Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Ths, Chính trị học- quản lý đội ngũ cán bộ, công chức phường ở quận cầu giấy, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.93 KB, 121 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BTV
CBCC
HĐNH
QLNN
UBND

:
:
:
:
:

Ban thường vụ
Cán bộ công chức
Hội đồng nhân dân
Quản lý nhà nước
Ủy ban nhân dân


1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng và quan
tâm tới việc xây dựng đội ngũ CBCC nói chung và CBCC chính quyền cấp xã


nói riêng. Đây là nhân tố then chốt để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện thành công
chương trình cải cách nền hành chính nhà nước góp phần ổn định hệ thống
chính trị và chất lượng bộ máy nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy "Cấp
xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì
mọi công việc đều xong xuôi", [25; tr142]. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX xác định: "Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng
lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân,
không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào
tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở".
[19; tr47]. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã là nội
dung trọng tâm, then chốt góp phần xây dựng hệ thống chính trị, chính quyền
vững mạnh từ cơ sở.
Cầu Giấy là địa bàn có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và tốc độ
đô thị hóa cao. Trình độ dân cư cao với nhiều cơ quan trung ương và trường đại
học đóng trên địa bàn nên đòi hỏi chất lượng đội ngũ cán bộ công chức phường
cũng phải đáp ứng các đòi hỏi về năng lực, trình độ và cách ứng xử.
Nhận thức được tầm quan trọng của đội ngũ CBCC phường, trong
những năm qua, thực hiện Hướng dẫn số 05 của Thành uỷ Hà Nội về "Quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2015-2020 và các nhiệm kỳ tiếp
theo"; Chỉ thị số 07 của Thành uỷ về “Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ
đảng trong công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ”...


2
đảng bộ các phường đã làm tốt công tác quy hoạch cán bộ đảm bảo đúng
nguyên tắc, quy trình; quá trình thực hiện dân chủ, công khai, coi trọng thực
hiện rà soát, bổ sung quy hoạch nhiệm kỳ 2010-2015 theo hướng dẫn của

Thành ủy. Công tác quản lý cán bộ được thực hiện nề nếp ở tất cả các khâu từ
tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, sử dụng, thực hiện chính sách cán
bộ. Hằng năm công tác đánh giá cán bộ thuộc diện BTV Quận uỷ quản lý
được thực hiện nghiêm túc, dân chủ, khách quan, làm căn cứ để các cấp uỷ
tiến hành bổ sung quy hoạch cấp uỷ hàng năm. Công tác quy hoạch được thực
hiện bài bản, gắn với công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Nhờ đó, đội ngũ
CBCC chính quyền phường ở quận Cầu Giấy từng bước phát triển cả số
lượng và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thời kỳ mới. Đa
số CBCC phường có phẩm chất đạo đức tốt, trung thành với lý tưởng, tin
tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng; có lối sống giản dị, trong sáng, gần
gũi với nhân dân, tâm huyết với công việc. Đây là nhân tố quan trọng góp
phần đảm bảo tổ chức thực hiện thành công đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế - xã hội và thực
hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra.
Tuy nhiên, trước tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, một bộ phận
CBCC phường ở quận Cầu Giấy có biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức
như thái độ quan liêu, hách dịch, chưa thực hiện tốt công tác dân chủ cơ sở;
có dấu hiệu, tư tưởng cơ hội, ý thức kỷ luật kém gây mất đoàn kết nội bộ; tinh
thần phê bình và tự phê bình còn thấp, gây tổn hại đến uy tín và làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Mặt khác, tỉ lệ CBCC chưa đạt
chuẩn còn cao. Chưa có cơ chế động viên kịp thời đối với cán bộ tâm huyết,
có tinh thần làm việc và hiệu quả công tác tốt, cơ chế thu hút cán bộ trẻ có
trình độ chuyên môn tốt
Để thực hiện tốt được nhiệm vụ QLNN về kinh tế, chính trị xã hội,..
trên một địa bàn phức tạp như thế việc nâng cao chất lượng công chức của
Phường ở Quận Cầu Giấy là việc có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.


3
Vì tất cả các lý do đã nêu ở trên, em chọn đề tài: “Quản lý đội ngũ cán

bộ, công chức phường ở quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội hiện nay.” làm
luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quản lý cán bộ, công chức chức là vấn đề được sự quan tâm của nhiều tác
giả, là đề tài nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. Trong đó, có thể kể đến
các công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- PGS,TS Trần Xuân Sầm (2008): "Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán
bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
- PGS, TS Tô Huy Rứa, PGS, TS Nguyễn Cúc, PGS, TS Trần Khắc
Việt (2003), Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh
miền núi nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- GS, TS Lê Hữu Nghĩa, GS,TS Hoàng Chí Bảo, PGS, TS Bùi Đình Bôn
(2010), Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nội dung các cuốn sách nêu trên đã đưa ra những luận cứ rất cơ bản
và quan trọng về cơ cấu và tiêu chuẩn xây dựng đội ngũ cán bộ nhưng lại
thiên về cán bộ lãnh đạo cấp cao cũng như chỉ ra mối quan hệ giữa các loại
cán bộ Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội. Đó là những tài
liệu có giá trị tham khảo tốt cho luận văn khi nghiên cứu, đánh giá sâu về
đội ngũ CBCC phường
Hiện nay đã có nhiều bài viết nghiên cứu về công tác cán bộ, xây dựng
đội ngũ cán bộ cũng như công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, chính sách cán bộ, có thể kể ra một số các công trình sau:
- Nguyễn Văn An (2008); Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, làm tốt
quy hoạch cán bộ là nhiệm vụ trọng yếu của công tác xây dựng Đảng về tổ
chức trong năm 2008. Tạp chí Xây dựng Đảng, số 3.
- Bùi Đình Phong (2003); Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức
cách mạng và sự thống nhất giữa đức và tài, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1.



4
- Trần Văn Phòng (2003); Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh
đạo chính trị hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5.
- Nguyễn Thọ Ánh (2004); Đổi mới công tác đào tạo cán bộ Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Tạp chí Xây dựng Đảng số 10.
Nội dung chính của bài viết tập trung phân tích thực trạng và đề ra
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh.
- Phạm Quang Nghị (2004); “Mối quan hệ giữa quy hoạch, đánh giá
với luân chuyển cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng số 18. Nội dung bài viết
làm rõ mối quan hệ giữa quy hoạch, đánh giá với luân chuyển cán bộ, sự tác
động qua lại giữa các yếu tố trên trong quy trình thực hiện công tác cán bộ.
- Nguyễn Văn Động (2013); Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6 khóa XI của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán
bộ trong tình hình mới, Tạp chí Cộng sản điện tử số 19.
- Hồ Văn Màng (2013); Để làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, Tạp chí
Xây dựng Đảng điện tử ngày 28/9.
Nhìn chung, các bài viết nghiên cứu nêu trên đã bàn đến rất nhiều
vấn đề xung quanh công tác cán bộ và các biện pháp cần phối hợp thực
hiện để nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ ngày càng đi vào nền
nếp. Đây là những gợi ý rất quan trọng để tác giả luận văn kế thừa và đi sâu
tìm hiểu trong nghiên cứu vấn đề xây dựng đội ngũ CBCC phường hiện nay.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Thị Kim Dung, khoa Luật, bảo vệ
năm 2011, đề tài; “Nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp xã tại tỉnh Bắc
Giang”. Luận văn đã tiến hành đánh giá những ưu điểm, hạn chế, nguyên
nhân, những yếu tố ảnh hưởng đến cán bộ, công chức cấp xã tại tỉnh Bắc
Giang. Kiến nghị phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất
lượng công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính phù hợp với
điều kiện phát triển của tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.



5
- Tác giả Vũ Thu Hà với đề tài; “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
tại cơ quan UBND quận Long Biên - Thành phố Hà Nội giai đoạn 2012 2015 và định hướng đến năm 2020”, luận văn thạc sỹ năm 2015. Tác giả đã đi
sâu phân tích thực trạng chất lượng công chức hành chính cơ quan UBND
quận Long Biên, đưa ra giải pháp có tính hệ thống để nâng cao chất lượng
công chức hành chính trên cơ sở những quy định có tính pháp lý của Nhà
nước, học tập, tiếp thu những kinh nghiệm của thành phố, của quận huyện
trên cả nước.
- Tác giả Vũ Thị Thành với đề tài; “Quản lý công chức các phòng, ban
chuyên môn thuộc UBND quận Long Biên - Thành phố Hà Nội giai đoạn
2010 -2015”, luận văn thạc sỹ năm 2012, đã làm rõ một số cơ sở khoa học về
năng lực của công chức các phòng ban chuyên môn thuộc UBND cấp quận,
huyện; xây dựng khung năng lực, đi sâu phân tích đánh giá năng lực công
chức các phòng ban chuyên môn trong mối quan hệ với trình độ, kiến thức, kỹ
năng và thái độ làm việc của công chức, so sánh với yêu cầu công việc. Tác
giả đã đưa ra quan điểm và các nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng
lực công chức các phòng ban chuyên môn thuộc UBND quận Long Biên.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước (2001); Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước do GS, TS Nguyễn Phú Trọng, PGS, TS Trần Xuân
Sầm đồng chủ nhiệm. Nội dung chính của đề tài là đưa ra những cơ sở lý luận
về cán bộ, công tác cán bộ; phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ nói chung và
đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.
- Đề tài: KH-BD (2008); Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ người Khmer ở xã, phường, thị trấn khu vực Tây Nam bộ , do đồng
chí Nguyễn Thái Hoà, Phó vụ trưởng Vụ địa phương III, Ban Tổ chức Trung
ương làm chủ nhiệm. Đề tài nêu khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội và lược sử hình thành vùng đất Nam bộ và Tây Nam bộ có liên quan trực

tiếp đến người Khmer Tây Nam bộ; đặc điểm người dân Tây Nam bộ và đơn


6
vị hành chính cấp xã; đặc điểm dân tộc Khmer Tây Nam bộ; những vấn đề
chính trị - xã hội tác động đến đồng bào Khmer và chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta. Làm rõ thực trạng và đánh giá đội ngũ cán bộ dân tộc
Khmer trong hệ thống chính trị khu vực Tây Nam bộ, kết quả công tác quy
hoạch, tạo nguồn cán bộ, những thuận lợi và khó khăn, những kinh nghiệm
từ thực tiễn công tác cán bộ người dân tộc Khmer Tây Nam bộ. Trên cơ sở
đó, nêu mục tiêu, phương hướng, căn cứ, điều kiện và 11 giải pháp xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ người Khmer; những đề xuất,
kiến nghị với cơ quan Trung ương, và các cấp địa phương trong khu vực Tây
Nam bộ. Đặc biệt, đề tài đã xây dựng được yếu tố mang tính mô hình về tiêu
chuẩn 5 chức danh chủ chốt ở cơ sở. Góc độ nghiên cứu của đề tài rộng hơn
so với đề tài mà tác giả đang nghiên cứu, đối tượng chính của đề tài này chủ
yếu là cán bộ cấp xã người Khmer (cả cán bộ chuyên trách, công chức và
cán bộ không chuyên trách cấp xã).
Các đề tài, tạp chí, hội nghị đều nghiên cứu đánh giá đào tạo, bồi
dưỡng năng lực cán bộ, công chức. Tuy nhiên, hiện có rất ít nghiên cứu về
vấn đề quản lý đội ngũ CBCC phường, đặc biệt hiện chưa có đề tài nào
nghiên cứu một cách hệ thống cả về lý luận và thực tiễn về quản lý đội ngũ
CBCC phường ở Quận Cầu Giấy, chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài là quan
trọng và có ý nghĩa thiết thực.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn, thực trạng quản lý đội ngũ CBCC
phường ở quận Cầu Giấy, luận văn đề ra giải pháp nhằm tăng cường quản
lý đội ngũ này đáp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn từ nay đến
năm 2020.

3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn này là:
Luận giải căn cứ thực tiễn và lý luận về quản lý đội ngũ CBCC phường
trong giai đoạn hiện nay.


7
Đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân và rút ra những kinh
nghiệm về quản lý đội ngũ CBCC phường ở quận Cầu Giấy giai đoạn từ năm
2010 đến nay.
Dự báo tình hình, xác định mục tiêu, phương hướng và đề xuất những
giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý đội ngũ CBCC phường ở quận
Cầu Giấy đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đội ngũ cán bộ, công chức phường và quản lý đội
ngũ cán bộ công chức phường ở quận Cầu Giấy hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu về đội ngũ cán bộ công
chức phường và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức phường ở quận Cầu
Giấy hiện nay.
Phạm vi thời gian: Thời gian nghiên cứu khảo sát thực tế quản lý đội
ngũ cán bộ, công chức phường ở quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, quan điểm, các nghị quyết của Đảng ta về công tác
cán bộ. Đồng thời, tham khảo những tài liệu của các công trình khoa học, các
văn kiện, số liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên thực tiễn quản lý đội ngũ CB,CC

phường ở quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; kết hợp
chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp,
đồng thời coi trọng khảo sát, tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận


8
Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý cán bộ, công
chức, luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận về vấn đề này.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các
nhà lãnh đạo, quản lý CB,CC và các nhà hoạch định chính sách liên quan đến
CB,CC.
7. Những đóng góp mới của luận văn
Hệ thống hóa về mặt lý luận quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về quản lý đội ngũ cán bộ, công chức.
Đánh giá đúng thực trạng và rút ra kinh nghiệm bước đầu về quản lý
đội ngũ CBCC phường ở quận Cầu Giấy hiện nay.
Xác định mục tiêu, phương hướng và đề xuất những giải pháp có tính
khả thi nhằm nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ CBCC phường ở quận Cầu
Giấy đến năm 2020.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8tiết.


9

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC PHƯỜNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm phường
1.1.1.1. Khái niệm chung về chính quyền phường
Trong hệ thống bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam theo Hiến định
và Luật định hiện có bốn cấp là:
Cấp toàn quốc, vẫn gọi là cấp Trung ương, đại diện tập trung là Chính
Phủ. Cấp Tỉnh và Thành phố trực thuộc Trung ương, đại diện tập trung là
UBND Tỉnh và Thành phố trực thuộc Trung ương. Cấp Huyện- Quận-Thị xãThành phố trực thuộc Tỉnh, đại diện tập trung là UBND Quận-Huyện và
Thành phố trực Tỉnh.Cấp Xã-Phường-Thị trấn, đại diện tập trung là UBND
Xã- Phường và Thị trấn.
Trong hệ thống bốn cấp nêu trên, phường thuộc loại “Cấp cơ sở”, người
đại diện cho nền hành chính quốc gia thống nhất thực hiện chức năng Hành
chính nhà nước trên địa bàn Xã- Phường- Thị trấn, được gọi là đơn vị hành
chính cơ sở, đồng thời là cơ quan chấp hành của HĐND, người đại diện cho
quyền làm chủ của cộng đồng dân cư của đơn vị hành chính cơ sở đó.
Trong hệ thống hành chính nước ta, chính quyền phường là nơi trực
tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, an ninh-quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở, đảm bảo các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống,
nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân. Sự trong sạch vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả của chính quyền phường đóng vai trò rất quan
trọng trong toàn bộ các hoạt động quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công
phục vụ nhân dân.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng nhà
nước và nhân dân ta luôn dành sự quan tâm đối với chính quyền phường.



10
Cùng với việc hoàn thiện thể chế, chính sách đãi ngộ và đầu tư cơ sở vật chất,
Đảng và Nhà nước luôn chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm
chất đạo đức, trình độ năng lực của công chức phường.
Chính quyền phường là nơi gần dân nhất, là cầu nối trực tiếp giữa chính
quyền cấp trên với nhân dân, hàng ngày tiếp xúc nắm bắt và phản ánh tâm tư
nguyện vọng của nhân dân. Phường có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh
quốc phòng, an sinh xã hội đối với cuộc sống của nhân dân.
Chính quyền phường là bộ máy điều khiển, quản lý công việc của nhà
nước, hoạt động mang tính chất quyền lực của Nhà nước bằng phương thức
tác động của Nhà nước thực hiện các chủ trương chính sách, các mục tiêu
kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng ở cơ sở, thực hiện việc quản lý hành
chính nhà nước trên địa bàn.
Từ những phân tích trên đây, có thể nêu khái quát chính khái niệm
chính quyền phường như sau: Chính quyền phường bao gồm HĐND và
UBND phường, là cấp chính quyền thực hiện quyền lực nhà nước ở địa
phương, có chức năng thay mặt nhân dân địa phương, căn cứ vào nguyện
vọng của nhân dân địa phương, quyết định và tổ chức thực hiện những vấn đề
có liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, và
đời sống của nhân dân địa phương, theo Hiến pháp, pháp luật và các mệnh
lệnh, quyết định của cấp trên.
1.1.1.2. Đặc điểm của chính quyền phường
Một là, chính quyền phường có HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương; UBND phường do HĐND bầu ra là cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương. Chính quyền phường trực tiếp thực hiện nhiệm vụ về
quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế-xã
hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở, là cầu nối trực tiếp giữa nhà nước với



11
nhân dân, xử lý trực tiếp, kịp thời những yêu cầu hàng ngày của nhân dân,
đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn phường.
Hai là, chính quyền khác với chính quyền cấp thành phố, cấp quận. Tổ
chức bộ máy chính quyền phường bao gồm HĐND là cơ quan đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương và UBND là cơ quan chấp hành
của HĐND và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, không có các cơ
quan tư pháp: Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân.
Ba là, chính quyền phường là nơi trực tiếp tiếp xúc với nhân dân; các
cán bộ, công chức phường trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân, đảm bảo thực hiện theo đúng đường
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các văn bản pháp luật của cấp
trên. UBND phường có trách nhiệm đảm bảo an sinh xã hội, mọi mặt đời
sống của nhân dân trên địa bàn phường.
Bốn là, chính quyền phường là một cấp chính quyền hoàn chỉnh, bao quát
toàn diện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ở địa bàn cơ sở.
Năm là, các đơn vị hành chính phường, được hình thành trên nền tảng
những địa điểm quần cư, liên kết dân cư trong một khối liên hoàn thống nhất.
Mọi vấn đề của địa phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần được giải
quyết trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích giữa Nhà nước với nhân dân và
giữa nhân dân với nhau. Chính quyền ở đây không chỉ là cơ quan quản lý mà
còn là cơ quan thực hiện các lợi ích chung của nhân dân.
1.1.1.3. Vị trí vai trò của phường
Hội nghị Trung ương năm khoá IX, họp tại Hà Nội, tháng 3 năm 2002,
đã ra nhiều nghị quyết quan trọng, trong đó có nghị quyết về “đổi mới và nâng
cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”. Hội nghị xác
định: “các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú,
sinh sống”, nơi diễn ra tất cả các mặt hoạt động của đời sống xã hội.

Nói tới cơ sở là nói tới xã, phường, thị trấn, trong đó xã là chủ yếu,
chiếm 85% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp cơ sở, thuộc địa bàn nông


12
thôn, chiếm số lượng hơn hẳn so với phường thuộc địa bàn đô thị. Trong xu
hướng đô thị hoá các phường được thành lập trên cơ sở từ xã chuyển thành
phường, đó là những phường còn mang đậm dáng dấp của xã. Về mặt tổ chức
hoạt động và thiết chế chính trị - xã hội, xã chuyển thành phường đòi hỏi phải
chuyển từ quản lý và tự quản công cộng làng xã sang quản lý hành chính đô
thị. Cái cũ định hình bền vững từ rất lâu đời chưa mất hẳn, cái mới đang hình
thành, chưa thật sự định hình, chưa có được một diện mạo đặc thù của chính
nó. Từ cội nguồn sâu xa đến hiện trạng đang tồn tại, ta đều thấy phường được
sinh ra từ xã và biến đổi từ xã mà ra.
Từ khi có chính thể dân chủ cho tới nay chúng ta mới nói tới xã như
một tập hợp mở rộng của các làng và coi xã là cấp cơ sở ở nông thôn trong hệ
thống bốn cấp của quản lý hành chính nhà nước.
Phường là một đơn vị cấp hành chính cuối cùng trong bốn cấp của hệ
thống quản lý hành chính, là cấp thấp nhất theo sự phân cấp quản lý nhưng cái
thấp nhất không đồng nghĩa với cái ít quan trọng nhất.
Do vậy, phường là chủ yếu và điển hình, bao trùm và phổ biến trong sự
hình dung về cấp cơ sở, về đời sống kinh tế - xã hội và văn hoá cũng như về
hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay.
Phường được xem là cơ sở của xã hội, là nơi cư trú, sinh sống của
người dân, nơi thực thi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, là cầu nối trực tiếp giữa dân với Đảng. Mối quan hệ công tác
của hệ thống chính trị cấp cơ sở thể hiện trong cơ chế tổ chức, nội dung và
phương thức hoạt động: tổ chức đảng có vai trò hạt nhân lãnh đạo của hệ
thống chính trị cơ sở; chính quyền xã, phường, thị trấn có vai trò quản lý nhà
nước; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên bao gồm Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội liên hiệp Phụ nữ và Hội Cựu
chiến binh, v.v.. có vai trò đoàn kết, tập hợp quần chúng tham gia vào các hoạt
động xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Tổ chức đảng ở phường hay tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn
là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là tế bào đầu tiên, trực tiếp


13
liên kết các đảng viên lại với nhau thành tổ chức. Với mạng lưới tổ chức của
mình, các cơ sở Đảng ở cấp xã là điểm tựa của Đảng để tiến hành công tác
tuyên truyền, động viên và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng trong quần
chúng, là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng. Thông qua phong trào cách
mạng của quần chúng ở địa phương, cán bộ chủ chốt ở cơ sở Đảng nắm được
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, tổng kết sáng kiến của quần chúng, đóng
góp cho Đảng và Nhà nước để bổ sung, phát triển đường lối, chính sách.
Chính quyền phường bao gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
Trong đó, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở cơ sở và là cơ
quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở cơ sở. Uỷ ban nhân dân
là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà
nước ở cơ sở. Chính quyền phường không chỉ là nơi thực thi quyền lực của
nhân dân, đảm bảo dân chủ mà còn là chủ thể tổ chức các hoạt động của cộng
đồng trên địa bàn như các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, v.v.,
một mặt chăm lo tổ chức các hoạt động cộng đồng; mặt khác, là công cụ của
Nhà nước để ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và quyền làm chủ
của nhân dân. Chính quyền cấp xã được củng cố và hoàn thiện sẽ được đông
đảo quần chúng nhân dân tín nhiệm và tin tưởng; những chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện tốt hơn,
có hiệu quả hơn.
Các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở thuộc hệ thống chính trị
ở cơ sở, chủ yếu có năm tổ chức là Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ

nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh. Các đoàn thể chính trị - xã hội là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, thống nhất, phối hợp hoạt động của
các tầng lớp nhân dân nhằm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; giám sát việc thực thi dân chủ; bảo vệ, chăm lo lợi ích
chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tham gia củng cố hệ thống chính trị,
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc
phòng ở cơ sở. Các hoạt động của các tổ chức đoàn thể nhân dân là nhằm thực


14
hiện quyền làm chủ và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các hội viên và nhân dân
lao động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
Từ cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị phường và vị trí của
nó trong xã hội, phường có vai trò rất quan trọng. Là cấp thấp nhất trong hệ
thống chính trị bốn cấp, nơi có nhiều dân cư sinh sống nhất và gần dân nhất,
là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, vùng nhạy cảm nhất của đời sống xã hội, có
tầm quan trọng đặc biệt đối với sự sống còn, thành bại của chế độ. Phường là
nơi hiện thực hoá và kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nơi đảm bảo phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng
với nhân dân. Cấp xã chính là địa bàn thuận lợi để xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ
quốc, tạo điều kiện thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Phường còn là đơn vị tổ chức cơ bản của quận, phường
mạnh thì quận mạnh và ngược lại các xã yếu, không ổn định là những “điểm
nóng” thì quận không thể phát triển, vững mạnh, thậm chí còn gây những hậu
quả khó lường.
Bắt nguồn từ tầm quan trọng của cơ sở, cho nên xây dựng và củng cố
hệ thống chính trị cấp cơ sở là một trong những nhiệm vụ quan trọng để giữ
vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đập tan âm mưu của các thế

lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn
coi cơ sở là nền tảng của Đảng, quan tâm nâng cao sức chiến đấu, xây dựng cơ
sở thật sự là những pháo đài nhằm củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng
1.1.2. Cán bộ, công chức phường
1.1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức phường
Công chức là một khái niệm chung được sử dụng ở nhiều quốc gia trên
thế giới để chỉ chung công dân được tuyển vào làm việc thường xuyên trong
cơ quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương. Rất khó có khái niệm chung
về công chức cho tất cả các quốc gia; thậm chí, ngay cả một quốc gia, ở cùng
thời kỳ khác nhau, thuật ngữ này cũng mang những nội dung khác nhau.


15
Ở Việt Nam, công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc
công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật. [ 31,tr.23]
Trong Luật cán bộ, công chức được Quốc hội Việt Nam khóa XII, kỳ
họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008 có hiệu lực từ ngày
01/01/2010 đưa định nghĩa về cán bộ, công chức như sau:
Cán bộ, công chức Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt

Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi là cấp tỉnh), ở huyện, quận,thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ của xã hội, phường thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là
công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường
trực Hội động nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, phó Bí thư Đảng ủy, người
đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội, công chức cấp xã là công dân Việt Nam
được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban
nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ phường có các chức vụ sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy.
b) Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân.


16
c) Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
e) Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
f) Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam.
h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Chính quyền địa phương ở cấp cơ sở xã phường, thị trấn (gọi chung là
phường) là cấp chính quyền gần dân nhất, là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân. Cùng với việc xây dựng củng cố chính quyền cấp xã, việc
chăm lo xây dựng chất lượng công chức phường cần thường xuyên bổ sung
hoàn thiện.
Theo Nghị định số 06/2010/NĐ-CP của chính phủ ban hành ngày
25/1/2010, quy định công chức xã, phường, thị trấn (cấp xã) là công dân Việt
Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban

nhân dân cấp xã, trong biên chế và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Công chức phường có các chức danh sau:
1. Trưởng công an;
2. Chỉ huy trưởng quân sự;
3. Văn phòng - thống kê;
4. Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường
5. Tài chính - kế toán;
6. Tư pháp - hộ tịch;
7. Văn hóa - xã hội.
Như vậy, công chức phường là: Công dân Việt Nam trong biên chế,
được hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, làm
việc tại Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân phường do được bầu để giữ
chức vụ hoặc được tuyển dụng giao giữ chức vụ chuyên môn nghiệp vụ thuộc
ủy ban nhân dân phường.
1.1.2.2. Vai trò của cán bộ, công chức phường


17
Công chức phường là một bộ phận không thể thiếu trong cán bộ, công
chức nước ta. Mọi hoạt động của chính quyền cơ sở đều do công chức
phường thực hiện. Vai trò của công chức phường thể hiện:
Một là, do địa bàn hoạt động, tính chất công việc và nhiệm vụ được
giao nên người công chức phường phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân
để triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước cũng như trực tiếp lắng nghe, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân địa phương. Như vậy, công chức UBND phường là mắt xích, là chất
keo gắn kết nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Hai là, để thực hiện tốt các công việc của mình người công chức phường
phải gương mẫu thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; có khả năng lĩnh
hội và thẩm thấu chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước để tổ

chức tuyên truyền, giải thích để nhân dân hiểu và thuyết phục nhân dân làm
theo hay thi hành một cách nghiêm túc. Về khía cạnh này, có thể nói người
công chức phường không chỉ là người quản lý địa bàn mà còn phải đóng vai trò
như một tuyên truyền viên tích cực. Do đó chất lượng hoạt động của công chức
phường ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước khi đi vào cuộc sống.
Ba là, do tính chất công việc và vị trí công tác nên người công chức
phường phải đảm nhận quản lý mọi mặt hoạt động, nhiều lĩnh vực như: quản
lý hành chính, lĩnh vực tài chính, đất đai, an ninh trật tự, tư pháp, văn hoá - xã
hội… Vì thế, công chức phường không những quản lý tài sản của quốc gia mà
còn đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, là “quan toà” trong
việc giải quyết các khiếu kiện của nhân dân và giải quyết các tranh chấp trong
thẩm quyền của mình.
Trên thực tế, trong nhận thức và cả việc làm chúng ta vẫn còn có những
ý niệm giản đơn về vị trí, vai trò của công chức phường, chưa thấy hết vai trò,
tính phức tạp, tính quyết định của họ đối với hoạt động quản lý hành chính ở
cơ sở. Người công chức hàng ngày cọ sát với thực tiễn rất phức tạp thuộc


18
nhiều lĩnh vực nên họ cần phải có bản lĩnh, có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết
để làm việc, song họ lại ít được đào tạo, bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ và
thông tin về chính sách pháp luật. Việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
đối với họ cũng chưa tương xứng. Thực tế này là một trong những nguyên
nhân làm hạn chế năng lực trình độ quản lý điều hành của công chức phường
1.1.2.3. Tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức phường.
Tiêu chuẩn công chức là vấn đề rất quan trọng trong công tác cán bộ.
Đó là cơ sở để tiến hành tổ chức, xem xét, đánh giá, lựa chọn, bố trí sắp xếp
và sử dụng cán bộ; đó cũng là cơ sở để bản thân mỗi người công chức phấn
đấu, tự rèn luyện, hoàn thiện mình.

* Tiêu chuẩn chung:
Có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ở địa phương
Cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, công tâm, thạo việc, tận tụy với
dân, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức
tổ chức kỷ luật trong công tác. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với
nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ học vấn, chuyên
môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ được giao.
Công chức phường phải có trình độ chuyên môn phù hợp với yêu cầu
vị trí công tác, có trình độ tin học văn phòng, trình độ A ngoại ngữ trở lên một
trong năm thứ tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung, Đức.
* Tiêu chuẩn cụ thể:
Tiêu chuẩn cụ thể của công chức phường là căn cứ để các địa phương
thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch, bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi


19
dưỡng, xếp lương, nâng bậc lương và các chế độ, chính sách khác. Tiêu chuẩn
cụ thể của công chức phường được xác định theo từng chức vụ, chức danh:
- Đối với công chức Tài chính - Kế toán: có trình độ đào tạo chuyên
môn từ trung cấp trở lên một trong các ngành Tài chính, kế toán, sử dụng
được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch: Chuyên môn nghiệp vụ: có trình
độ đại học Luật trở lên và phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp phường sau
khi được tuyển dụng, sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Địa chính - Xây dựng: Chuyên môn nghiệp vụ:

có trình độ đại học Địa chính hoặc trung cấp Xây dựng trở lên. Sau khi
được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng về quản lý đất đai, đo đạc bản đồ,
quản lý hành chính Nhà nước, sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác
chuyên môn
- Đối với công chức Văn phòng - Thống kê: Chuyên môn, nghiệp vụ:
có trình độ đại học trở lên các ngành Văn thư, lưu trữ, Luật, Hành chính, quản
trị văn phòng. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lý hành
chính Nhà nước (nếu chưa qua trung cấp hành chính), sử dụng được kỹ thuật
tin học phục vụ công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Văn hoá - Xã hội: Chuyên môn nghiệp vụ: đại học
về văn hoá nghệ thuật (chuyên ngành) hoặc đại học quản lý Văn hoá - Thông
tin hoặc đại học nghiệp vụ Lao động - Thương binh và xã hội trở lên. Sử dụng
thành thạo các trang thiết bị phù hợp với ngành chuyên môn, phải sử dụng
được kỹ thuật tin học trong công tác.
- Đối với công chức Chỉ huy trưởng Quân sự xã, phường: Chuyên
môn, nghiệp vụ: trình độ trung cấp về quân sự của sĩ quan dự bị cấp phân
đội trở lên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lý Nhà nước
về quốc phòng phường. Sử dụng thành thạo trang, thiết bị phục vụ công tác
chuyên môn.


20
1.2. Quản lý đội ngũ cán bộ, công chức phường
1.2.1. Khái niệm quản lý đội ngũ cán bộ, công chức phường
* Khái niệm quản lý
Quản lý là một khái niệm có nội hàm xác định xong lâu nay thường có
các cách định nghĩa, cách hiểu khác nhau và được thể hiện bằng thuật ngữ khác
nhau. Thực chất của quản lý là gì? (hoặc quản lý trước hết, chủ yếu là gì?) cũng
cí những quan niệm không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên với sự phát triển
của khoa học quản lý đã cơ bản được làm sang tỏ một cách hiểu thống nhất.

Theo Nhà khoa học Mỹ F.Taylo, làm quản lý là bạn phải biết rõ muốn
người khác làm việc gì và hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ
làm. Nhà tư tưởng H.Fayol cho rằng, quản lý là một hoạt động mà mọi tổ
chức (gia đình, doanh nghiệp, chính phủ) đều có; gồm 5 yếu tố tạo thành: kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều hành và kiểm soát. Theo H.Koont, quản lý là xây
dựng và duy trì một môi trường tốt giúp con người hoàn thành một cách hiệu
quả mục tiêu đã định. P.Druck khẳng định, suy cho cùng, quản lý là thực tiễn.
Bản chất của nó là không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó
không nằm ở sự logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích.
P.Dalark định nghĩa: Quản lý phải được giới hạn bởi môi trường bên ngoài nó.
Theo đó, quản lý bao gồm 3 chức năng chính là: Quản lý doanh nghiệp, quản
lý giám đốc, quản lý công việc và nhân công.
Theo các nhà nghiên cứu Việt Nam “quản lý là sự tác động có tổ chức,
có định hướng của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã
đề ra”, là “một hoạt động thực tiễn đặc biệt của con người, trong đó các chủ
thể tác động lên các đối tượng bằng các công cụ và phương pháp khác nhau
thông qua quy trình quản lý nhất định, nhằm thực hiện một cách hiệu quả nhất
các mục tiêu của tổ chức trong điều kiện biến động của môi trường” [20, 22].
Như vậy, từ các cách tiếp cận trên, có thể thấy quản lý bao giờ cũng là
một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định, thể hiện mối quan hệ giữa hai
bộ phận (hay phân hệ) là chủ thể quản lý (là các cá nhận hoặc chủ thể quản
lý). Đó là quan hệ ra lệnh - phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc.


21
Trong nội dung quản lý, có thể xem xét phương pháp, quy trình, nguyên tắc
quản lý…tùy theo nhu cầu nhận thức và hoạt động thực tiễn.
* Khái niệm quản lý cán bộ, công chức phường
Công tác quản lý cán bộ, công chức phường là mối liên hệ giữa chủ thể
quản lý với khách thể quản lý, thể hiện ở việc chủ thể quản lý thường xuyên,

chủ động có các hoạt động tác động có định hướng vào khách thể quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Tác động của chủ thể quản lý không diễn ra
một cách tự do mà có mục đích rõ ràng, đó là xây dựng cho Đảng và nhà
nước một đội ngũ CBCC có đủ số lượng, chất lượng nhằm thực hiện tốt các
nhiệm vụ về chính trị. Để quản lý đội ngũ CBCC nói chung và đội ngũ CBCC
phường nói riêng có chất lượng thì phải qua nhiều khâu, nhiều công đoạn
khác nhau, từ việc xác định chủ trương, mục tiêu, đến việc xây dựng tiêu
chuẩn, đánh giá, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng,
thực hiện chính sách cán bộ. Qúa trình đó được coi là quản lý đội ngũ CBCC.
Quản lý CBCC là công việc cơ bản trong công tác cán bộ do chủ thể
lãnh đạo, trước hết là do tập thể cấp ủy và cá nhân người đứng đầu tổ chức
chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện, nhằm tuyển chọn, đào tạo, bố trí sử dụng,
đánh giá và phát triển đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu của tổ chức và xã hội
trong quá trình thực hiện các mục tiêu đề ra.
Từ những nội dung nhận thức trên, quan niệm về quản lý đội ngũ CBCC
phường được hiểu là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức các hoạt động thực
tiễn về công tác của cán bộ của Ban Thường vụ Quận ủy, Ủy ban nhân dân
quận, của Đảng ủy - UBND phường đối với những CBCC đang công tác tại
các phường nhằm làm cho đội ngũ CBCC phường và số lượng hợp lý, có phẩm
chất, năng lực và sức khỏe đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
1.2.2. Nội dung quản lý đội ngũ cán bộ, công chức phường
Một là, xây dựng, ban hành chiến lược, hệ thống chính sách, pháp luật
về cán bộ, công chức cấp xã
Để quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, chủ thể quản lý phải sưu
dụng tổng hợp các biện pháp, công cụ khác nhau. Trước hết phải xây dựng và


22
ban hành chiến lược, chính sách đối với đội ngũ CB, CC phường nhằm đưa ra
định hướng chủ đạo, xác định các mục tiêu, giải pháp để quản lý có hiệu quả
đối với đội ngũ CBCC này. Xây dựng pháp luật về CB,CC là hoạt động của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân được nhà nước trao quyền theo
trình tự, thủ tục quy định nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng
về CBCC phường, đồng thời thể hiện ý chí chung của xã hội thành các quy
định của pháp luật. Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật là khâu quan
trọng trong quản lý cán bộ, công chức là phương tiện không thể thiếu của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hai là, thực hiện việc tuyển dụng cán bộ, công chức phường.
Tuyển dụng CBCC là hoạt động của tổ chức nhằm tìm kiếm những
người có đủ phẩm chất, trình độ năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định để
bố trí, phân công, sử dụng hoặc dự nguồn sử dụng cho một tổ chức nào đó
nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tổ chức đó, cũng như để củng cố, xây
dựng tổ chức vững mạnh, toàn diện. Tuyển dụng cán bộ, công chức phát triển
ổn định và làm cho công tác cán bộ có tính chủ động và tính kế hoạch cao.
Tuyển dụng cán bộ phường hiện nay được tiến hành thông qua hình
thức bầu cử cán bộ:
+ Việc bầu cử cán bộ phường của Hội đồng nhân dân-Uỷ ban nhân dân
được thực hiện theo Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
+ Việc bầu cử cán bộ phường trong tổ chức, tổ chức chính trị - xã hội
thực hiện theo Điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội.
Việc tuyển dụng công chức phường: Theo Nghị định số 112/2011/NĐCP của Chính phủ: Về công chức xã, phường, thị trấn thì việc tuyển dụng
công chức phường phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn chức danh
và số lượng công chức phường theo từng chức danh được Ủỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao. Uỷ ban nhân dân phường có trách
nhiệm xây dựng kế hoạch tuyển dụng công chức phường hàng năm theo từng


×