển nhanh chóng của KHCN.
- Hội nhập kinh tế quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ thì mỗi nước trên
thế giới đều có sự hội nhập, tham gia ở quy mô lớn hơn vào phân công lao
động quốc tế, nhằm mục đích sử dụng hiệu quả NNL quốc gia, tăng thu nhập
cho người lao động, nâng cao tay nghề, đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho
người lao động. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế gây ra sự di chuyển NNL,
làm biến đổi các yếu tố bên trong NNL để thích nghi với điều kiện toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế. Thị trường lao động không chỉ trong mỗi quốc gia