Mục lục
Tran
g
1
Mở đầu
Chơng 1: những vấn đề chung về phát triển bền vững
công nghiệp trên địa bàn Nghệ An
7
1.1. Khái niệm, nội dung và tiêu chí phát triển bền
vững công nghiệp
1.2. Vai trò của công nghiệp đối với phát triển bền
7
vững và các nhân tố ảnh hởng đến phát triển
bền vững công nghiệp
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phơng về phát
triển bền vững công nghiệp
20
31
Chơng 2: thực trạng phát triển công nghiệp trên địa
bàn nghệ an theo hớng bền vững
38
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hởng đến
phát triển công nghiệp Nghệ An theo hớng bền
vững
2.2. Thực trạng phát triển công nghiệp trên địa bàn
38
Nghệ An theo hớng bền vững từ năm 2005 đến
nay
2.3. Nguyên nhân của những kết quả đạt đợc và hạn
50
chế của phát triển công nghiệp trên địa bàn Nghệ
An theo hớng bền vững
75
Chơng 3: quan điểm, mục tiêu và các giải pháp cơ bản
nhằm phát triển bền vững công nghiệp trên địa bàn
nghệ an đến năm 2020
87
3.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển bền vững công
nghiệp Nghệ An
3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm phát triển bền vững
công nghiệp trên địa bàn Nghệ An
Kết luận
danh mục tài liệu tham khảo
87
93
108
110
Danh mục các chữ viết tắt trong luận văn
AFTA
:
ADB
ASEAN
BVMT
CTR
CCN
CNH, HH
CSSX
DNTN
FDI
GDP
GTSX
HND
ICOR
KCN
KHCN
KKT
ODA
PCI
PTBV
QL
QLCL
SXSH
TCVN
TTCN
UBND
USD
VLXD
WB
Khu vc mu dch t do
:
Ngõn hng phỏt trin Chõu
:
Cỏc nc khu vc Chõu
:
Bo v mụi trng
:
Cht thi rn
:
Cm cụng nghip
:
Cụng nghip húa, hin i húa
:
C s sn xut
:
Doanh nghip t nhõn
:
u t trc tip nc ngoi
:
Tổng sản phẩm trong nớc
:
Giỏ tr sn xut
:
Hi ng nhõn dõn
:
Ch s o lng hiu qu u t
:
Khu cụng nghip
:
Khoa hc - cụng ngh
:
Khu kinh t
:
Ngun vn u t h tr khụng hon li.
:
Ch s nng lc cnh tranh cp tnh
:
Phỏt trin bn vng
:
Quc l
:
Qun lý cht lng
:
Sn xut sch hn
:
Tiờu chun Vit Nam
:
Tiu th cụng nghip
:
y ban nhõn dõn
:
Đồng Đô la Mỹ
:
Vt liu xõy dng
:
Ngõn hng th gii
WTO
:
Tổ chức thương mại thế giới
Danh mục các bảng
Tran
g
Bảng
2.1:
Bảng
C cu kinh t ca tnh Ngh An phõn theo ngnh kinh t
46
GTSX cụng nghip v úng gúp ca cụng nghip vo
2.2:
Bảng
GDP ca tnh qua cỏc nm (theo giỏ so sỏnh nm 1994)
Mt s ch tiờu sn xut kinh doanh ti KKT, KCN trờn
51
2.3:
Bảng
a bn Ngh An
Cơ sở sản xuất công nghiệp theo loại hình
54
2.4:
sản xuất
56
Bảng
trên địa bàn Nghệ An
Giỏ tr sn xut cụng nghip Ngh An phõn theo
ngnh kinh t (giỏ so sỏnh nm 1994)
58
2.5:
Bảng
2.6:
Bảng
Lao ng cụng nghip Ngh An theo phõn ngnh kinh t
61
Kt qu phõn tớch nc thi ti Nh mỏy tinh bt sn
2.7:
Bảng
Thanh Chng - Ngh An
Nng mt s cht ụ nhim khụng khớ ti mt s a
71
2.8:
Bảng
im trờn a bn Ngh An
72
2.9:
Bảng
2.10:
Bảng
Khi lng cỏc loi CTR ti cỏc KCN Ngh An
Kt qu phõn tớch cht lng t Ngh An
73
74
Ngun vn u t phỏt trin h tng ti KKT ụng
2.11:
Bảng
Nam v cỏc KCN trờn a bn Ngh An
Dự báo giá trị GDP của các khu vực kinh tế
79
3.1:
Bảng
ở Nghệ An
Cơ cấu, mục tiêu phát triển các ngành công
89
3.2:
nghiệp Nghệ An thời kỳ 2006 2020
92
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất, có vai trò quan trọng trong cơ
cấu của nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp phát triển góp phần thúc đẩy sản
xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước. Chính vì vậy, trong
tiến trình phát triển kinh tế, Đảng ta đã đề ra mục tiêu xây dựng Việt Nam trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Quá trình phát triển kinh tế nước ta đã ghi nhận trong hơn 20 năm qua,
tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm được duy trì ở mức khá cao, trở
thành một yếu tố quan trọng đóng góp vào tăng trưởng GDP. Từ năm 2005
công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng trên đà 41% GDP; công nghiệp tác
động mạnh mẽ thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
Sự phát triển của công nghiệp đã làm xuất hiện nhiều ngành dịch vụ, đặc
biệt là các dịch vụ hiện đại; đóng góp của công nghiệp vào kim ngạch xuất
khẩu ngày càng tăng và hiện nay đã chiếm gần 80% tổng giá trị xuất khẩu
của nước ta [21], [22].
Tuy vậy các doanh nghiệp công nghiệp nước ta đang đứng trước những
cơ hội và thử thách chưa từng có trong xu thế toàn cầu hoá, tự do thương mại
và hướng tới sự PTBV. Thực tiễn phát triển công nghiệp của Việt Nam đã làm
nảy sinh nhiều vấn đề ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội và môi trường. Tình
trạng cạn kiệt các tài nguyên thiên nhiên, nhất là các đầu vào quan trọng
của sản xuất như than đá, dầu khí, đất đai. Trong điều kiện hội nhập ngày
càng mạnh mẽ như hiện nay, những hạn chế trong sản xuất công nghiệp
trên đây thực sự đang đe doạ PTBV kinh tế Việt Nam.
Để phát triển đất nước tiến kịp với các nước công nghiệp trên thế giới,
đòi hỏi công nghiệp Việt Nam phải đáp ứng được xu thế thời đại đó là phát
triển công nghiệp theo hướng bền vững.
Công nghiệp Nghệ An là cấu thành của công nghiệp Việt Nam và của
Khu vực Bắc Trung Bộ, vì vậy, PTBV công nghiệp Nghệ An hiện nay là cần
2
thiết và tất yếu, phù hợp định hướng, chiến lược quốc gia. Nghệ An là tỉnh có
vị trí địa lý quan trọng trong giao lưu kinh tế hai miền Bắc - Nam, xây dựng
và phát triển kinh tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế. Nghệ An có đầy
đủ tiềm năng và thế mạnh để phát triển công nghiệp, góp phần làm giàu cho
địa phương và thúc đẩy phát triển công nghiệp cả nước. Công nghiệp Nghệ
An đang được Trung ương, tỉnh quan tâm đầu tư, xây dựng trở thành khu vực
kinh tế trọng điểm của vùng Bắc Trung Bộ theo Kết luận số 20/2004/KL-TW
của Bộ Chính trị (năm 2004).
Trong những năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nghệ An luôn xác định
phát triển công nghiệp là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Các mục tiêu về phát
triển công nghiệp đã được cụ thể hoá trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Nghệ
An lần thứ XV, XVI và XVII. Việc đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ trong
các ngành công nghiệp đã được tập trung triển khai và đã tạo ra sự chuyển
biến mạnh mẽ ở một số lĩnh vực, sản phẩm trọng điểm. Tuy nhiên, trong quá
trình phát triển công nghiệp ở Nghệ An đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn
đề kinh tế - xã hội và môi trường bức xúc, bộc lộ những tồn tại, hạn chế
cần phải được giải quyết.
Đứng trước thực trạng này, việc nghiên cứu “Phát triển bền vững
công nghiệp trên địa bàn Nghệ An” có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài đã được công bố. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn này, tác giả
đã tham khảo, sử dụng có chọn lọc các quan điểm, ý tưởng từ các công trình
nghiên cứu, bài viết có liên quan của các tác giả sau đây:
* Các đề tài, công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, chuyên
gia kinh tế có liên quan về phát triển công nghiệp nói chung và một số
tỉnh:
- Lựa chọn và thực hiện chính sách phát triển kinh tế ở Việt Nam
(1998) của Viện Chiến lược và phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3
- Hội nghị toàn quốc về phát triển bền vững lần thứ nhất (2004). Dự án
VIE/01/021 hỗ trợ xây dựng và thực hiện chương trình nghị sự 21 quốc gia
của Việt Nam.
- Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam (2005), do
GS.TS Kenichi Ohno và GS.TS Nguyễn Văn Thường (chủ biên).
- Những thành tựu, hạn chế và thách thức của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa của GS.TS Vũ Đình
Cự, Tạp chí Lý luận chính trị, 12/2005.
- Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới: thành tựu và vấn đề đặt ra
của Nguyễn Sinh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12/2005.
- TS. Nguyễn Xuân Dũng Một số định hướng đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội - 2002.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Ảnh hưởng của chính sách phát triển các
khu công nghiệp tới phát triển bền vững ở Việt Nam; Dự án “ Hỗ trợ xây dựng và
thực hiện Chương trình nghị sự 21 Quốc gia của Việt Nam” VIE/01/021.
- PGS, TS Phan Đăng Tuất - Lê Minh Đức (2005), Chính sách công
nghiệp theo định hướng phát triển bền vững, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Dự án “
Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 Quốc gia của Việt
Nam” VIE/01/021.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Chính sách phát triển bền vững ở Việt
Nam; Dự án “Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 Quốc gia
của Việt Nam” VIE/02/021.
- Bộ Thương mại - Viện Nghiên cứu thương mại - Trung tâm tư vấn và
đào tạo kinh tế thương mại (1998), Thương mại - môi trường và phát triển
bền vững ở Việt Nam.
- Đề tài cấp Bộ (2008) của T.S Nguyễn Thị Hường, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh “Chính sách thương mại và công nghiệp
nhằm phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam”.
- Luận văn Th.S của Nguyễn Trọng Thường Tạo bước đột phá trong
phát triển công nghiệp của Hà Tĩnh", năm 2006, bảo vệ tại Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
4
- Luận văn Th.S của Đinh Hoàng Dũng Phát triển khu công nghiệp
Tỉnh Bắc Ninh theo hướng bền vững, năm 2008, bảo vệ tại Học viện Chính trị
- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn Th.S của Nguyễn Văn Tứ Phát triển bền vững công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Hải Dương, năm 2009, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
* Các đề tài, công trình nghiên cứu liên quan đến phát triển công
nghiệp trên địa bàn Nghệ An:
- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Thành Thu hút đầu tư vào các khu
công nghiệp ở Nghệ An hiện nay, năm 2006, bảo vệ tại Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Dự án Giảm nghèo thông qua tăng cường năng lực thể chế tại huyện
Quỳ Châu và cấp tỉnh Nghệ An (VIE 08 036 11- Dự án PORIS) - Hợp phần
đánh giá kinh tế địa phương của Nhóm nghiên cứu nhiều chuyên gia trong đó
TS. Nguyễn Văn Huân (Viện Kinh tế Việt Nam và CSĐP) - trưởng nhóm “
Báo cáo đánh giá thực trạng phát triển kinh tế địa phương và gợi ý định
hướng phát triển bền vững tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011-2020”.
Phan Đình Trạc, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An “Năm 2020 Nghệ An
phấn đấu trở thành trung tâm kinh tế - xã hội của vùng Bắc Trung Bộ”, Kinh
tế và Dự báo, số 21, 11/2008.
- Trần Hải Phi, Giám đốc sở Công Thương Nghệ An “Công nghiệp
động lực phát triển kinh tế Nghệ An”, Kinh tế và Dự báo, số 21, 11/2008.
- Nguyễn Song Tùng, Trưởng ban quản lý Khu kinh tế Đông Nam
Nghệ An “Khu kinh tế Đông Nam - Khu vực trọng điểm thu hút đầu tư của
tỉnh” Kinh tế và Dự báo, số 21, 11/2008.
- Phan Đình Trạc, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An “Nghệ An huy động
tiềm lực khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững”, Tạp
chi Cộng sản điện tử, ngày 14/01/2009.
- Hồ Đức Phớc, Phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An “Nghệ An tập trung
phát triển công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn”, Tạp chí Cộng sản
điện tử, 23/6/2009.
5
Hầu hết các công trình khoa học này tập trung nghiên cứu dưới giác độ
thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp, nông nghiệp nông thôn nói chung và
cụ thể của một số tỉnh (Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Tĩnh), đáng quan tâm là có
nhiều giải pháp được đặt ra về phát công nghiệp gắn với BVMT, phát triển
công nghiệp theo hướng bền vững.
Cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về PTBV
công nghiệp ở Nghệ An và tác giả đã chọn “Phát triển bền vững công nghiệp
trên địa bàn Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
• Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận PTBV công nghiệp và thực trạng
phát triển công nghiệp Nghệ An để đề xuất một số giải pháp nhằm PTBV
công nghiệp trên địa bàn Nghệ An trong những năm tiếp theo.
• Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về PTBV công nghiệp.
- Nghiên cứu và tìm hiểu thực tế kinh nghiệm PTBV công nghiệp của
một số địa phương.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp ở Nghệ An hiện nay
theo hướng bền vững.
- Đề xuất các nhóm giải pháp nhằm PTBV công nghiệp trên địa bàn
Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
• Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu PTBV công nghiệp bao gồm công
nghiệp Trung ương, công nghiệp địa phương và khu vực FDI trên địa bàn tỉnh
Nghệ An.
• Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Nghệ An
- Về thời gian: Từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
6
• Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các Văn kiện
Đại hội Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XV, XVI và
XVII; Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm
2020, Quy hoạch phát triển công nghiệp Nghệ An đến năm 2015 có tính đến
năm 2020; Định hướng chiến lược PTBV của Việt Nam, định hướng chiến
lược phát triển của các ngành và địa phương, định hướng chiến lược xây dựng
và phát triển công nghiệp Việt Nam; các lý thuyết về kinh tế học, kinh tế học
phát triển... làm cơ sở lý luận cho đề tài.
• Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, tác giả sử dụng 2 phương
pháp cơ bản sau:
Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
vận dụng những quan điểm của Đảng, nhà nước để nghiên cứu.
Phương pháp cụ thể: Hệ thống, thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp
dựa trên cơ sở các báo cáo đánh giá có sẵn của địa phương. Đồng thời, kế
thừa và sử dụng có chọn lọc các kết quả nghiên cứu trong các công trình đã
công bố để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra của đề tài.
6. Một số đóng góp khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa các quan điểm, chính sách về PTBV công nghiệp của
Việt Nam và Nghệ An.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp Nghệ An theo
hướng bền vững để đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm PTBV công
nghiệp trên địa bàn Nghệ An trong những năm tiếp theo.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức
năng để hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội và PTBV công nghiệp
của tỉnh Nghệ An thời gian tới. Ngoài ra luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy trong lĩnh vực trên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN NGHỆ AN
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ PTBV CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững và phát triển bền
vững công nghiệp
• Khái niệm PTBV
Trong những thập kỷ gần đây, PTBV trở thành một trong những vấn
đề quan trọng, mang tính toàn cầu, được nhiều tổ chức quốc tế và các nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu.
Trong báo cáo “Tương lai của chúng ta” do bà Gro Harlem Brundtland
Chủ tịch Hội đồng Thế giới về môi trường và phát triển (WCED) của LHQ
lần đầu tiên (năm 1987) đã đưa ra định nghĩa: “Phát triển bền vững là sự
phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không làm tổn
hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Sau đó, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển họp
tại Rio de Janiero (Braxin) năm 1992 đã đưa ra bản tuyên ngôn về “Môi
trường và Phát triển” đã tái khẳng định khái niệm trên và cùng thỏa thuận một
chương trình nghị sự Phát triển bền vững, gọi là Agenda 21.
Mười năm sau (2002), Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới và phát triển bền
vững tổ chức ở Johannesburg (cộng hòa Nam Phi) đã xác định phát triển bền
vững “là quá trình có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự
phát triển, đó là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”.
Tại Hội nghị Copenhagen, tháng 10-1991, Khái niệm “Phát triển bền vững
công nghiệp” được UNIDO đưa ra như sau: "Những mô hình (pattern) công
nghiệp hoá hướng vào các lợi ích về kinh tế và xã hội của thế hệ hiện tại và
các thế hệ sau mà không làm tổn hại tới quá trình sinh thái nền".
Kế thừa các quan niệm khác nhau về PTBV, luận văn tiếp cận
PTBV như sau:
8
PTBV là sự phát triển vừa đáp ứng được các nhu cầu của thế hệ
hiện tại vừa không ảnh hưởng xấu đến khả năng phát triển của các thế hệ
tương lai, đó là sự phát triển kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với
phát triển xã hội và môi trường sinh thái nhằm làm cho cuộc sống của
con người ngày càng tốt đẹp hơn.
Đây là khái niệm khá đầy đủ về PTBV bởi vì trong khái niệm này đã
hàm chứa PTBV như là một phương thức, một kiểu phát triển buộc phải lựa
chọn và đặt ra yêu cầu phải giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với
phát triển xã hội và BVMT; đồng thời chỉ ra yêu cầu bình đẳng trong sự phát
triển giữa các thế hệ và mục tiêu cuối cùng của mọi sự phát triển nói chung và
PTBV nói riêng là nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
• Khái niệm PTBV công nghiệp
Khi nghiên cứu khái niệm PTBV công nghiệp không thể tách rời nó với
khái niệm PTBV nói chung. Vì vậy, việc đưa ra khái niệm PTBV công nghiệp
gắn liền với quá trình nhận thức về PTBV. Từ quá trình phân tích các đặc
điểm của sản xuất công nghiệp ở trên cho thấy, PTBV công nghiệp có ảnh
hưởng rất lớn đến PTBV nói chung. Vấn đề đó đã thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế.
PTBV được định nghĩa là “Sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại
mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp
ứng như cầu của họ”. Tuy nhiên, khi chuyển sang lĩnh vực công nghiệp để
hiểu thế nào là phát triển bền vững cũng không phải dễ dàng.
Tổ chức Phát triển Liên hợp quốc (UNIDO) trong nhiều năm đã cố
gắng đưa ra cách giải thích làm rõ nghĩa hơn khái niệm này nhằm giúp định
hướng cho các hành động. Định nghĩa đầu tiên được đưa ra vào những năm
80 cho rằng “phát triển bền vững công nghiệp” - Ecologically Sustainable
Industrial Development ESID là:
Phát triển bền vững công nghiệp là một cách tiếp cận đối với phát triển
công nghiệp, cho phép giải hoà giữa tăng dân số, tăng trưởng công nghiệp và
bảo vệ môi trường.
9
Trong sự cố gắng đầu tiên này, khái niệm dường như bỏ qua tính hình
thức mà đề cập thẳng đến vấn đề cốt lõi nhất của phát triển công nghiệp là
tăng trưởng công nghiệp, tăng dân số và BVMT. Phát triển công nghiệp tất
yếu sinh ra phát thải ô nhiễm, phát triển cũng đồng nghĩa với những hy sinh
nhất định về môi trường, đó là hai nội dung không thể tách rời, hết sức mâu
thuẫn nhưng luôn tồn tại trong bất kỳ sự phát triển nào. Bên cạnh đó, công
nghiệp góp phần giải quyết vấn đề dân số bằng cách thoả mãn ngày càng cao
các nhu cầu của họ. Song chính những nhu cầu thái quá về tiêu dùng buộc sản
xuất công nghiệp phải tạo ra nhiều sản phẩm hơn và hệ quả là làm gia tăng
quá trình khai thác tài nguyên và tác động xấu tới môi trường không thể tránh
khỏi. Làm thế nào để hài hoà giữa các vấn đề hết sức mâu thuẫn nhưng thông
nhất và đâu là giới hạn của sự bền vững cần phải tìm kiếm đó là mấu chốt của
tiếp cận PTBV.
Một khái niệm mới được đưa ra với những nội dung cụ thể hơn và bám
sát hơn các khái niệm gốc, đó là khái niệm “Phát triển bền vững công nghiệp”
được UNIDO tiếp tục phát triển như là:
Những mô hình (pattern) công nghiệp hoá hướng vào các lợi ích về
kinh tế và xã hội của thế hệ hiện tại và các thế hệ sau mà không làm tổn hại
tới quá trình sinh thái nền.
Tại Hội nghị này, đã có một bước tiến quan trọng trong việc làm rõ các
nội dung của khái niệm trên. Trong định nghĩa này đã mở hướng tiếp cận
thông qua những mô hình CNH có cân nhắc. Đó là mô hình hướng vào các
lợi ích kinh tế và xã hội của thế hệ hiện tại và các thế hệ sau mà không để lại
những hậu quả về môi trường sinh thái. Ở đây, những lợi ích tương lai được
nhấn mạnh song song với lợi ích trước mắt, một sự phát triển trong tổng hoà
các lợi ích và tư duy cân bằng hơn. Những vấn đề đặt ra ngày càng cụ thể hơn
với công nghiệp như sử dụng hiệu quả các nguồn lực con người, nguyên vật
liệu và năng luợng, công bằng trong chia sẻ về môi trường và xã hội.
Ở Việt Nam, phát triển công nghiệp được xem như là tập hợp các sự lựa
chọn, và phụ thuộc vào đó có thể tạo ra những hiệu ứng bền vững khác nhau.
10
Rõ ràng một sự phát triển cân đối hợp quy luật sẽ có những bảo đảm lâu dài
hơn là sự phát triển thái quá chỉ nhằm đến mục tiêu trước mắt. Xét về lý
thuyết, các chuẩn mực hay thước đo cũng có thể thay đổi ứng với mỗi giai
đoạn phát triển. Và không chỉ những vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường, mà
còn có cả những tác động đan xen của các khía cạnh chính trị và an ninh. Từ
trong các phân tích chiến lược của Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách
công nghiệp đã phác thảo ra 5 tiêu chí định hướng cho “Phát triển bền vững
công nghiệp Việt Nam” (Chính sách công nghiệp theo định hướng phát triển
bền vững. Dự án hỗ trợ và xây dựng Chương trình nghị sự 21 Quốc gia Việt
Nam -2005- Bộ Kế hoạch và Đầu tư) như sau:
Tiêu chí 1: Tăng trưởng bền vững.
Tiêu chí 2: Tạo vị thế trong phân công quốc tế.
Tiêu chí 3: Tiêu dùng bền vững công nghiệp.
Tiêu chí 4: Doanh nghiệp bền vững.
Tiêu chí 5: Chia sẻ cơ hội thực hiện công bằng xã hội, phù hợp thể chế
chính trị và an ninh.
Trong nội dung thứ nhất đề cập đến “Tăng trưởng bền vững” bao hàm
cùng lúc các đảm bảo tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng. Chất lượng tăng
trưởng thể hiện ở 3 yếu tố chính: Giá trị gia tăng (VA), năng lực cạnh tranh và
cơ cấu công nghiệp.
- Giá trị gia tăng: là chỉ tiêu quan trọng bậc nhất phản ánh chất lượng
tăng trưởng. Giá trị gia tăng thấp có thể là một biểu hiện đặc trưng cho thời kỳ
đầu phát triển công nghiệp hoá dựa vào gia công, song nếu không nhận diện và
điều chỉnh kịp thời sẽ tạo ra các mầm mống không bền vững trong tương lai.
- Năng lực cạnh tranh: phản ánh những giá trị lợi thế vô hình và hữu
hình, những cơ hội tạo ra lợi nhuận của toàn bộ nền công nghiệp.
- Cơ cấu công nghiệp: là một trong 3 nội dung tạo nên chất lượng tăng
trưởng. Cơ cấu công nghiệp bền vững là cơ cấu phản ánh được xu thế phát
triển chung (sản phẩm/công nghệ), đảm bảo các cân đối nội tại thượng - hạ
nguồn, công nghệ phụ trợ và xuất/nhập khẩu. Đó là cơ cấu đa dạng nhưng
thống nhất và có khả năng hỗ trợ tốt cho nhau cho phép tạo ra các giá trị gia
11
tăng lớn nhất. Trong đó, hàm lượng công nghệ và chế biến sâu trở thành động
lực chính của tăng trưởng, quyết định nội dung về chất của cơ cấu.
Tiêu chí thứ 2, Tạo vị thế trong phân công quốc tế được đặt ra trong bối
cảnh hội nhập và tự do hoá thương mại. Công nghiệp Việt Nam mặc dù nhỏ
bé nhưng phải có chỗ đứng trong không gian chung, cân bằng được các quan
hệ nhiều chiều trở thành một mắt xích trong mạng lưới phân công quốc tế.
Tiêu chí thứ 3 đề cập đến Tiêu dùng bền vững công nghiệp. Nguyên tắc
quan trọng nhất của PTBV là hài hoà giữa phát triển và BVMT. Trong công
nghiệp, phát triển phải đi đôi với giảm thiểu ô nhiễm và phát thải, bởi tiêu
dùng công nghiệp là nguyên nhân cơ bản tạo ra chất thải và các tác động tới
môi trường và cả xã hội. Có 2 nội dung “tiêu dùng công nghiệp” quan trọng
đó là: tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng sản phẩm công nghiệp.
Tiêu dùng sản xuất bao hàm cả việc khai thác tài nguyên phục vụ sản
xuất cần phải sử dụng tiết kiệm và hiệu quả, giảm thấp nhất chi phí tài nguyên
trên đơn vị sản phẩm hay giá trị công nghiệp tạo ra.
Tiêu dùng sản phẩm công nghiệp đang tạo ra lượng chất thải rất lớn
như: hàng tiêu dùng, bao gói, hoá chất v.v…nếu không được xử lý sẽ gây ra ô
nhiễm rất lớn nhưng nếu xử lý sẽ rất tốn kém. Tiêu dùng bền vững vì vậy
hướng tới các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm không chất thải, các
mô hình công nghiệp sinh thái trong đó các sản phẩm và chất thải được quay
vòng, tái sử dụng.
Tiêu chí thứ 4 cho rằng doanh nghiệp là cấu thành quan trọng nhất của
công nghiệp, mỗi doanh nghiệp phải thực sự bền vững mới tạo ra nền công
nghiệp bền vững. Khái niệm Doanh nghiệp bền vững phản ánh năng lực tự
điều chỉnh và thích nghi trong môi trường luôn biến động (bền vững động),
hàm chứa không chỉ các nội dung về kinh tế mà còn Trách nhiệm xã hội đầy
đủ (Corporate Social Responsibiliti - CSR) của doanh nghiệp. Trách nhiệm
xã hội đầy đủ (CSR) chính là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường
và xã hội, song lớn hơn xu hướng mới mong muốn tạo ra các sắc thái Văn hoá
doanh nghiệp. Các sắc thái mới chứa đựng các nội dung đầy đủ hơn không chỉ
12
kinh tế, tạo ra giá trị riêng của doanh nghiệp và làm cho thương hiệu trở nên bền
vững. Bền vững trước hết phải bắt nguồn từ trong ý thức, quyết định hành động
và ứng xử của mỗi doanh nghiệp và chính văn hoá doanh nghiệp tạo ra các giá
trị gia tăng vô hình của doanh nghiệp trong nhiều trường hợp lớn hơn giá trị hữu
hình mà doanh nghiệp tạo ra. Đó chính là cách tiếp cận cạnh tranh mới trong
một thế giới hội nhập và theo các chuẩn mực giá trị mới.
Tiêu chí cuối cùng gắn với Chia sẻ cơ hội thực hiện công bằng xã hội đối
với các nhóm lợi ích, sao cho mọi người đều có quyền bình đẳng tiếp cận và chia
sẻ các thành quả CNH. Trong tiêu chí này có thể thấy rằng lợi ích mà công
nghiệp có được là sự hy sinh những lợi ích khác cả về môi trường và xã hội.
Chính vì vậy, công nghiệp cần phải tạo ra cơ hội nhằm lập lại công bằng đối với
các nhóm lợi ích. Công nghiệp trước hết có thể góp phần xoá đói, giảm nghèo,
thu hẹp khoảng cách vùng miền, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị để tạo
cơ hội giải quyết các bất bình đẳng giới. Xét đến cùng, PTBV chính là nhằm đến
con người và đạt được mức độ công bằng hơn trong chia sẻ phúc lợi xã hội đối
với con người. Công nghiệp trong các lựa chọn của mình phải hướng đến hay
tạo ra các cơ hội để thực hiện công bằng xã hội đang đặt ra.
Các vấn đề chính trị và an ninh được xem xét ở đây như là yếu tố không
thể thiếu của bền vững công nghiệp. Xuất phát từ nhận thức rằng những thành
tựu phát triển đạt được hôm nay chính là nhờ sự ổn định chính trị và những giá
trị lịch sử được thiết lập. Ở Việt Nam, nhờ đạt được sự chấp thuận về chính trị
mà nền kinh tế mới hoà đồng được với thế giới và có chỗ đứng nhất định trên thị
trường. Chính vì vậy, công nghiệp bên cạnh mục tiêu phát triển phải góp phần
vào ổn định chính trị, duy trì sự đoàn kết và tự do tín ngưỡng, bảo tồn bản sắc
văn hoá và các giá trị lịch sử. Đó là tiêu chí cần phải cân nhắc để đạt được độ
bền vững trong cộng đồng và phù hợp với thể chế chính trị đặt ra.
Tiếp thu có chọn lọc khái niệm PTBV và các khái niệm PTBV công
nghiệp đã có, tác giả đưa ra khái niệm PTBV công nghiệp như sau:
PTBV công nghiệp là sự phát triển của công nghiệp nhằm đáp ứng các
nhu cầu hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển công
13
nghiệp trong tương lai, là sự phát triển kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh
tế, phát triển xã hội và BVMT trong quá trình sản xuất công nghiệp.
1.1.2. Nội dung và các tiêu chí phát triển bền vững công nghiệp
1.1.2.1. Phát triển bền vững công nghiệp về kinh tế
• Nội dung
Trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước, công nghiệp ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu của nền kinh tế. Do đó, công nghiệp phải tăng trưởng
cao, liên tục và dài hạn.
Để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, liên tục và dài hạn,
đương nhiên, sự tăng trưởng cao như vậy phải là tăng trưởng của giá trị gia
tăng (VA) chứ không phải là tăng trưởng nhanh giá trị sản xuất công nghiệp
(GO) bằng cách tăng nhanh các chi phí trung gian, như kiểu các ngành chế
biến sản phẩm thô hoặc gia công xuất khẩu.
Tăng trưởng cao, liên tục và dài hạn của công nghiệp chỉ có thể thực
hiện được khi công nghiệp có năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cao.
Hiệu quả sản xuất công nghiệp thể hiện ở phương thức tăng trưởng phải chủ
yếu dựa vào hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực và được thể hiện qua năng
suất tổng hợp các nhân tố TFP (total Factor Produtivity). Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng toàn diện và sâu sắc,
thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cao là phương thức
cơ bản để công nghiệp có thể duy trì sự tăng trưởng cao, liên tục, lâu dài và
đóng góp ngày càng cao vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.
Cơ cấu công nghiệp tạo sự PTBV của công nghiệp và thúc đẩy cơ cấu
của nền kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH.
Cơ cấu công nghiệp bền vững thể hiện ở một cơ cấu đa dạng nhưng
thống nhất, có khả năng hỗ trợ tốt cho nhau nhằm khai thác được tiềm năng
và lợi thế của đất nước để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.
Tính đa dạng của cơ cấu bắt nguồn từ chỗ các nguồn lực cho sản xuất công
nghiệp là đa dạng, các sản phẩm công nghiệp đáp ứng nhu cầu muôn hình
muôn vẻ của sản xuất và đời sống là đa dạng, các qui trình và phương pháp
14
công nghệ trong sản xuất công nghiệp là đa dạng. Vì vậy, một cơ cấu đơn điệu
không thể khai thác được các nguồn lực đa dạng, công nghệ đa dạng và các
nhu cầu sản phẩm đa dạng. Tuy nhiên, tính đa dạng của cơ cấu phải tạo ra sự
liên kết và hỗ trợ tốt cho nhau giữa các ngành công nghiệp chuyên môn hóa,
chứ không phải là biệt lập, cô lập thậm chí đối lập nhau trong quá trình phát
triển. Phải tạo ra sự liên kết và hỗ trợ nhau giữa các ngành công nghiệp
chuyên môn hóa (giữa công nghiệp thượng, trung, hạ nguồn, công nghiệp phù
trợ; giữa công nghiệp xuất khẩu với các sản phẩm và công nghệ nhập khẩu),
giữa công nghiệp của các vùng và giữa công nghiệp của khu vực doanh
nghiệp nhà nước với công nghiệp của khu vực dân doanh trong nước và khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Cốt lõi của cơ cấu công nghiệp hiện đại phải là sự phát triển của các
ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao và độ chế biến sâu, được hỗ
trợ bởi hệ thống đổi mới và nghiên cứu phát triển (R&D) có năng lực trở
thành động lực chính của tăng trưởng, quyết định nội dung về chất của cơ cấu.
Trong bối cảnh phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc bị thúc
đẩy bởi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế công nghiệp Việt Nam mặc dù nhỏ
bé, song cũng phải xác định được chỗ đứng trong không gian chung và trở
thành một mắt xích quan trọng trong mạng lưới phân công quốc tế, từng bước
hướng đến các “phân đoạn quốc tế” ngày càng có lợi cho phát triển trong một
số lĩnh vực công nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo các xu hướng nói trên phải tạo
điều kiện thúc đẩy chuyển cơ cấu nông nghiệp và dịch theo hướng CNH, HĐH.
• Tiêu chí
Từ những nội dung đã phân tích ở trên có thể đưa ra một số chỉ tiêu của
PTBV công nghiệp về kinh tế như sau:
- Tốc độ gia tăng của công nghiệp và đóng của nó vào tốc độ tăng của
nền kinh tế.
- Hiệu quả sản xuất thể hiện ở chỉ số VA (giá trị gia tăng)/GO (giá trị
sản xuất công nghiệp) và chỉ số ICOR của công nghiệp.
- Năng suất tổng hợp các nhân tố (TFP).
15
- Năng lực cạnh tranh của công nghiệp thể hiện ở năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp, sản phẩm công nghiệp và tác động của công nghiệp đối với
năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ.
- Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp vào GDP tỷ trọng xuất khẩu công
nghiệp/Tổng kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu có hàm
lượng KHCN /tổng giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp.
- Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu và xu hướng thay đổi của cơ cấu nội bộ
ngành công nghiệp xét theo trình độ công nghệ, theo cấu trúc của các sản
phẩm công nghiệp, theo cơ cấu giữa các ngành thượng nguồn, trung nguồn và
hạ nguồn; cơ cấu phân bố theo vùng lãnh thổ.
- Tác động thúc đẩy của công nghiệp đối với chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp và dịch vụ thể hiện qua thay đổi tỷ trọng của các lĩnh vực này/GDP.
1.1.2.2. Phát triển bền vững công nghiệp về xã hội
• Nội dung
Công nghiệp tạo ra việc làm ngày càng nhiều và thu nhập ngày càng
tăng. Hiện nay tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị khoảng 5% và tình trạng
dư thừa lao động trong nông nghiệp cũng ngày càng gia tăng đang tạo ra sức
ép rất lớn trong vấn đề giải quyết việc làm. Việc gia tăng tình trạng dư thừa
lao động ở nước ta bị tác động bởi ba tác nhân chính:
Một là, tốc độ tăng dân số vẫn ở mức cao, ước tính đến giữa thế kỷ 21
dân số Việt Nam có thể đạt qui mô 130-140 triệu người, trong khi nước ta vốn
là một nước có diện tích nhỏ, dân số đông, diện tích đất nông nghiệp bình
quân đầu người rất thấp.
Hai là, nhu cầu đất cho xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội và phát triển công nghiệp trong quá trình CNH ngày càng tăng, đã dẫn đến
chuyển một bộ phận không nhỏ đất nông - lâm nghiệp thành đất phi nông
nghiệp, làm cho đất nông - lâm nghiệp càng bị giảm sút.
Ba là, nhờ áp dụng hệ thống máy móc và những tiến bộ kỹ thuật trong
nông nghiệp làm cho năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên. Chính vì
thế, lực lượng lao động nông nghiệp của nước ta đang ở tình trạng dư thừa
16
tuyệt đối, chứ không chỉ là dư thừa lúc “nông nhàn”. Để đảm bảo điều kiện
sống tối thiểu cho các hộ gia đình nông thôn, đặc biệt là ở vùng châu thổ sông
Hồng và vùng Duyên hải miền Trung, người ta phải chia nhỏ đất đai nông
nghiệp cho các hộ gia đình và áp dụng chế độ hạn điền. Song tình trạng này
tồn tại lâu dài nông nghiệp sẽ không thể tiếp tục phát triển. Nếu như tích tụ và
tập trung ruộng đất để hình thành các trang trại qui mô lớn nhằm tăng hiệu
quả kinh doanh trong nông nghiệp thì tình trạng dư thừa lao động tuyệt đối sẽ
gia tăng và càng trở thành vấn đề xã hội rất lớn. Trong bối cảnh như vậy, phát
triển công nghiệp để thu hút lao động, đặc biệt là lao động dôi dư trong nông
nghiệp vừa có ý nghĩa nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực lao động cho tăng
trưởng, vừa góp phần giải quyết vấn đề xã hội cấp bách là tạo việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động và tích cực tham gia vào xóa đói giảm nghèo.
Công nghiệp góp phần giảm bớt khoảng thu nhập giữa thành thị và
nông thôn và giữa các vùng miền. Công nghiệp thường phát triển trên những
địa bàn có vị trí địa lý, khả năng cung ứng các nguồn lực và hệ thống kết cấu
hạ tầng thuận lợi. Những địa bàn như vậy thường là các KCN, đô thị. Hệ quả
tất yếu là tạo ra sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng kinh tế.
Chênh lệch thu nhập giữa các vùng chủ yếu là chênh lệch giữa thành thị và
nông thôn ngày càng doãng ra theo hướng bất lợi cho khu vực nông nghiệp
nông thôn. Phát triển công nghiệp như vậy xét về lâu dài là vừa không bền
vững về kinh tế, vừa không bền vững về xã hội, bởi lẽ những KCN - đô thị
tập trung vừa đắt đỏ, tốn kém, vừa quá tải trong các hoạt động kinh tế, xã hội,
môi trường. Trong khi đó, khu vực nông thôn, nhất là ở những vùng sâu vùng
xa người dân vừa thiếu việc làm, thu nhập thấp, không được thụ hưởng các
điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng… nghĩa là ngày càng bị cách biệt lớn cả
về điều kiện, cũng như sự hưởng thụ thành quả của phát triển. Vì thế, PTBV
công nghiệp cần phải tính đến khả năng đóng góp của công nghiệp vào việc
giảm bớt khoảng cách thu nhập giữa các vùng. Đây là điều không đơn giản,
song không có nghĩa là không có khả năng làm được nếu ngay từ đầu có được
17
nhận thức và có quan điểm chỉ đạo đúng đắn để không đầu tư thái quá tập trung
vào một số vùng, đặc biệt là các khu vực đô thị.
Công nghiệp phát triển phải đồng thời bảo đảm được không làm tổn
thất đến sản xuất nông nghiệp và lợi ích của nông dân.
Giải quyết mối quan hệ công - nông nghiệp luôn luôn là vấn đề quan
trọng trong phát triển kinh tế của một quốc gia. Công nghiệp không thể coi là
PTBV khi trong quá trình phát triển của mình nó không những không tạo ra
được những điều kiện thuận lợi, mà còn gây ra những xung đột đối với sự
phát triển nông nghiệp: nguồn vốn đầu tư lớn đổ vào công nghiệp trong khi
nông dân thiếu từng món tiền nhỏ; hệ thống kết cấu hạ tầng qui mô lớn được
đầu tư mạnh mẽ cho công nghiệp trong khi hệ thống kết cấu hạ tầng trong
nông nghiệp vừa xuống cấp vừa lỗi thời; những vùng đất nông nghiệp màu
mỡ bị lấy không thương tiếc cho công nghiệp, trong khi những người nông
dân canh tác trên những mảnh ruộng đó được “đền bù” với giá rẻ mạt để sau
đó họ làm gì để kiếm sống cũng không cần biết; KCN lan ra đến đâu ô nhiễm
đến đó và tất cả lại là nông dân phải hứng chịu. Phát triển công nghiệp nhưng
người nông dân dù với tư cách là người bán nguyên liệu nông - lâm - thủy sản
cho các nhà máy công nghiệp chế biến, hay với tư cách là người mua các vật tư
phục vụ nông nghiệp người nông dân đều bị chèn ép. Đó là kiểu phát triển công
nghiệp trên cơ sở công nghiệp thôn tính nông nghiệp. Phát triển dựa trên nền
tảng ấy rốt cục công nghiệp cũng không thể tiến xa được, bởi lẽ an ninh lương
thực không đảm bảo, cơ sở nguyên liệu cho nông - lâm - thủy sản không đảm
bảo, đời sống nông dân không được cải thiện, chênh lệch về thu nhập quá lớn và
ngày càng khoét sâu lòng dân không yên sẽ gây ra bất ổn định… thì công nghiệp
cũng mất đi cơ sở của phát triển. Vì vậy, PTBV công nghiệp cả về kinh tế, xã hội
và môi trường đòi hỏi không được làm tổn thất đến phát triển nông nghiệp và
lợi ích của nông dân. PTBV công nghiệp không được thôn tính nông nghiệp,
nông thôn và biến người nông dân thành không chỉ là kẻ ngoài cuộc, mà còn là
nạn nhân của phát triển công nghiệp. Thay vào đó cần phải biết chia sẻ thành
18
quả của công nghiệp một cách công bằng cho các thành viên của xã hội xét cả
trên các phương diện kinh tế - xã hội - môi trường.
• Tiêu chí
Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra một số chỉ tiêu PTBV công
nghiệp về xã hội như sau:
- Chỉ tiêu tạo việc làm:
+ Số lượng việc làm trong lĩnh vực công nghiệp ngày càng tăng cả về
số lượng tuyệt đối và tỷ trọng.
+ Thu hút lao động dôi từ khu vực nông nghiệp nông thôn trong
CNH, HĐH.
+ Thúc đẩy tạo việc làm trong lĩnh vực dịch vụ.
- Nâng cao thu nhập và rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các vùng, miền.
+ Thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng.
+ Thu nhập trong lĩnh vực công nghiệp ngày càng tăng.
+ Thúc đẩy thu nhập của khu vực nông thôn và khu vực dịch vụ.
+ Rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các vùng, miền.
- Không tổn hại đến sản xuất nông nghiệp.
- Bảo đảm sức khoẻ và lợi ích của tiêu dùng.
1.1.2.3. Phát triển bền vững công nghiệp về môi trường
• Nội dung
Khai thác, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên là một nội dung
rất quan trọng đối với PTBV công nghiệp cả về kinh tế và môi trường.
Công nghiệp là ngành khai thác và chế biến tài nguyên, đồng thời lại
phát thải một bộ phận tài nguyên chưa được sử dụng trong sản xuất. Nhờ sử
dụng có hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên mà nâng cao hiệu quả kinh tế của
sản xuất công nghiệp, hạn chế tình trạng cạn kiệt tài nguyên và giảm chất thải
thải ra môi trường. Điều này liên quan trước hết đến lựa chọn các ngành công
nghiệp chuyên môn hóa. Nếu như các ngành công nghiệp khai mỏ chỉ dừng ở
đẩy mạnh khai thác để xuất khẩu thô. Nếu như các ngành công nghiệp chế
biến dừng lại quá lâu chỉ ở chế biến thô hoặc gia công ở những công đoạn sản
19
xuất có giá trị gia tăng thấp thì hậu quả sẽ là khó mà duy trì được tốc độ tăng
trưởng giá trị gia tăng cao của công nghiệp trong dài hạn, trong khi hậu quả
của cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường lại diễn ra nhanh chóng. Sử dụng
tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên còn liên quan đến lựa chọn công nghệ sản
xuất của các ngành công nghiệp. Công nghệ sản xuất lạc hậu, trong ngành
khai thác sẽ không tận dụng được các tài nguyên hữu ích, trong ngành công
nghiệp chế biến sẽ tiêu hao một cách tốn kém lượng tài nguyên trên một đơn
vị sản phẩm. Phát triển công nghiệp theo kiểu đó sẽ đem lại hậu quả kép rất
nặng nề: chi phí sản xuất công nghiệp cao làm giảm tính cạnh tranh và hiệu
quả kinh tế, vừa phát thải lớn gây ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên. Một nền công nghiệp phát triển như vậy không thể coi là PTBV.
- Sản xuất công nghiệp phải đáp ứng giảm thiểu phát thải và ô nhiễm
môi trường từ các chất thải công nghiệp, kiểm soát được ô nhiễm và đảm bảo
nằm trong khả năng chịu tải của môi trường.
Trước hết là lựa chọn các ngành công nghiệp và công nghệ sử dụng tiết
kiệm tài nguyên trong việc sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp để giảm phát
thải ra môi trường, công nghệ “thân thiện” với môi trường. Bên cạnh đó, việc
đảm bảo nằm trong khả năng chịu tải của môi trường gắn với vấn đề phân bố
sản xuất công nghiệp. Phân bố sản xuất công nghiệp không tốt có thể dẫn đến
tình trạng là ngay cả khi tổng thể ô nhiễm môi trường có thể không lớn,
nhưng cục bộ lại có những vùng ô nhiễm rất nặng nề vì nó vượt quá xa sức
chịu tải của môi trường. Ngoài ra để giảm ô nhiễm môi trường còn phải tính
đến những ảnh hưởng liên ngành, liên vùng cũng như tính chất “quýt làm,
cam chịu” của ô nhiễm môi trường, dẫn đến tình hình những kẻ gây ô nhiễm
“phủi tay”, “bỏ chạy”, không bị xử lý khiến cho tình hình ô nhiễm càng trở
nên nghiêm trọng hơn.
• Tiêu chí
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra những chỉ tiêu PTBV công
nghiệp về môi trường như sau:
- Mức tiêu hao nguyên, nhiên liệu trên một đơn vị sản xuất công nghiệp
so với mức trung bình thế giới.
20
- Mức tổn thát trong các hoạt động khai thác tài nguyên.
- Trình độ công nghệ của các ngành sản xuất công nghiệp.
- Đáp ứng quy định tối đa cho phép của các chất phát thải công nghiệp
đối với môi trường. Cụ thể là các tiêu chuẩn về chất lượng không khí xung
quanh và nước thải công nghiệp.
- Số lượng các doanh nghiệp áp dụng ISO 14.000 (hệ thống QLCL môi
trường), ISO 14.020 (nhãn sinh thái) và áp dụng mô hình SXSH.
Trên đây là những nội dung cần phải đạt được trong PTBV công
nghiệp. Việc tách ra PTBV công nghiệp về kinh tế - xã hội - môi trường chỉ là
tương đối. Trên thực tế có nhiều yếu tố của PTBV về kinh tế - xã hội - môi
trường lồng ghép nhau. PTBV công nghiệp về xã hội và môi trường định ra
những yêu cầu phải tính đến trong xây dựng chiến lược, qui hoạch (ngành và
vùng), kế hoạch và các chính sách kinh tế trong phát triển công nghiệp.
Ngược lại, không có PTBV công nghiệp về kinh tế thì không thể có điều kiện
để giải quyết những vấn đề của xã hội và môi trường đặt ra. Cũng không thể
nào thực hiện chiến lược “tăng trưởng bằng 0” để giữ vững môi trường, khi
mà đất nước còn nghèo, đời sống nhân dân còn khó khăn. Vả lại khi đời sống
nhân dân khó khăn thì cũng khó mà bảo vệ được môi trường. Để thực hiện
PTBV công nghiệp việc hoạch định, đề ra chính sách và giải pháp để thực
hiện là vô cùng quan trọng.
1.2. VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CÔNG NGHIỆP
1.2.1. Vai trò của công nghiệp đối với phát triển bền vững
1.2.1.1. Vai trò của phát triển công nghiệp đối với PTBV về kinh tế
Sự phát triển của công nghiệp ảnh hưởng đến PTBV về kinh tế của đất
nước đuợc thể hiện qua các nội dung sau:
Một là, trong quá trình CNH đất nước, công nghiệp là ngành có đóng
góp vượt trội vào tăng trưởng kinh tế so với các ngành khác, đặc biệt là so
với nông nghiệp.
21
Đặc điểm của sản xuất công nghiệp là có đầu vào phong phú, đa dạng
không bị ràng buộc chặt vào chỉ một số nguồn lực tự nhiên không thể thay thế
được như đối với sản xuất nông nghiệp, nhờ vậy, quy mô sản xuất công nghiệp
có điều kiện tăng nhanh hơn gấp bội so với nông nghiệp. Mặt khác, các ngành
công nghiệp cũng thường có năng suất lao động cao hơn do quy trình sản xuất
công nghiệp có thể phân chia thành các công đoạn khác nhau để thực hiện
chuyên môn hoá sâu (sản xuất nông nghiệp không thể thực hiện được do tác
động trực tiếp đến cơ thể sống: cây, con…). Nhờ đó, tổng cung trong công
nghiệp có điều kiện tăng nhanh. Cùng với nó, khi nền kinh tế phát triển, thu nhập
bình quân đầu người tăng lên, thì tỷ trọng chi tiêu dành cho các sản phẩm công
nghiệp cũng tăng nhanh. Vì thế, tổng cầu các sản phẩm công nghiệp tăng nhanh.
Hai là, công nghiệp có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của đất nước theo hướng CNH, HĐH.
Công nghiệp tăng trưởng làm cho tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh
tế ngày càng gia tăng, trình độ phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá
sản xuất ngày càng trở nên sâu sắc, nhiều ngành nghề mới xuất hiện và tăng
trưởng nhanh, sự thay đổi về công nghệ cũng diễn ra thường xuyên hơn. Những
thay đổi đó đã làm cho CNH, HĐH của đất nước ngày càng đạt trình độ cao hơn.
Công nghiệp phát triển cũng có tác động tích cực đến sự phát triển của
nông nghiệp và dịch vụ. Một mặt, công nghiệp cung cấp các tư liệu sản xuất
với quy mô ngày càng lớn, hiện đại và phong phú nhằm đáp ứng các nhu cầu
ngày càng cao và đa dạng của nông nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, sự phát triển
của công nghiệp tạo thị trường cho sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ. Đồng
thời, đòi hỏi nông nghiệp và dịch vụ phải thay đổi theo yêu cầu của sự phát
triển công nghiệp cả về quy mô và trình độ của phát triển, nghĩa là đòi hỏi
nông nghiệp và dịch vụ cũng phát triển theo.
1.2.1.2. Vai trò của phát triển công nghiệp đối với phát triển bền
vững về xã hội
Quá trình phát triển của công nghiệp ảnh hưởng đến PTBV về xã hội
của đất nước thể hiện trên các mặt sau: