MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN ĐẦU TƯ
TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU
TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NHẰM GÓP PHẦN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
7
1.1. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và vai trò của vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước đối với phát triển kinh tế - xã hội
7
1.2. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng
đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
21
1.3. Kinh nghiệm sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm
góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở một số địa phương
32
Chương 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC NHẰM GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI CỦA HUYỆN BÌNH LIÊU, TỈNH QUẢNG
NINH GIAI ĐOẠN 2001 - 2010
39
2.1. Những đặc điểm ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước của huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh
39
2.2. Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện Bình
Liêu, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2001 - 2010
44
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC NHẰM GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI CỦA HUYỆN BÌNH LIÊU, TỈNH QUẢNG NINH
75
3.1. Mục tiêu và quan điểm phát triển kinh tế - xã hội của huyện
Bình Liêu giai đoạn 2010 - 2015
75
3.2. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước của huyện
Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011 - 2015
78
3.3. Những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm góp phần phát triển kinh tế
- xã hội huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh
79
KẾT LUẬN
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
105
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CCKT
:
Cơ cấu kinh tế
FDI
:
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FPI hoặc FII
:
Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
GDP
:
Tổng sản phẩm quốc nội
GDP/người
:
Thu nhập bình quân đầu người
KHCN
:
Khoa học công nghệ
KT-XH
:
Kinh tế - xã hội
NGO
:
Vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ
NSNN
:
Ngân sách nhà nước
ICOR
:
Hệ số gia tăng tư bản
ODA
:
Vốn viện trợ phát triển chính thức
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
TRANG
Biểu 2.1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của huyện Bình
Liêu giai đoạn 2001 - 2010
Biểu 2.2: Huy động vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước của huyện
42
Bình Liêu giai đoạn 2001 - 2010
Biểu 2.3: Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước của huyện Bình Liêu
45
theo ngành, lĩnh vực
Biểu 2.4: Một số chỉ tiêu sử dụng vốn
Biểu 2.5: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước của
50
60
huyện Bình Liêu
Biểu 3.1: Dự báo nhu cầu vốn đầu tư của huyện Bình Liêu giai đoạn
61
2011 - 2015
78
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn đầu tư từ NSNN là một nguồn vốn hết sức quan trọng đối với phát
triển KT-XH của cả nước cũng như của từng địa phương. Nguồn vốn này
không những góp phần quan trọng trong việc tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho nền kinh tế mà còn mang tính định hướng đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch
CCKT, phát triển KHCN, giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội khác.
Đầu tư từ NSNN để phát triển KT-XH ở miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Ngày 22-11-1989
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về một số chủ trương,
chính sách lớn phát triển KT-XH miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành ở Trung ương cũng đã có nhiều chủ
trương, chính sách quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các vùng, miền này
phát triển. “Thực hiện tốt chiến lược phát triển KT-XH ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới… gắn phát triển kinh tế với đảm bảo an ninh, quốc
phòng” [7, tr.122] và “Chú trọng phát triển các vùng miền núi, biên giới, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và các địa bàn khó khăn khác thông qua các cơ chế và
hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch về trình độ
phát triển, thu nhập và đời sống giữa các vùng và các dân tộc” [50, tr.67].
Bình Liêu là một huyện miền núi, biên giới, có nhiều dân tộc cùng
chung sống, nằm ở Đông Bắc tỉnh Quảng Ninh. Huyện có điều kiện đất đai và
khí hậu phù hợp với sản xuất nông - lâm nghiệp; có Khu kinh tế cửa khẩu
Hoành Mô - Đồng Văn thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh doanh
thương mại và dịch vụ... Tuy nhiên do ở vùng núi cao, hệ thống kết cấu hạ
tầng còn lạc hậu; sản xuất hàng hóa chưa phát triển; trình độ dân trí thấp,
người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao (95,3%); cuộc sống còn gặp nhiều khó
khăn... Nguồn nội lực của huyện cho phát triển KT-XH còn rất hạn chế, đòi
hỏi phải có sự quan tâm đầu tư của Nhà nước.
2
Trong những năm qua, vốn đầu tư từ NSNN là nguồn vốn lớn nhất và
là nguồn vốn chủ yếu để phát triển KT-XH, củng cố quốc phòng, an ninh trên
địa bàn huyện (chiếm đến trên 70% tổng vốn đầu tư). Vốn đầu tư từ NSNN
bao gồm các nguồn ngân sách tập trung, chính sách ưu đãi đối với khu vực
cửa khẩu quốc gia, chính sách của các chương trình mục tiêu … đã tạo điều
kiện khai thác và phát huy tốt hơn các tiềm năng, lợi thế của huyện, góp phần
quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được trong thời gian qua còn thấp so với
yêu cầu phát triển KT-XH của huyện Bình Liêu, việc sử dụng vốn đầu tư từ
NSNN cũng có những mặt hạn chế và yếu kém. Vì vậy, việc nghiên cứu "Sử
dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm góp phần phát triển kinh tế
- xã hội của huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh" là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp thiết không chỉ ở huyện Bình Liêu của tỉnh Quảng Ninh
mà còn là vấn đề chung của các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
biên giới của nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vốn đầu tư từ NSNN và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư từ NSNN nhằm
góp phần phát triển KT-XH là một vấn đề được rất nhiều người quan tâm
nghiên cứu. Liên quan đến đề tài này, đã có một số công trình khoa học như:
- TS Bùi Đường Nghiêu (2000), Đổi mới chính sách tài khóa đáp ứng
yêu cầu chiến lược phát triển KT-XH năm 2001 - 2010, nhà xuất bản tài
chính, Hà Nội. Công trình nghiên cứu khẳng định thông qua chi đầu tư hàng
năm, chính sách đầu tư vốn từ NSNN đóng vai trò dẫn dắt, tạo tiền đề cho nền
kinh tế cất cánh.
- Chính phủ Việt nam và Ngân hàng thế giới (2005), Báo cáo quản lý
chi tiêu công để tăng trưởng và giảm nghèo. Báo cáo đã nêu rõ chi tiêu công
là một trong các công cụ quan trọng nhất của Chính phủ để thúc đẩy tăng
trưởng và giảm nghèo.
3
- Nguyễn Ngọc Thao (2007), Phát huy vai trò của NSNN góp phần
phát triển kinh tế Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Thông (2008), Vốn đầu tư của nhà nước để phát triển
KT-XH ở các huyện vùng núi cao tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Tạ Văn Khoái (2009), Quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư xây
dựng từ NSNN ở Việt nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- PGS,TS. Đặng Văn Thanh (tháng 2/2007), đầu tư từ nguồn vốn nhà
nước: để thêm nhiều "hoa thơm, trái ngọt...", Tạp chí Tài chính. Bài viết nêu
rõ vai trò của vốn nhà nước trong tăng trưởng và phát triển kinh tế, những hạn
chế trong quản lý và sử dụng vốn nhà nước ở nước ta hiện nay và đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước.
- TS Lê Hải Mơ (tháng 9/2008), Đầu tư phát triển ở Việt Nam: Thành
tựu và vấn đề, Tạp chí Tài chính. Bài viết đã đánh giá đầu tư phát triển ở Việt
Nam giai đoạn 1991 - 2010 và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
lập kế hoạch và phân bổ vốn đầu tư từ NSNN.
- Phan Thanh Hà (tháng 9/2008), Phân bổ vốn đầu tư từ NSNN: để đạt
hiệu quả cao nhất, Tạp chí Tài chính. Bài viết đã phản ánh tình hình phân bổ
vốn đầu tư từ NSNN trong thời gian qua và những giải pháp nhằm hoàn thiện
qui trình phân bổ vốn đầu tư từ NSNN trong thời gian tới.
- Nguyễn Đức Chi (tháng 1/2009), quản lý nhà nước về sử dụng vốn
xây dựng cơ bản tập trung của NSNN, Tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện
hành chính quốc gia. Bài viết phản ánh những bất cập trong công tác quản lý
vốn đầu tư xây dựng cơ bản và đưa ra một số định hướng và giải pháp để
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản
từ nguồn vốn tập trung của NSNN.
4
- TS Nguyễn Hồng Thắng (tháng 3/2009), nâng cao chất lượng đầu tư
công, Tạp chí phát triển kinh tế, Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Bài viết đã
làm rõ khái niệm chất lượng đầu tư, thảo luận về chất lượng thẩm định dự án
đầu tư công hiện nay, đưa ra những khuyến nghị để nâng cao chất lượng đầu
tư công.
- PGS,TS. Lê Chi Mai (tháng 7/2010), Chi tiêu công với mục tiêu giảm
nghèo, Tạp chí Tài chính. Bài viết đã nêu rõ vai trò của chi tiêu công trong giảm
nghèo ở Việt Nam đồng thời đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm cải cách chi
tiêu công hướng tới mục tiêu giảm nghèo ở nước ta trong thời gian tới.
Các công trình khoa học, các cuốn sách, luận án, luận văn, các bài
báo... đã nêu được một cách hệ thống về NSNN, vốn đầu tư từ NSNN, vai trò
của vốn đầu tư từ NSNN đối với phát triển KT-XH của phạm vi cả nước hoặc
một ngành, một địa phương cụ thể. Tuy nhiên đối với tỉnh Quảng Ninh nói
chung, huyện Bình Liêu nói riêng chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu về vấn đề này, do đó đây là một đề tài mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ những vấn đề lý luận cơ bản về
vốn đầu tư từ NSNN và sử dụng vốn đầu tư từ NSNN nhằm góp phần phát
triển KT-XH, phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp chủ yếu để nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN nhằm góp phần phát triển KT-XH
của huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về vốn đầu tư từ
NSNN, kinh nghiệm sử dụng vốn đầu tư từ NSNN ở một số địa phương khác
trong và ngoài tỉnh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng sử dụng vốn đầu tư từ NSNN của
huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua.
5
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư từ NSNN nhằm góp phần phát triển KT-XH của huyện Bình Liêu, tỉnh
Quảng Ninh đến năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Vốn đầu tư từ NSNN góp phần phát triển KT-XH của huyện Bình Liêu,
tỉnh Quảng Ninh.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Vốn đầu tư từ NSNN để chi cho đầu tư phát triển, bao
gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Luận văn không đề
cập đến phần ngân sách huyện chi cho sự nghiệp kiến thiết kinh tế (Sự nghiệp
nông nghiệp, sự nghiệp thủy lợi, sự nghiệp lâm nghiệp, sự nghiệp thị chính
công cộng, sự nghiệp kiến thiết thị chính...) vì phần chi này nằm trong chi
thường xuyên của ngân sách huyện.
- Về không gian: Nghiên cứu tình hình sử dụng vốn đầu tư từ NSNN
trên địa bàn huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
- Về thời gian: Thực trạng sử dụng vốn đầu tư từ NSNN nhằm góp
phần phát triển KT-XH được phân tích, đánh giá chủ yếu thông qua các số
liệu thống kê ở giai đoạn 2001 - 2010 và đề xuất các giải pháp tới năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, các lý thuyết kinh tế hiện đại, quan điểm của Đảng, chính sách của
Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về vốn đầu tư và vốn đầu tư từ NSNN.
- Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, coi trọng phương pháp hệ
thống, tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê... Thông qua việc thu thập, xử lý
các kết quả nghiên cứu, luận văn cố gắng khái quát, chọn lọc kiến thức, kinh
nghiệm thực tiễn về sử dụng vốn đầu tư từ NSNN để thực hiện mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
6
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về vốn đầu tư từ NSNN và
sử dụng vốn đầu tư từ NSNN nhằm góp phần phát triển KT-XH.
- Phân tích, đánh giá tình hình sử dụng vốn đầu tư từ NSNN của huyện
Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư từ NSNN nhằm góp phần phát triển KT-XH của huyện Bình Liêu tỉnh
Quảng Ninh đến năm 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN ĐẦU TƯ
TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ
TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NHẰM GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA
VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về vốn, theo Đại từ điển tiếng Việt:
Vốn là “tiền gốc, tiền bỏ ra để sản xuất, kinh doanh làm cho có lãi” [67, tr.1829].
Theo Luật Đầu tư năm 2005, vốn là “tiền và các tài sản hợp pháp khác
để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư
gián tiếp” [43, tr.2].
Còn theo giáo trình Kinh tế phát triển của Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh: “Vốn là toàn bộ giá trị của đầu tư để tạo ra các tài sản nhằm
mục tiêu thu nhập trong tương lai” [26, tr.107].
Vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất, song bản thân
chúng lại là kết quả đầu ra của các quá trình sản xuất trước đó. Nó không chỉ
tồn tại dưới dạng vật thể (hữu hình) như: máy móc, thiết bị, các công trình
kiến trúc, nguyên vật liệu… mà còn tồn tại dưới dạng phi vật thể (vô hình)
như các phát minh, sáng chế, các giải pháp hữu ích hay thậm chí những khoản
đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng được coi là vốn.
Vốn nói chung được chia thành hai loại là vốn sản xuất và vốn đầu tư.
8
- Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương
tiện trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố định
và vốn lưu động.
- Vốn đầu tư là tiền (tài sản) được dùng trong quá trình tái sản xuất để
duy trì năng lực sản xuất cũ hoặc tăng thêm năng lực sản xuất mới.
Giữa vốn đầu tư và vốn sản xuất luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng.
Có vốn đầu tư thì mới tiến hành được các hoạt động đầu tư, hoạt động đầu tư
tạo ra và làm tăng thêm vốn sản xuất cho nền kinh tế. Khi sử dụng vốn sản
xuất lại tái tạo ra vốn đầu tư cho giai đoạn tiếp theo.
Vốn đầu tư là một phạm trù gắn liền với hoạt động đầu tư, đó là quá
trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu
được các kết quả, thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới
dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội. Có nhiều cách phân loại vốn đầu tư như phân loại theo nguồn gốc vốn;
phân loại theo tính chất đầu tư; phân loại theo hình thức đầu tư; phân loại theo
chủ sở hữu… Nhưng ở đây chúng tôi phân nguồn vốn đầu tư thành hai loại:
nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
- Các nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ tiết kiệm trong
nước bao gồm:
Tiết kiệm của NSNN là phần được dành để chi cho đầu tư phát triển từ
thu của NSNN.
Chúng tôi sẽ phân tích kỹ hơn về nguồn vốn này trong phần vốn đầu tư
từ NSNN.
Tiết kiệm của doanh nghiệp là phần lãi sau thuế được các doanh nghiệp
để lại dành cho chi đầu tư phát triển. Trong thực tế, nguồn dành cho hoạt động
đầu tư của doanh nghiệp còn bao gồm cả nguồn vốn thu được từ khấu hao tài
sản cố định.
9
Tiết kiệm của dân cư là phần thu nhập để dành, chưa tiêu dùng của các
hộ gia đình.
- Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm:
Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn tài chính do
các cơ quan chính thức của chính phủ của một số nước, hoặc của một tổ chức
quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy, hỗ trợ quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của các nước này.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn vốn đầu tư của
tư nhân nước ngoài vào một nước khác để tiến hành kinh doanh nhằm mục
đích thu lợi nhuận.
Nguồn vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Viện trợ
NGO thường là viện trợ không hoàn lại. Trước đây chủ yếu là viện trợ vật
chất đáp ứng các nhu cầu nhân đạo như cung cấp thuốc men, lương thực.
Ngày nay viện trợ này bao gồm cả chương trình hỗ trợ phát triển với mục tiêu
dài hạn hơn.
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài (FPI hoặc FII) là nguồn
vốn do tư nhân nước ngoài cung cấp thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu
của nước chủ nhà, nhưng không tham gia công việc quản lý; hoặc thông qua
các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính; hoặc thông qua các khoản
tín dụng thương mại mà các nhà xuất khẩu nước ngoài dành cho các nhà nhập
khẩu của nước chủ nhà.
Trong các nguồn vốn trên thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò
quan trọng, là cần thiết, nhưng về lâu dài, nguồn vốn trong nước mới thực sự
giữ vai trò quyết định, đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của
đất nước.
Vốn đầu tư từ NSNN “là nguồn vốn được trích lập từ ngân sách của
Nhà nước chi cho các hoạt động đầu tư phát triển” [19, tr.95]. Và thực chất
10
“chính là khoản tiết kiệm của NSNN được dành để chi cho đầu tư phát triển
từ thu của NSNN” [26, tr.138].
Theo Luật NSNN năm 2002: "NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của
Nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của Nhà nước" [41, tr.35]. Thu NSNN bao gồm “các khoản thu từ phí, lệ phí;
các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của
các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo qui định
của pháp luật” [41, tr.36].
Qui mô tiết kiệm của NSNN về cơ bản tùy thuộc vào sự thay đổi của
tổng thu và chi thường xuyên của NSNN. Tổng thu NSNN lại phụ thuộc vào
qui mô và sự tăng trưởng của nền kinh tế, chính sách động viên thu nhập vào
NSNN của Chính phủ; hiệu lực và hiệu quả của tổ chức thu NSNN.
Nước ta đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với
xuất phát điểm rất thấp, từ một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở
vật chất kỹ thuật yếu kém, do vậy nhu cầu chi đầu tư phát triển là rất lớn. Trên
thực tế, chi đầu tư phát triển của NSNN thường lớn hơn phần tiết kiệm của
NSNN. Do Chính phủ coi trọng chi cho đầu tư phát triển, nên có thể vay bù
đắp bội chi NSNN sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển. Nguồn đi vay chủ
yếu là vay trong nước (huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ
chức kinh tế thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ và các hình thức vay
nợ qua Kho bạc Nhà nước như: công trái dài hạn, trái phiếu, tín phiếu kho bạc
với nhiều loại kỳ hạn và lãi suất khác nhau…) và vay nước ngoài (ODA, FPI,
phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế… ).
1.1.1.2. Đặc điểm của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
Vốn đầu tư từ NSNN là nguồn vốn có qui mô lớn.
Vốn đầu tư từ NSNN là một nguồn vốn quan trọng trong chiến lược
phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho
11
các dự án kết cấu hạ tầng KT-XH, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của
doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần có sự tham gia của nhà nước, chi cho
công tác lập và thực hiện các dự án qui hoạch tổng thể phát triển KT-XH
vùng, lãnh thổ, qui hoạch xây dựng đô thị và nông thôn…
Trong những năm vừa qua, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền
kinh tế, qui mô tổng thu NSNN không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều
nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho
thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước…) Đi cùng với sự mở rộng qui mô ngân
sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ NSNN cũng gia tăng đáng kể.
Giai đoạn 2001 - 2005 tổng thu ngân sách là 799.241 tỷ đồng, tỷ lệ tăng
bình quân là 20,46%, tỷ lệ huy động vào NSNN hàng năm bình quân là 24,36%
GDP; tổng chi ngân sách 923.407 tỷ đồng, tỷ lệ chi NSNN bình quân bằng 29%
GDP, trong đó chi đầu tư phát triển là 222.600 tỷ đồng, đạt bình quân 30,2%
tổng chi NSNN và chiếm 22,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội [19, tr.13].
Sang giai đoạn 2006 - 2010, tổng thu NSNN ước đạt 1.844.050 tỷ đồng,
tỷ lệ động viên thu NSNN bình quân đạt khoảng 25,97% GDP; tổng chi NSNN
ước đạt 2.330.300 tỷ đồng, tỷ lệ chi NSNN bình quân khoảng 32,34% GDP,
trong đó chi đầu tư phát triển là 595.160 tỷ đồng, đạt bình quân 25,54% tổng chi
NSNN và chiếm khoảng 19,53% tổng vốn đầu tư toàn xã hội [3, tr.67, 76-77].
Trong những năm gần đây, vốn đầu tư từ NSNN có xu hướng gia tăng
về giá trị tuyệt đối nhưng giảm về tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Năm 2006, vốn đầu tư từ NSNN là 100.200 tỷ đồng, chiếm 24,8% và đến năm
2010 dự kiến là 125.500 tỷ đồng, chiếm khoảng 15,9% [4, tr.76]. Việc vốn đầu
tư từ NSNN giảm về tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội là sự chuyển
dịch đúng hướng, khi kinh tế thị trường ngày càng được thiết lập, phát triển thì
Nhà nước rút dần chức năng đầu tư trực tiếp, chuyển giao dần chức năng này
cho các thành phần kinh tế khác đảm nhiệm, để một mặt có điều kiện tập trung
vào việc thực hiện quản lý nhà nước, xây dựng cơ chế pháp lý và chỉ tạo thành
12
vốn mồi, đầu tư vào các lĩnh vực, các vùng mà tư nhân không muốn đầu tư, mặt
khác để nâng cao hiệu quả đầu tư, tránh cơ chế xin cho, dàn trải, thất thoát.
Vốn đầu tư từ NSNN là nguồn vốn không hoàn trả trực tiếp. Vốn đầu tư
từ NSNN có nguồn gốc từ thu NSNN. Khi huy động các khoản thu vào ngân
sách, Nhà nước không cung ứng trực tiếp một khoản hàng hóa, dịch vụ công
cộng, hay bồi hoàn trực tiếp nào cho người thu nộp mà Nhà nước sẽ hoán trả
gián tiếp thông qua các hàng hóa, dịch vụ công cộng cho cộng đồng và xã hội.
Vốn đầu tư từ NSNN chủ yếu được đầu tư vào việc xây dựng các
công trình công cộng (đường giao thông, cầu, sân bay, bến cảng, công trình
phục vụ an ninh, quốc phòng, giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ và
các công trình văn hóa, xã hội khác) hoặc một số ngành kinh tế quan trọng
(điện lực, bưu chính, viễn thông…) cần có sự tham gia của nhà nước và
những người thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN sẽ được hưởng lợi từ những
khoản đầu tư này.
Vốn đầu tư từ NSNN là nguồn vốn gắn với sở hữu của Nhà nước và
cộng đồng. Nhà nước của ta là Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, Nhà nước
đại diện và bảo vệ quyền lợi của toàn dân và NSNN là các khoản thu công và
chi công, do vậy nó gắn với sở hữu của Nhà nước và cộng đồng.
1.1.2. Vai trò của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đối với phát
triển kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng và
phát triển kinh tế
Vốn đầu tư có vai trò quyết định đối với tăng trưởng và phát triển kinh
tế của mỗi quốc gia, do vậy nó được quan tâm như một yếu tố quan trọng
trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Đối với tăng trưởng kinh tế, vốn đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng
trưởng, vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng qui mô vốn đầu tư và
sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao
13
hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến chuyển dịch
CCKT theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế… do đó, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia bao gồm
các nhân tố tác động đến tổng cầu và các nhân tố tác động đến tổng cung.
- Tác động đến tổng cầu: Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần
đầu tư. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ
nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu,
tác động của đầu tư thể hiện rõ trong ngắn hạn. Xét theo mô hình kinh tế vĩ
mô, đầu tư là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Khi tổng cung chưa
kịp thay đổi, gia tăng đầu tư (I) làm cho tổng cầu (AD) tăng (nếu các yếu tố
khác không đổi).
AD = C + I + G + X - M
Trong đó:
C: Tiêu dùng
I: Đầu tư
G: Tiêu dùng của Chính phủ
X: Xuất khẩu
M: Nhập khẩu
- Tác động đến tổng cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn
cung chính là cung trong nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung
trong nước là một hàm của các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên,
công nghệ…, thể hiện qua phương trình sau:
Q = F(K, L, T, R…)
Trong đó:
K: Vốn đầu tư
L: Lao động
T: Công nghệ
R: Nguồn tài nguyên
14
Như vậy, tăng qui mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng
tổng cung của nền kinh tế (nếu các yếu tố khác không đổi). Mặt khác, tác
động của vốn đầu tư còn được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ… Do đó, đầu tư lại gián tiếp
làm tăng tổng cung của nền kinh tế [19, tr.23-24].
Mối liên hệ giữa tăng trưởng và đầu tư được biết đến nhiều nhất qua
mô hình Harrod - Domar. Mô hình này nói lên vai trò quyết định của vốn đầu
tư đối với tăng trưởng và chỉ ra rằng, có mối liên hệ bằng công thức toán học
giữa tăng trưởng GDP và tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế thông qua hệ số gia
tăng tư bản - đầu ra, viết tắt bằng tiếng Anh là ICOR (Incremental Capital
Output Ratio):
g = s/k
Trong đó:
g: Tốc độ tăng trưởng GDP, tính bằng %
s: Tỷ lệ tiết kiệm trong GDP, tính bằng %
(Ở đây luôn giả thiết là tiết kiệm bằng đầu tư)
k (ICOR) là hệ số gia tăng tư bản - đầu ra
(k = I/∆Y = ∆K/∆Y)
Theo phương trình trên thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ lệ
thuận với tỷ lệ tiết kiệm (đầu tư) và tỉ lệ nghịch với hệ số ICOR. Điều đó có
nghĩa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài của nền kinh tế thì
phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư và khống chế ở mức có thể chấp nhận
được hệ số gia tăng tư bản [26, tr.36].
Ví dụ: để tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế là 6% với hệ số ICOR là 5
thì tỷ lệ đầu tư phải đạt ở mức 30% GDP.
Còn theo hàm sản xuất Cobb- Douglas: Y = A x Kα x L β
Trong đó:
Y: Giá trị sản xuất
K: Vốn
L: Lao động
15
A: Hiệu quả sản xuất
α: Hệ số co giãn của vốn
β: Hệ số co giãn của lao động
Mục đích của hàm sản xuất Cobb - Douglas là xem xét vai trò của các
nhân tố đến sản lượng của nền kinh tế. Khi đầu tư tăng làm cho vốn tích luỹ K
tăng sẽ làm sản lượng Y tăng lên. Nói cách khác, sản lượng Y của nền kinh tế
được quyết định một phần bởi vốn đầu tư của toàn xã hội [25, tr.153].
Đối với chuyển dịch CCKT, đầu tư có tác động đến chuyển dịch CCKT
thông qua những chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư. Trong điều hành chính
sách đầu tư, nhà nước có thể can thiệp trực tiếp như thực hiện chính sách phân
bổ vốn, kế hoạch hóa, xây dựng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp
thông qua các công cụ chính sách như thuế, tín dụng, lãi suất để xác lập và định
hướng một cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch chuyển CCKT ngày càng hợp lý hơn.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp lý
sẽ tạo đà cho tăng trưởng và chuyển dịch CCKT. Tỷ trọng phân bổ vốn cho
các ngành khác nhau sẽ mang lại những kết quả và hiệu quả khác nhau. Vốn
đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành và các vùng kinh tế có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự dịch chuyển CCKT ngành, CCKT vùng và cũng đồng
thời ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Không
những thế, giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế cũng như chuyển dịch CCKT có
mối quan hệ khăng khít với nhau. Việc đầu tư vốn nhằm mục đích mang lại
hiệu quả kinh tế cao, tăng trưởng nhanh trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng
sẽ dẫn đến hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý. Ngược lại, tăng trưởng kinh tế
cao kết hợp với việc chuyển dịch CCKT hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi
dào, định hướng đầu tư vào các ngành có hiệu quả hơn.
Đối với phát triển KHCN, đầu tư và đặc biệt là đầu tư phát triển trực
tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế
và của các đơn vị cơ sở. Chính vì vậy, đầu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho
16
quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia. Theo cơ cấu
kỹ thuật của đầu tư, trong giai đoạn vừa qua, tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị
trong tổng vốn đầu tư của Việt Nam chiếm khoảng 28% (xây dựng chiếm
57%) [19, tr.35]. Cơ cấu này chưa phản ánh đúng yêu cầu công nghiệp hóa và
hiện đại hóa, tuy nhiên nó cũng là con số không nhỏ tạo ra năng lực công
nghệ cho toàn bộ nền kinh tế. Việc đầu tư vốn cho các mục tiêu phát triển sẽ
tạo cơ hội cho các doanh nghiệp và quốc gia đổi mới công nghệ, hiện đại hoá
quá trình sản xuất, thực hiện chiến lược đi tắt, đón đầu trong điều kiện cạnh
tranh và hội nhập hiện nay.
Đối với giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội khác. Trong điều kiện
trang bị kỹ thuật cho lao động không đổi, việc gia tăng vốn cho nền kinh tế sẽ
lôi cuốn thêm lực lượng lao động vào các hoạt động kinh tế, nhờ đó mà tạo
thêm việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động.
Vốn cũng có vai trò to lớn trong xóa đói, giảm nghèo. Nhiều người
nghèo, vùng nghèo rất thiếu vốn và khó có điều kiện tiếp cận với nguồn vốn
làm cho họ càng nghèo khó thêm. Chính vì thế, chương trình đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng cho vùng nghèo, hỗ trợ vốn hoặc tạo điều hiện thuận lợi trong
tiếp cận các nguồn tín dụng gắn với sự hỗ trợ về kỹ thuật, quản lý, tiêu thụ sản
phẩm… đã trở thành biện pháp có hiệu quả trong việc gắn tăng trưởng kinh tế
với xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
1.1.2.2. Vai trò của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đối với phát
triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, xem xét vai trò của vốn đầu tư từ NSNN đối với tăng trưởng
kinh tế chúng ta thấy vốn đầu tư từ NSNN là một phần chi tiêu của Chính
phủ, khi vốn đầu tư từ NSNN tăng sẽ làm cho tổng cầu tăng lên. Trên thực tế,
khi Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa để tác động vào tăng trưởng kinh
tế thì việc tăng hay giảm vốn đầu tư từ NSNN cũng được coi là giải pháp
quan trọng. Có thể thấy rõ điều này thông qua gói kích cầu trị giá 160.000 tỷ
17
đồng (tương đương 9 tỷ USD) của Chính phủ nhằm chống suy giảm kinh tế ở
Việt Nam do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu vào
năm 2009 vừa qua. Chính phủ đã sử dụng NSNN để hỗ trợ lãi suất 4% vay
vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại (17.000 tỷ đồng); thực hiện tạm
hoãn thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước năm 2009 (3.400 tỷ
đồng); ứng trước ngân sách để thực hiện một số dự án cấp bách, có khả năng
hoàn thành trong năm 2009 và 2010 (26.700 tỷ đồng); ứng vốn hỗ trợ thực
hiện Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo
của nước ta (1.525 tỷ đồng); chuyển nguồn vốn đầu tư thuộc NSNN kế hoạch
năm 2008 sang năm 2009 (22.500 tỷ đồng)… [37, tr.5]. Nhờ những chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ trong chính sách tài khóa đã góp phần ổn định kinh
tế vĩ mô, đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua tình trạng suy giảm kinh tế và
đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 là 5,3%.
Mặt khác, mặc dù vốn đầu tư từ NSNN chiếm tỷ trọng không lớn trong
tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nhưng cũng là một phần của vốn đầu tư và nó
cũng có tác động đến tổng cung.
Nhờ có sự tác động trực tiếp của vốn đầu tư nói chung, vốn đầu tư từ
NSNN nói riêng, nền kinh tế nước ta những năm qua liên tục tăng trưởng với tốc
độ khá cao và tương đối ổn định. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 2005 là 7,51% và giai đoạn 2006 - 2010 ước đạt 6,94% /năm. Năm 2007, tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam là 8,46% được xếp vào loại cao trên thế giới và
trong khu vực Châu Á (Trung Quốc 11,2%; Ấn Độ 9%; Xingapo 7,5%;
Philippin 6,6%; Malaixia 5,6%; Thái Lan 4%). Năm 2008, tăng trưởng kinh tế
của nước ta đạt 6,23%, đây là mức tăng trưởng kinh tế cao so với nhiều nước
trên thế giới trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Năm 2010, nền kinh
tế của nước ta tiếp tục phục hồi với nhiều dấu hiệu khả quan sau ảnh hưởng của
tình trạng suy giảm kinh tế, và dự báo tăng trưởng kinh tế sẽ đạt 6,5%. Quy mô
18
của nền kinh tế (theo giá so sánh) năm 2000 là 273,7 ngìn tỷ đồng, đến năm
2006 là 425,4 nghìn tỷ đồng và năm 2010, ước đạt 548,9 nghìn tỷ đồng [3, tr.80].
Đối với một nền kinh tế có sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững,
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm tăng lên, với một tỷ lệ huy động vào
NSNN không đổi thì số thu NSNN ngày càng tăng. Số thu NSNN có tốc độ tăng
nhanh hơn tốc độ tăng chi thường xuyên sẽ là cơ sở để tăng chi đầu tư từ
NSNN.
Thứ hai, với tư cách là một chủ thể kinh tế thì Nhà nước là nhà đầu tư
lớn nhất, có trong tay những nguồn lực hùng mạnh nhất, vì vậy việc Nhà nước
đầu tư vào lĩnh vực gì? ở đâu? có tác động hết sức lớn tới việc thay đổi và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và vùng kinh tế. Chúng ta đang đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, do vậy mục tiêu chuyển dịch CCKT
có ý nghĩa rất quan trọng. Các mục tiêu này được thực hiện trên thực tế thông
qua các hoạt động đầu tư, nhiều ít khác nhau tuỳ theo nhu cầu phát triển và
chính sách đầu tư của Nhà nước đối với từng ngành, vùng.
Mỗi vùng, miền của nước ta có đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội… khác nhau, do vậy Đảng và Nhà nước ta đã có những chính
sách ưu tiên đầu tư khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của từng
vùng, miền cũng như sự phát triển chung của cả nước. Năm 2010, vốn đầu tư
từ NSNN được phân bổ cho các vùng (phần địa phương quản lý) là 87.542 tỷ
đồng, trong đó: Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
24.744 tỷ đồng, chiếm 28,27%; Miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam 18.650 tỷ đồng, chiếm 21,3%; Bắc Trung Bộ, duyên hải
Trung Bộ và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 18.633 tỷ đồng, chiếm
21,28%; Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ 11.676 tỷ đồng, chiếm
13,34% ;Vùng Tây Nguyên 4.496 tỷ đồng, chiếm 5,14%; Vùng đồng bằng
sông Cửu Long 9.343 tỷ đồng, chiếm 10,67% [4, tr.70]. Có thể nhận thấy ba
vùng kinh tế trọng điểm của cả nước được phân bổ 62.027 tỷ đồng, chiếm đến
19
70,85% tổng vốn đầu tư từ NSNN, sở dĩ như vậy là do khu vực này tạo ra trên
khoảng 60% GDP, khoảng 75% GDP công nghiệp, trên 80% kim ngạch xuất
khẩu, đóng góp khoảng trên 85% NSNN [66, tr.422], vì thế cần có sự đầu tư
tập trung, tạo động lực, tạo đầu tàu cho tăng trưởng kinh tế của cả nước. Vốn
NSNN đầu tư cho vùng trung du và miền núi Bắc Bộ và vùng Tây Nguyên là
16.127 tỷ đồng, bằng 18,48%, đây là vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số
và có điều kiện KT-XH hết sức khó khăn nhưng giàu tiềm năng về thủy điện,
khoáng sản, phát triển kinh tế rừng… do vậy cũng cần được đầu tư một cách
thỏa đáng, và mặc dù hiệu quả về kinh tế không cao như những vùng, miền
khác, nhưng mang lại hiệu quả về mặt chính trị, xã hội.
Ngành nông nghiệp gắn với trên 50% dân số cả nước, năm 2000 đóng góp
24,3%, năm 2005 là 20,9% và dự kiến năm 2010 là 19,88% GDP [4, tr.80],
nhưng lại là lĩnh vực mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư vào vì lợi
nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, do vậy cần có sự quan tâm đầu tư của Nhà
nước. Vốn NSNN đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi là 20.607,1 tỷ
đồng vào năm 2009 và 23.945,2 tỷ đồng cho năm 2010 [4, tr.73], chủ yếu tập
trung đầu tư hình thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, thâm canh tăng năng
suất gắn với phát triển công nghiệp chế biến; phát triển các cơ sở sản xuất gắn với
vùng sản xuất nguyên liệu; đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học về giống
cây, giống con có năng suất cao, chất lượng tốt; áp dụng những thành tựu KHCN
vào chuyển đổi cơ cấu sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi; đầu tư
vào hệ thống đê điều, kênh mương, hồ đập thủy lợi… Nhờ đó đã góp phần quan
trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Chúng ta đang thực hiện chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng của
ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP, vì thế cơ cấu vốn đầu tư cũng có sự
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư vào nhóm ngành công nghiệp xây dựng và nhóm ngành dịch vụ. Năm 2010, vốn NSNN đầu tư cho ngành
20
công nghiệp là 2.111,8 tỷ đồng, chiếm 1,8% tổng vốn đầu tư, tăng 115,3 tỷ
đồng so với năm 2009; ngành giao thông vận tải là 26.345,1 tỷ đồng, chiếm
22,6% tổng vốn đầu tư, tăng 2.888,2 tỷ đồng so với năm 2009; ngành bưu
điện 320 tỷ đồng, chiếm 0,3% tổng vốn đầu tư, tăng 20 tỷ đồng so với năm
2009; thương mại, kho tàng, du lịch là 1.354,3 tỷ đồng, chiếm 1,2% tổng vốn
đầu tư, tăng 16,8 tỷ đồng so với năm 2009 [4, tr.73]. Năm 2009, tỷ trọng của
ngành công nghiệp và xây dựng trong GDP là 40,18% và dự kiến năm 2010 là
40,33%; tỷ trọng của ngành dịch vụ là 39,38% năm 2009 và khả năng đạt
39,79% trong năm 2010 [4, tr.80].
Thứ ba, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vốn đầu tư của Nhà nước
sẽ ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong việc hỗ trợ phát triển KHCN. Năm
2009, đầu tư từ NSNN cho lĩnh vực KHCN là 3.475,6 tỷ đồng, chiếm 3,4%; năm
2010 dự kiến là 4.088,3 tỷ đồng, chiếm 3,5% tổng vốn đầu tư [4, tr.73]. Đối với
nước ta, chi đầu tư trực tiếp của Nhà nước cho nghiên cứu khoa học và triển khai
công nghệ mới mặc dù còn nhỏ bé về qui mô, thấp về tỷ trọng nhưng đây cũng
là một trong những biểu hiện của đầu tư và ở mức độ nhất định nó cũng có tạo ra
và tăng cường năng lực KHCN nước ta và trên thực tế chúng ta cũng đã đạt
được những thành tựu nhất định trong lĩnh vực nông nghiệp như: giống mới,
công nghệ gen; lĩnh vực phần mềm; công nghệ vật liệu mới…
Thứ tư, vốn đầu tư từ NSNN còn có vai trò to lớn trong giải quyết việc
làm và các vấn đề xã hội khác.
Trong những năm qua, việc sử dụng vốn đầu tư từ NSNN đã góp phần
làm gia tăng vốn cho nền kinh tế và do vậy đã huy động thêm lực lượng lao
động vào các hoạt động kinh tế, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và cải thiện
đời sống cho người lao động. Theo báo cáo của Chính phủ trong giai đoạn
2006 - 2010, bình quân mỗi năm nước ta tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu
lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị năm 2006 là 4,82% và năm 2010 giảm
xuống còn khoảng 4,6% [3, tr.74].
21
Hàng năm, Nhà nước ta đầu tư từ NSNN những khoản tiền lớn để thực
hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, cụ thể, trong năm 2010, kế hoạch
phân bổ vốn đầu tư từ NSNN cho các chương trình mục tiêu quốc gia là 2.212
tỷ đồng, trong đó chương trình giảm nghèo là 273 tỷ đồng; chương trình việc
làm là 420 tỷ đồng; chương trình phòng chống một số bệnh dịch nguy hiểm
và HIV/AIDS là 260 tỷ đồng; chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm là 15 tỷ
đồng; chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường là 620 tỷ đồng; chương
trình văn hóa 386 tỷ đồng; chương trình phòng chống tội phạm 120 tỷ đồng;
chương trình phòng chống ma túy 100 tỷ đồng… Ngoài ra là vốn đầu tư để
thực hiện Chương trình 135 phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn vùng
đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa 2.307,2 tỷ đồng;
hỗ trợ 62 huyện nghèo theo nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP 1.240 tỷ đồng; hỗ
trợ đầu tư xây dựng nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định số 167/2008/QĐTTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ 510 tỷ đồng…[4, tr.16].
Việt Nam luôn được các nước khác trên thế giới đánh giá cao về những
kết quả đã đạt được trong thực hiện chính sách an sinh xã hội và việc đầu tư
từ NSNN của Đảng và Nhà nước ta đã phần nào giảm bớt khó khăn cho người
dân, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, các
đối tượng chính sách, góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và
giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ hộ nghèo của
Việt Nam năm 2006 là 15,5% và dự kiến năm 2010 sẽ giảm xuống dưới 10%
(theo chuẩn quốc gia năm 2005) [3, tr.66].
Một trong những mục tiêu cơ bản, có tính nguyên tắc của Đảng và Nhà
nước ta là công bằng xã hội. Tính công bằng ở đây bao gồm những yêu cầu về
sự bình đẳng, thoả đáng, hợp lý về các quyền lợi… giữa các dân tộc, giữa các
vùng miền, giữa các tầng lớp dân cư. Chính hoạt động đầu tư của Nhà nước
nhằm đạt được các mục tiêu như đã nói ở trên góp phần rất quan trọng vào
việc thực hiện các mục tiêu của công bằng xã hội.
22
1.2. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.2.1. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và vốn
đầu tư từ ngân sách nhà nước
1.2.1.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện
các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả
đó trong những điều kiện nhất định.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư mà gọi tắt là hiệu quả đầu tư “là phạm trù
kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả KT-XH đã đạt được của
hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một
thời kỳ nhất định” [19, tr.124].
Chúng ta có thể đưa ra khái niệm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ
NSNN như sau: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN phản ánh mối tương
quan giữa kết quả đạt được của hoạt động đầu tư và vốn đầu tư mà NSNN đã
bỏ ra để có được kết quả đó trong những điều kiện nhất định.
1.2.1.2. Nội dung phân tích hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, vốn đầu tư
từ ngân sách nhà nước
Khi xem xét đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, vốn đầu tư từ
NSNN, người ta thường đi sâu phân tích những nội dung: Kết quả đầu tư; tác
động hay hệ quả cả về mặt kinh tế, xã hội, chính trị của hoạt động đầu tư có
tính tới các mối quan hệ; quan hệ giữa kết quả đầu tư với vốn đầu tư đã bỏ ra.
Và vấn đề quan trọng là phải xem xét cả mức độ và cường độ tác động cả mặt
tích cực và tiêu cực của hoạt động đầu tư đến phát triển KT-XH, tìm ra
nguyên nhân để có biện pháp khắc phục những yếu kém và những hạn chế.
Công việc này được thực hiện theo các bước: Bước thứ nhất là tính toán các
chỉ tiêu hiệu quả; bước thứ hai, đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư thông qua
xem xét mức độ đạt được của các chỉ tiêu và thực tế phản ánh của mỗi chỉ