Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Sự phê phán của lênin đối với các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi macxit ở nga qua hai tác phẩm “làm gì” và “một bước tiến, hai bước lùi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.13 KB, 63 trang )

MỤC LỤC
MƠ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................8
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ SỰ PHÊ PHÁN CÁC TRÀO
LƯU TƯ TƯƠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHI MÁCXÍT..........................8
1.1 Khái niệm về sự phê phán các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa phi
Mácxít................................................................................................................8
1.2 Sự cần thiết phải phê phán các trào lưu tư tưởng phi Mácxít...................12
CHƯƠNG II. SỰ PHÊ PHÁN CỦA LÊNIN ĐỐI VỚI CÁC TRÀO LƯU
TƯ TƯƠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHI MÁCXÍT Ơ NGA....................15
2.1. Tiểu sử của V.I.Lênin................................................................................15
2.2. Sự phê phán của Lênin đối vơi các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi macxit ở
Nga..................................................................................................................19
CHƯƠNG III. LIÊN HỆ ĐỐI VỚI CÁCH MANG VIỆT NAM..............37
3.1 Tư tưởng sai trái thù địch phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản
Việt Nam và cách mạng Việt nam...................................................................37
3.2 Phủ định mục tiêu lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng
ta “độc lập dân tộc gắn liền vơi chủ nghĩa xã hội” ở việt nam........................43
3.3 Các tư tưởng sai trái thù địch phủ định sự lãnh đạo của Đảng cộng sản việt
nam và bôi nhọ những lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.......................50
3.4. Các thế lực thù địch phủ định đường lối, chính sách và pháp luật của
đảng và nhà nươc ta.........................................................................................54
KẾT LUẬN....................................................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................61


DANH MỤC VIẾT TẮT
1. CNCS

:


Chủ nghĩa cộng sản

2. CNM - L

:

Chủ nghĩa Mác - Lênin

3. CNXHKH

:

Chủ nghĩa xã hội khoa học

4. CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

5. CNTB

:

Chủ nghĩa tư bản

6. ĐCS

:


Đảng Cộng Sản

7. ĐCSVN

:

Đảng Cộng Sản Việt Nam

8. NDLĐ

:

Nhân dân lao động

9. GCCN

:

Giai cấp công nhân

10. SMLS

:

Sứ mệnh lịch sử

11. SMLSGCCN

:


Sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân

12.TTHCM

:

Tư tưởng Hồ Chí Minh


MƠ ĐẦU
1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài:
Cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX, tình hình thế giơi và
nươc Nga có nhiều biến động rõ ràng.
Về tình hình thế giơi, cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa cùng vơi
các cuộc chiến tranh đế quốc đã đặt ra trươc các lực lượng chính trị các xu
hương và trào lưu cách mạng những vấn đề chính trị mơi cần giải quyết. Các
trào lưu, xu hương và lực lượng chính trị cũng đã buộc phải bộc lộ một cách
công khai, phải bày tỏ cương lĩnh sách lược của mình trươc những vấn đề
chính trị mơi xuất hiện từ những biến động chính trị sâu sắc và mau lẹ ấy. Lúc
này, cả ba lực lượng chính trị (tự do - tư sản; dân chủ - tiểu tư sản và vô sản cách mạng) đều đã nêu ra, theo lập trường của mình, những vấn đề căn bản
của cách mạng và đều khẩn trương đề ra và thực hiện cuộc đấu tranh tư tưởng
lý luận, lôi kéo và tập hợp quần chúng…vào cuộc đấu tranh chính trị của
mình.
Về tình hình nươc Nga, những năm đầu thập niên thứ nhất thế kỷ XX
vẫn là một nươc nông nghiệp lạc hậu. Kinh tế tiểu nông vẫn đóng vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế nươc Nga. Sự đan xen và tồn tại phúc tạp đa dạng ấy
của các quan hệ kinh tế, sở hữu được phản ánh và thể hiện thông qua sự đan
xen, tồn tại phức tạp, đa dạng của các lực lượng chính trị, tình hình chính trị,
các quan hệ chính trị. Mâu thuẫn giữa tư sản vơi vô sản, giữa quý tộc phong
kiến vơi giai cấp tư sản Nga. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu đang chi phối tình

hình chính trị nươc Nga lúc này là mâu thuẫn giữa một bên là chế độ phong
kiên Nga hoàng vơi một bên là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và
quảng đại quần chúng nhân dân lao động Nga và các dân tộc thuộc địa của
Nga. Mâu thuẫn này đã tác động mạnh mẽ, chi phối phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa trong và ngoài
xã hội Nga.
1


Giai cấp công nhân Nga đã giác ngộ về chính trị, có ý thức tổ chức
ngày càng cao, có những cuộc bãi công vơi quy mô chưa từng thấy chống lại
bọn tư bản. Các tổ chức đầu tiên cả giai câp công nhân Nga đã xuất hiện: Hộ
Liên hiệp công nhân miền Nam nươc Nga ra đời ở Ôđétxa năm 1875, Hội
Liên Hiệp công nhân miền Bắc được thành lập ở Pêtécbua năm 1878..làm cho
phong trào đấu tranh của họ có những bươc chuyển biến tích cực.
Sự tác động của phong trào công nhân Tây Âu, phong trào công nhân
Nga đã có những bươc chuyển biến mạnh mẽ, các tổ chức macxit đã ra đời.
Chính sự ra đời của nhiều tổ chức macxít cùng các trào lưu tư tưởng xã hội
chủ nghĩa khác nhau, thậm chí đối lập nhau đã làm xuất hiện nay sinh ra một
hiện tượng mơi là trào lưu tư tưởng phi macxít nhằm bác bỏ, xét lại chủ nghĩa
Mác, làm ai lệch đi tư tưởng chủ nghĩa Mác trongphong trào công nhân.
Trươc hiện tượng đó, đòi hỏi cấp thét đặt ra là phải có lú luận đúng đắn
soi đường làm nền tảng tư tưởng thống nhất các tổ chức, thống nhất hành
động để giai cấp công nhân thực sự ý thức được vai trò và sứ mệnh lịch sử
của mình. Do đó, tôi đã chọn đề tài: “Sự phê phán của Lênin đối với các
trào lưu xã hội chủ nghĩa phi macxit ở Nga qua hai tác phẩm “Làm gì?”
và “Một bước tiến, hai bước lùi”” làm đề tài cho tiểu luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan:
Nghiên cứu vấn đề “Sự phê phán của Lênin đối với các trào lưu xã
hội chủ nghĩa phi macxit ở Nga qua hai tác phẩm “Làm gì?” và “Một bước

tiến, hai bước lùi” có nhiều công trình nghiên cứu dươi nhiều góc độ khác
nhau, trong đó, có nhiều tác giả đề cập đến các khía cạnh mà đề tài này quan
tâm. Tiêu biểu là một số công trình dươi đây:
+ “Vấn đề chủ nghĩa xã hội khoa học trong tác phẩm C.Mác Ph.Ăngghen V.I.Lênin” của TS. Trần Chí Mỹ, PGS.TS Doãn Chính, PGS.TS
Đinh Ngọc Thạch (đồng chủ biên) Nxb Chính trị quốc gia, H.2010.
+ “Tư tưởng chính trị của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí
Minh” của PGS.TS Lê Minh Quân Nxb. Chính trị quốc gia, H.2014

2


+ “Nhận diện và khái quát các quan điểm sai trái, thù địch trong cuộc
đấu tranh tư tưởng của chúng ta hiện nay”, T. S Hồng Vinh.
+ “Nhận dạng những âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của chủ
nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch chống phá ta
trong thời gian gần đây”, Trung tương:Phựng khắc Đăng.
Nhìn chung các bài viết trên đã chỉ ra một cách khái quát khá đầy đủ
những quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa phi Mácxítvà sự phê phán của các Ông đối vơi những tư tưởng phi
Mácxít. Tuy nhiên những bài viết trên chưa làm rõ được sự phê phán của
V.I.Lênin đối vơi các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa phi Mácxít, cụ thể
thông qua hai tác phẩm “Làm gì” và “ Hai sách lược”. Do vậy, để tìm hiểu rõ
hơn sự phê phán của Lênin đối vơi trào lưu tư tưởng phi Mácxít, đặc biệt là sự
phê phán qua hai tác phẩm trên thì cần thiết phải nghiên cứu đề tài này. Để
hiểu sâu hơn những quan điểm của Lênin về tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa
học cũng như về tư tưởng phi Mácxít qua hai tác phẩm “Làm gì” và “ Hai
sách lược” qua đó khẳng định nhiệm vụ cách mạng của những người
Bônsêvích là kiên quyết đấu tranh một cách triệt để nhất nhằm đánh đổ chủ
nghĩa cơ hội cũng như trào lưu tư tưởng phi Mácxít.
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu:

3.1. Khách thể nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu của tiểu luận là trong hai tác phẩm “Làm gì?”
(V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ. M.1975,t.6, tr.1-243) và “Một bươc tiến,
hai bươc lùi” (V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ. M.1979,t.8, tr.215 - 502).
Đây là hai trong số rất nhiều tác phẩm lơn có giá trị của Lênin được ông viết
để kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác. Đặc biệt, qua hai tác phẩm, vấn đề phê
phán trào lưu xã hội chủ nghĩa phi macxít đã được ông thể hiện rất rõ ràng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận này là sự phê phán của Lênin đối
vơi các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi macxit.

3


Như vậy, có thể hiểu, “phê phán các trào lưu xã hội chủ nghĩaphi
macxit” là:
Thứ nhất, đây là một hình thức phê phán mag tính chất cách mạng, là
một trong những nội dung cơ bản hợp thành của cuộc đấu tranh tư tưởng ly
luận của các nhà tư tưởng ly luận macxit nhằm chỉ ra chính xác những tác
hại về mặt chính trị tư tưởng, qua đó là những tác hại về chính trị và tổ chức
của các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi macxit đối với phong trào công nhân
và phong trào cộng sản quốc tế, nhằm bảo vệ sự thống nhất về tư tưởng ly
luận, làm tiền đề cho sự thống nhất về chính trị và tổ chức, góp phần thúc đẩy
sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và xã hội
trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Thứ hai, đây cũng là một hình thức phê phán khoa học, trên lập trường
cách mạng - khoa học của giai cấp công nhân, được thực hiện bởi các nhà tư
tưởng ly luận ly luận chủ nghĩa xã hội khoa học nhằm chỉ ra một cách khách
quan, trung thực các giá trị và nhất là những điểm, những nội dung phản
khoa học trong các trào lưu chủ nghiã xã hội phi macxit, bảo vệ, phát triển

chủ nghĩa xã hội khoa học.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Từ việc tìm hiều vài nét về tình hình thế giơi và nươc Nga thế kỷ XX
Và nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các trào lưu tư tưởng phi xã hội
chủ nghĩa macxit và mục đích của những trào lưu này, việc nghiên cứu sự phê
phán của Lênin đồi vơi các trào lưu tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa macxit
nhằm chỉ ra chính xác những tác hại về mặt chính trị tư tưởng, qua đó là
những tác hại về chính trị và tổ chức của các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi
macxit đối vơi phong trào công nhân và phong trào cộng sản quốc tế, nhằm
bảo vệ sự thống nhất về tư tưởng lý luận, làm tiền đề cho sự thống nhất về
chính trị và tổ chức, góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và xã hội trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ
4


mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa
học.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục tiêu trên tác giả xác định cần phải thực hiện
những nhiệm vụ nghiên cứu dươi đây:
- Hệ thống hóa những quan niệm cơ bản về trào lưu xã hội chủ nghĩa
phi macxit.
- Phân tích, làm rõ sự phê phán của Lênin đối vơi các trào lưu xã hội
chủ nghĩa phi macxit ở Nga thế kỷ XX qua hai tác phẩm: “Làm gì?” và “Một
bươc tiến, hai bươc lùi”.
- Rút ra được ý nghĩa cũng như bài học kinh nghiệm từ sự sự phê phán
đó.
5. Đóng góp mới của tiểu luận:
Đề tài góp phần phân tích và làm rõ hơn sự phê phán của Lênin đối vơi

các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi macxit ở Nga thế kỷ XX qua hai tác phẩm:
“Làm gì?” và “Một bươc tiến, hai bươc lùi”
Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong phong trào công nhân,
giác ngộ giai cấp công nhân. Thấy được con đường và hương đi đúng đắn của
chủ nghĩa Mác trong sự nghiệp xây dựng chủ nghiã xã hội.
Nếu thành công, tiểu luận cũng có thể trở thành một trong những tài
liệu tham khảo bổ ích trong nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung
và trong bộ môn Phê phán các tào lưu xã hội chủ nghĩa phi macxit nói riêng.
6. Cơ sơ lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:
6.1. Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận và phương pháp luận của tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận
của chủ nghiã Mác, các quan điểm cơ bản của các nhà khoa học macxit đề từ
đó Lênin kế thừa, bảo vệ và phát triển. Ông tiến hành phê phán các trào lưu xã
hội chủ nghĩa phi macxit chống lại chủ nghĩa macxit.

5


6.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận: sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội
hoa học làm cơ sở phương pháp luận.
- Phương pháp chủ đạo: phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp cụ thể: sử dụng phương pháp lịch sử và logic, phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và hệ thống.
7. Kết cấu nội dung cần triển khai:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài dự
kiến được triển khai theo kết cấu nội dung cơ bản dươi đây:
Chương I: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ SỰ PHÊ PHÁN CÁC
TRÀO LƯU TƯ TƯƠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHI MÁCXÍT

1.1 Khái niệm về sự phê phán các trào lưu tư tưởng xã hội chủ
nghĩa phi Mácxít.
1.1.1. Định nghĩa sự phê phán các trào lưu tư tưởng xã hội chủ
nghĩa phi Mácxít
1.1.1.1. Định nghĩa các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa phi
Mácxít.
1.1.1.2. Định nghĩa sự phê phán trao lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa
phi macxit
1.1.2. Nguyên tắc cơ bản của sự phê phán các trào lưu tư tưởng xã
hội chủ nghĩa phi Mácxít
1.1.2.1 Nguyên tắc học thuyết sứ mệnh lịch sử của GCCN.
1.1.2.2. Nguyên tắc về học thuyết cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.3. Nguyên tắc dân chủ vô sản và chuyên chính vô sản.
1.2 Sự cần thiết phải phê phán các trào lưu tư tưởng phi Mácxít
1.2.1. Nguồn gốc của các trào lưu này.
1.2.2. Ý nghĩa của sự phê phán các trào lưu tư tưởng phi Mácxít

6


Chương II: SỰ PHÊ PHÁNCỦA LÊNIN ĐỐI VỚI CÁC TRÀO
LƯU TƯ TƯƠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHI MÁCXÍT Ơ NGA
2.1. Tiểu sử của V.I.Lênin
2.2. Sự phê phán của Lênin đối với các trào lưu xã hội chủ nghĩa
phi macxit ở Nga
2.2.1. Sự phê phán của Lênin đối với các trào lưu xã hội chủ nghĩa
phi macxit về cách mạng cô sản và chuyên chính vô sản
2.2.2. Sự phê phán của Lênin đối với các trào lưu xã hội chủ nghĩa
phi macxit về Đảng và vai trò của Đảng của GCCN
Chương III: LIÊN HỆ ĐỐI VỚI CÁCH MANG VIỆT NAM

2.1 Tư tưởng sai trái thù địch phủ nhận nền tảng tư tưởng của
Đảng cộng sản Việt Nam và cách mạng Việt nam.
2.1.1 Phủ địch học thuyết Mác - Lênin và Phủ định tư tưởng Hồ chí
Minh
2.1.1.1 Phủ định học thuyết Mác - Lênin
2.1.1.2 phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2 Phủ định mục tiêu lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của chúng ta “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” ở việt nam.
2.3 Các tư tưởng sai trái thù địch phủ định sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản việt nam và bôi nhọ những lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam.
2.3.1 Công kích vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản việt nam với
những luận điệu
2.3.2 Các thế lực thù địch Phản bác cương lĩnh, quan điểm nguyên
tắc của đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
2.3.3 Chúng tìm mọi cách bịa đặt, nói xấu cán bộ của đảng và nhà
nước ta
2.4. Các thế lực thù địch phủ định đường lối, chính sách và pháp
luật của đảng và nhà nước ta.
7


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ SỰ PHÊ PHÁN CÁC TRÀO LƯU
TƯ TƯƠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHI MÁCXÍT
1.1 Khái niệm về sự phê phán các trào lưu tư tưởng xã hội chủ
nghĩa phi Mácxít
1.1.1 Định nghĩa “sự phê phán các trào lưu tư tưởng xã hội chủ
nghĩa phi Mácxít”

1.1.1.1 Định nghĩa “các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa phi Mácxít”
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời đã chứng minh rằng, chỉ có trong
CNXH, CNCS thì các tư tưởng XHCN mơi có thể trở thành hiện thực. Bởi
khi ấy và chỉ khi ấy các lợi ích chung, cơ bản của toàn thể xã hội mơi được
thực hiện trong quan hệ hài hòa vơi lợi ích của mỗi con người được phát triển
tự do, toàn diện. CNXHKH là sản phẩm khách quan, giai đoạn phát triển cao
lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, CNXHKH là một trình độ cao,
khoa học, phản ánh và thể hiện quy luật chính trị - xã hội của quá trình
chuyển biến của nhân loại từ CNTB lên CNCS.
Vơi tính cách là các tư tưởng của các giai cấp và tầng lơp khác nhau, có
các lợi ích chính trị cơ bản rất khác nhau, thậm chí đối lạp nhau, tư tưởng
XHCN, CNXH, vì thế cũng tất yếu không thể không tồn tại những trào lưu,
những khuynh hương khác nhau, thậm chí đối lập nhau trên nhiều, thậm chí là
hầu hết những nội dung cơ bản của tu tưởng XHCN. Những khuynh hương và
trào lưu tư tưởng XHCN có nội dung khác biệt về nguyên tắc đối vơi
CNXHKH được gọi là các trào lưu tư tưởng XHCN phi macxit hay CNXH
phi macxit hoặc chủ nghĩa cơ hội…
Trào lưu tư tưởng XHCN phi macxit hay CNXH phi macxit khi thâm
nhập vào phong trào công nhân dần dần phát triển và trở thành các khuynh
hương chủ nghĩa cơ hội, mang tính chất cơ hội, là …”sự hy sinh nhứng lợi ích
8


căn bản để có được những lợi ích cục bộ và tạm thời. Nội dung chính là ở đó,
nếu ta muốn cho chủ nghĩa cơ hội một định nghĩa có tính chất lý luận” [v.i.l,
toàn tập, NXB tiến bộ, max-cơ-va, 1978, tập 42, trang 70]
Trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa phi macxit là khái niệm dùng để
chỉ các học thuyết, các hệ thống tư tưởng và ly luận XHCN và CSCN được
hình thành, phát triển trên cơ sở thế giới quan duy tâm hoặc duy vật không
triệt để với một hệ phương pháp tư duy siêu hình, được hình thành và tồn tại

kể từ khi CNXH từ không tưởng đã trở thành CNXHKH. CNXH phi macxit là
hệ thống tư tưởng ly luận XNCH phản ánh lợi ích và lập trường chính trị của
các giai cấp, tầng lớp phi vô sản…
1.1.1.2 Định nghĩa “sự phê phán trao lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa
phi macxit”
Phê phán chủ nghĩa phi macxit, trươc hết là một hình thức phê phán
mang tinh thần cách mạng, là một trong những nội dung cơ bản hợi thành
cua cuộc đấu tranh tư tưởng ly luận của các nhà tu tưởng , qua đó là những
tác hại về chính trị và tổ chức của các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi macxit đối
vơi phòn trào công nhân và phong trào cộng sản quốc tế nhằm đảm bảo vệ sự
thống nhất về tư tưởng lý luận, làm tiền đề cho sự thống nhất về chính trị và
tổ chức, góp phần thức đẩy sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân,
nhân dân lao dộng và xã hộ trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân.
Phê phán chủ nghĩa phi macxit cũng là một hình thức phê phán khoa
học, trên lập trường cách mạng - khoa học của GCCN,được thực hiện bởi
các nhà tư tưởng ly luân CNXHKH nhằm chỉ ra một cách khách quan, trung
thực các giá trị và nhất là những điểm nội dung phản khoa học trong các trào
lưu CNXH phi macxit, bảo vệ và phát triển CNXKH.
Giữa CNXHKH và CNXH phi macxit có những điểm tương đồng và
khác biệt nhau:
CNXH phi macxit thường có nguồn gốc xã hội từ phong trào công
nhân. Hay cũng là có chung nguồn gốc vơi CNXHKH. Giữa CNXH phi
9


macxiy vơi CNXHKH có những điểm tương đồng về hình thức. Vì vậy rất dễ
nhầm lẫn nếu chỉ nghiên cứu và phê phán qua các dấu hiệu bên ngoài.
Còn xét trên vấn đề nguyên tắc, CNXh phi macxit và CNXHKH lại có
sự khác biệt nhau cơ bản về nội dung. vì vậy khi nghiê cứu, phê phán cần

được đi đến tận cùng cái bản chất cửa các trào lưu tư tưởng ấy.
1.1.2 Nguyên tắc cơ bản của sự phê phán các trào lưu tư tưởng xã
hội chủ nghĩa phi Mácxít
1.1.2.1.

Nguyên tắc học thuyết sứ mệnh lịch sử của GCCN.

CNXHKH coi GCCN là giai cấp duy nhất có SMLS lãnh đạo cuộc đấu
tranh của nhân dân lao động nhằm thủ tiêu CNTB, xây dụng CNXH và
CNCS. Điều kiện chủ quan quyết định để GCCN có thể thực hiện thắng lợi
SMLS của mình là GCCN phải dược tổ chuwcss, được lãnh đạo bởi Đảng
Cộng Sản.
Trong khi đó, các trào lưu XHCN phi macxit, dù vơi mức độ khác
nhau đều phủ nhận SMLS của GCCN, phủ nhận quy luật ra đời của Đảng
Cộng Sản - điều kiện then chốt để GCCN có thể thực hiện thắng lợi SMLS
của mình, hoàn thành tốt vai trò là lục lượng tiên phong thực hiện chuyển biến
cách mạng từ CNTB lên CNXH và CNCS.
Đồng thời, CNXHKH cũng khẳng dịnh GCCN không thể tự giải
phóng mình, nếu không đồng thời giải phóng toàn nhân loại. Nguyên lý này
hàm chứa hai nội dung cơ bản có mối quan hệ hữu cơ không tách rời nhau:
Thứ nhất, SMLS của GCCN, tự do, bao goomf SMLS giải phóng các
dân tộc và nhân loại.
Thứ hai, thực hiện SMLS thủ tiêu CNTB, xay dựng CNcs hoàn toàn
không phải là sự nghiệp của riêng GCCN.
1.1.2.2. Nguyên tắc về học thuyết cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự khác biệt căn bản thứ hai giữa CNXHKH vơi các trào ưu XHCH
phi macxit là những bất công có tính nguyên tắc liên quan đến phạm trù CM
XHCN.
10



CNXHKH dựa trên nền tảng học thuyết duy vật lịch sử về hình thái
kinh tế - xã hội và cách mạng xã hội, luôn khẳng định CM XHCN là quy luật
khách quan, thông qua đó thực hiệnđược sự chuyển biến của loài người từ
CNTB lên CNXH.
Đặc thù của CM XHCN được thể hiện ở chỗ, đây là cuộc cách mạng sâu
sắc, toàn diện, triệt để, mang tính chất xã hội, tính chất nhân dân ngày càng
rộng rãi và là cuộc cách mạng xã hội cuối cùng của lịch sử xã hội loài người
được xây dựng trên cơ sở có sự phân biệt giai cấp và đối kháng giai cấp.
GCCN thông qua chính đảng của mình, là lực lượn xã hội duy nhất
lãnh đạo cuộc cách mạng ấy. Nhưng động lực cơ bản để thực hiện đam bảo
thắng lợi cuộc cách mạng ấy là liên minh của GCCN vơi quảng đại quần
chúng nhân dân lao động phi vô sản, làm nòng cốt cho khối đoàn kết dân tộc,
tiên tơi thực hiện khối đoàn kết quốc tế tộng rãi của mọi giai cấp và tầng lơp
nhân dân giữa các dân tộc trên phạm vi thế giơi.
Ở mức độ khác nhau, các trào lưu tư tưởng xã hội đều không thừa nhận
sự cần thiết của CM XHCN , phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản,
của GCCN, phủ nhận sự cần thiết phải thực hiện liên minh của GCCN vơi
quảng đại quần chúng nhân dân lao động và toàn xã hội trong tiễn rình
chuyển biến của nhân loại từ CNTB lên CNXH và CNCS.
Mỗi cuộc CM XHCN nổ ra trong các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử
khác nhau, ở mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau không thể không thông qua
những hình thức, những phương pháp vơi những dấu hiệu đặc thù rất khác
nhau…được quy định bởi những đặc thù về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã
hội…Giai đoạn hiện nay của thời đại, khi mà lực lượng sản xuất phát triển hết
sức nhanh chóng đang tạo ra những biến động sâu sắc trong cơ cấu xã hội giai cấp, nghề nghiệp, lao động…cùng các biến đổi trong phương thức sản
xuất, trao đổi và trong tồn tại xã hội…
CM XHCN khồn thể không mang những hình thức, phương pháp mơi,
vơi cả những nội dung mơi rọng rãi và to lơn hơn nhiều so vơi những gì mà
cuộc cách mạng đó đã nổ ra trong thế kỷ XX.

11


Trong toàn bộ cuộc đấu tranh chung ấy, cuộc đấu tranh của GCCN,
NDLĐ vì CNXH, thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa là một bộ phận.
1.1.2.2.

Nguyên tắc dân chủ vô sản và chuyên chính vô sản.

CNXHKH luôn đứng trên lập trường có tính nguyên tắc về sự cần thiết
phải thiết lập cho được quyền lực thống trị về chính trị của GCCN và NDLĐ.
Xác lập từng bươc và xây dựng nền dân chủ XHCN vơi một hệ thống chính
trị mang tính chất đại diện cho quyền dân chủ của GCCN, NDLĐ và toàn thể
xã hội. Sự hoạt động của từng thành tố cũng như của toàn bộ hệ thống chính
trị XHCN luôn hương đến từng bươc xác lập trên thực tế, ngày càng đầy đủ
quyền làm chủ của NDLĐ.
Điểm chủ yếu và ban chất ấy là sự thể hiện tập trung bản chất giai cấp
của GCCN của nền dân chủ XHCN, trong sự thống nhất về căn bản và ngày
càng đầy đủ vơi lợi ích chính trị căn bản của NDLĐ và toàn xã hội. Đó cũng
chính là nền dân chủ cuối cùng trong lịch sử, nền dân chủ sẽ tự tiêu vong.
Các trào lưu tư tưởng XHCN phi macxit, thì đều phủ nhận sự cần thiết
phải xác lập quyền lực thống trị của GCCN đối vơi xã hội nhằm thủ tiêu nền
dân chủ tư sản, thiết lập và xây dựng nền dân chủ XHCN - như là bươc
chuyển biến khách quan, tất yếu đưa nhân loại lên CNXH và CNCS.
Trong giai đoạn hiện nay của thời đại, nền dân chủ XHCN được ra đời
chắc chắn là sẽ vơi những hình thức và phương pháp mơi, cả những nội dung
và cách thức mơi…Nhưng đó chắc chắc chắn là và vẫn phải là nền dân chủ
ngày càng có số đông, ngày càng thuộc về nhân dân và thông qua một hệ
thống tổ chức thiết chế chính trị đại diện cho nhân dân - chủ thể của nền dân
chủ XHCN đích thực.

1.2 Sự cần thiết phải phê phán các trào lưu tư tưởng phi Mácxít
1.2.1. Nguồn gốc của các trào lưu này.
1.2.1.1. Nguồn gốc xã hội
Tư tưởng XHCN nói chung là sự phản ánh dươi dạng quan niệm, ươc mơ,
khát vọng phản kháng hiện thực của các giai cấp và tầng lơp bị áp bức và thống
12


trị đối vơi những bất công, tệ nan xã hội được san sinh ra từ chế dộ tư hữu. Do
đó, nó không thể không là sự thể hiện, phản ánh và chịu sự quy định, ràng buộc
bởi kinh tế - xã hội và lợi ích chính trị - xã hội của các giai cấp hác nhau. Các
trào lưu tư tưởng XHCN phi macxit cũng là một bộ phận hợp thành của tu tưởng
XHCN, nên nó không thể không mang đặc điểm có tính quy luật ấy.
Mỗi một lục lượng, một tổ chức xã hội và xã hội chính trị, mỗi cã nhận
nhà tư tưởng đều đưa ra các tưu tưởng, quan điểm lý luận cua mình về
CNXH, về con đường, phương pháp và lực lượng đấu tranh cho CNXH theo
cách của mình, chịu sự chi phối và giơi hạn, quy định bởi lợi ích xã hội của
giai cấp mà mình đại diện, xuất thân.
1.2.1.2. Nguồn gốc tư tưởng
Tính đọc lập tương đôi của văn hóa nói chung của tư tưởng và tư tưởng
xã hội - chính trị nói riêng thể hiện khá rõ nét trong quá trình hình thành và
phát triển các tư tưởng XHCN. Thể hiện trên hai phương diện:
Thứ nhất, sự bảo thủ của tư tưởng so vơi sự vận động biến đổi của hiện
thực khách quan
Thứ hai, tính chất đi trươc và tính định hương, dự báo đối vơi hiện thực
cuộc sống.
Trong hoạt động tư tưởng lý luận, thế giơi quan và phương pháp tư duy
của nhà tu tưởng lý luận có vai trò quyết định đối vơi những thành công, thất
bại của chính họ.
Sự ảnh hưởng tác động của các giá trị, các hạn chế của những tư tưởng

lý luận quá khứ và hiện tại, cộng vơi những sai lầm trong thế giơi quan,
phương pháp tư dauy cũng như trong các phương pháp nghiên cứu cụ thể...là
những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự xuất hiện các luận điểm XHCN
mang tính chất cơ hội, xa rời thực tế, xa rời thậm chí phủ nhận hoặc chống lại
các nguyên tắc cơ bản của CNXHKH.
1.2.1.3. Nguồn gốc nhận thức
Sự tồn tại, phát triển của các trào lưu XHCN phi macxit còn có nguồn
gốc từ nhận thức. Nhận thức là một hoạt động tất yếu, thường xuyên của con
13


người đối vơi thế giơi. Trong số các hoạt động cơ bản hợp thành của nhận
thức, hoạt dộng nghiên cứu khoa học có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng.
Các trào lưu tư tưởng XHCN phi macxit a đời, tồn tại và phát triển, suy
cho cùng là sản phẩm của hoạt động nhận, hoạt động nghiên cứu lý luận chính
trị của mỗi nhà tư tưởng, mỗi cán bộ lý luận chính trị. Những sai lầm hay
đúng đắn trong nguyên tắc, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
của mỗi cán bộ lý luận, mỗi nhà hoạt động tư tưởng lý luận chính trị đều sẽ
dẫn đến hoặc là những tư tưởng XHCN phi macxit, phi khoa học, cơ hội chủ
nghĩa, hoặc là CNXHKH, CNXH macxit.
1.2.2. Ý nghĩa của sự phê phán các trào lưu tư tưởng phi Mácxít
Phê phán chủ nghĩa xã hội phi Mác xít là hình thái phê phán mang tính
thần cách mạng, là một trong những nội dung cơ bản hợp thành của cuộc đấu
tranh tư tưởng lý luận của các nhà tư tưởng lý luận mác xít nhằm chỉ ra chính
sác những tác hại về mặt chính trị tưởng , qua đó là những tác hại về chính trị
và tổ chức của các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi mác xít đối vơi phong trào
công nhân và phong trào cộng sản quốc tế nhằm bảo vệ sự thống nhất về tư
tưởng lý luận làm tiền đề cho sự thống nhất về chính trị và tổ chức , góp phần
thúc đẩy sự ngiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và xã
hội trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Phê phán chủ nghĩa xã hội phi Mác xít còn là một hình thức phê phán
khoa học, trên lập trường cách mạng - khoa học của giai cấp công nhân được
thực hiện bởi các nhà tư tưởng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học nhằm chỉ ra
một cách khách quan, trung thực có giá trị và nhất là những điểm những nội
dung phản khao học trong các trào lưu CNXH phi Mác xít bảo vệ phát triển
chủ nghĩa xã hội khoa học ( hay chủ nghĩa xã hội Mác xit).

14


CHƯƠNG II
SỰ PHÊ PHÁN CỦA LÊNIN ĐỐI VỚI CÁC TRÀO LƯU
TƯ TƯƠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHI MÁCXÍT Ơ NGA
2.1. Tiểu sử của V.I.Lênin
V.I. Lênin sinh ngày 22 tháng Tư năm 1870 ở
Simbirsk (nay là Ulianovsk), mất ngày 21 tháng Giêng
1924 ở làng Gorki gần Moskva.
V.I. Lênin tên thật là Vladimir Ilits Ulianov (Lenin), các bí danh đã dựng là V. Ilin, K. Tulin, Karpov
và những bí danh khác. Năm 1887 V.I. Lênin tốt
nghiệp xuất sắc bậc Trung học được nhận Huy chương
vàng nên được vào thẳng bất kỳ trường Đại học nào ở nươc Nga. Ông xin vào
học khoa Luật của Đại học Tổng hợp Kazan. Tại đây, V.I. Lênin tham gia
nhóm cách mạng trong sinh viên, trở thành thành viên của Hội đồng hương bí
mật Samarsko- Simbirskoe. Do tham gia tuyên truyền cách mạng trong sinh
viên, tháng Chạp 1887, V.I. Lênin bị đuổi học và bị phát lưu đến làng
Kokushino Kazan. Tháng 10 năm 1888, trở về Kazan gia nhập nhóm Mácxơt. V.I. Lênin có nghị lực rất cao trong việc tự học. Chỉ trong vòng hai năm
miệt mài đèn sách, năm 1891, V.I. Lênin đã thi đỗ tất cả các môn học của
chương trình 4 năm khoa Luật trường ĐH Tổng hợp Kazan vơi tư cách thí
sinh tự do. Sau khi tốt nghiệp khoa luật V.I. Lênin làm trợ lý Luật sư ở
Samara. Tháng 8/1893, chuyển về Peterburg. Năm 1894, trong cuốn Thế nào

là những người bạn dân và học chiến đấu chống lại những người xã hội dân
chủ như thế nào? Và năm 1899, trong cuốn Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở
Nga V.I. Lênin được thừa nhận là người lãnh đạo của nhóm Mác- xít ở Nga.
Mùa thu 1895, V.I. Lênin thành lập ở Peterburg Hội liên hiệp đấu tranh giải
phóng giai cấp công nhân, tập hợp các nhóm cách mạng ở Peterburg. ở Mátxcơ- va , Kiev, Iaroslav và những thành phố khác cũng thành lập các Hội liên
15


hiệp tương tự. V.I. Lênin đã gặp Nadegiơda Konstantinovna Krupskaia . Hai
người yêu nhau và trở thành bạn đời chung thuỷ. Đêm mồng 9 tháng Chạp
1895, do bị tố giác nhiều hội viên của Hội liên hiệp, trong đó có V.I. Lênin bị
cảnh sát bắt. Sau 14 tháng bị cầm tù, tháng Hai 1897, V.I. Lênin bị đi đày 3
năm ở làng Shushenkoe (miền Đông Sibir). Trong thời gian lưu đày V.I. Lênin
đã viết xong hơn ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn khá đồ sộ: Sự phát triển
chủ nghĩa tư bản ở nươc Nga(1899).
Năm 1900, thời hạn lưu đày của V.I. Lênin kết thúc. Người lại tập hợp
những người Mác- xít cách mạng thành lập Đảng. Chính quyền Nga Hoàng
cấm V.I. Lênin sống ở Thủ đô và các thành phố lơn. V.I. Lênin phải ra nươc
ngoài (1900), cùng vơi Plekhanov lập ra tờ báo Tia lửa. Năm 1903, tại Luânđơn tiến hành Đại hội lần thứ II Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga. V.I.
Lênin phát biểu phải xây dựng một Đảng Mác- xít kiểu mơi có kỷ luật nghiêm
mình, có khả năng là người tổ chức cách mạng của quần chúng. Nhóm số
đông ủng hộ V.I. Lênin gọi là những người Bolshevik, nhóm số ít chủ trương
thành lập đảng đấu tranh theo kiểu Nghị viện gọi là những người menshevik.
Về những nguyên tắc tư tưởng và tổ chức của Đảng kiểu mơi này V.I. Lênin
đã trình bày trong cuốn Làm gì (1902) và cuốn Một bươc tiến hai bươc lùi
(1904). Trong thời kỳ cách mạng 1905- 1907 V.I. Lênin đã phát triển tư tưởng
độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong trong cuộc cách mạng dân chủ
tư sản thành cách mạng xã hội chủ nghĩa Hai sách lược dân chủ xã hội trong
cách mạng dân chủ 1905.
Tháng Tư 1905, tại Luân-đơn tiến hành Đại hội lần thứ III ĐCNXHDC

Nga, V.I. Lênin được bầu là Chủ tịch Đại hội. Tại Đại hội này Uỷ ban Trung
ương đã được bầu ra do V.I. Lênin đứng đầu. Tháng Mười Một 1905, V.I.
Lênin bí mật trở về Peteburg để lãnh đạo cách mạng Nga. Tháng Chạp 1907,
V.I. Lênin sống ở nươc ngoài tiếp tục đấu tranh bảo vệ và củng cố đảng hoạt
động bí mật. Trong cuốn Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán (1908) V.I. Lênin phê phán sự xét lại về mặt triết học chủ nghĩa Mác và
16


phát triển những cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác. Tháng Giêng 1912 lãnh
đạo Hội nghị lần thứ VI (Praha) toàn Nga ĐCNXHDC. Tháng Sáu 1912 từ
Paris chuyển về Krakov lãnh đạo tờ Pravda (Sự thật). Thời kỳ này, V.I. Lênin
soạn thảo xong Đề cương Mác xít về vấn đề dân tộc. Cuối tháng Bảy 1914, bị
cảnh sát áo bắt nhưng sau đó ít lâu được trả lại tự do và đi Thuỵ Sĩ. Trong thời
gian Đại chiến thế giơi lần thứ I V.I. Lênin đưa ra khẩu hiệu biến chiến tranh
đế quốc thành nội chiến cách mạng. Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc - giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916) và những tác phẩm khác V.I. Lênin
đã phát triển chính trị kinh tế học Mác xít và lý luận về cách mạng xã hội chủ
nghĩa, kiện toàn những vấn đề cơ bản của triết học mác xít (Bút ký triết học).
Tại Hội nghị quốc tế những người theo chủ nghĩa quốc tế tại Thuỵ Sĩ (1915)
V.I. Lênin đã tập hợp những người xã hội dân chủ cánh tả đoàn kết lại. Sau
cách mạng tháng Hai 1917, ở Nga tồn tại tình trạng hai chính quyền song
song, một bên là chính phủ lâm thời tư sản (chuyên chế của giai cấp tư sản) và
một bên là Xô viết các đại biểu công nhân và binh sĩ (chuyên chính vô sản).
Những mâu thuẫn kinh tế và chính trị sâu sắc ở nươc Nga lúc bấy giờ đòi hỏi
phải tiến hành một cuộc cách mạng làm thay đổi tận gốc đời sống chính trị
nươc Nga. Ngày 16 tháng Tư V.I. Lênin đến Petrograd để trình bày Luận
cương Tháng Tư thực chất là một văn kiện mang tính cương lĩnh đề ra đường
lối giành chiến thắng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vơi khẩu hiệu
Toàn bộ chính quyền về tay các Xô Viết! Hội nghị lần thứ VII toàn Nga

(Tháng TƯ 1917) của ĐCNXHDC Nga (b) đã nhất trí thông qua đường lối do
V.I. Lênin đề ra. Sau cuộc khủng hoảng chính trị ở nươc Nga (tháng Bảy
1917), V.I. Lênin buộc phải về vùng Pazzliv cách Petrograd (nay là Peterburg)
34km để tránh sự truy lùng của Chính phủ lâm thời. Từ nơi hoạt động bí mật
V.I. Lênin thường xuyên chỉ đạo phong trào cách mạng nươc Nga. Đầu tháng
Tám 1917 Đại hội lần thứ VI ĐCNXHDC Nga họp bán công khai ở
Petrograd, V.I. Lênin tuy không tham dự nhưng vẫn lãnh đạo Đại hội tiến
hành và thông qua đường lối phải khởi nghĩa vũ trang giành lấy chính quyền.
17


Trong thời gian này, V.I. Lênin viết xong cuốn Nhà nươc và cách mạng đề ra
nhiệm vụ cho giai cấp vô sản phải giành lấy chính quyền bằng con đường đấu
tranh vũ trang Đầu tháng Mười 1917, V.I. Lênin từ Phần Lan bí mật trở về
Petrograd ngày 23 tháng Mười 1917 kế hoạch khởi nghĩa vũ trang của V.I.
Lênin đề ra được Hội nghị Uỷ ban trung ương ĐCNXHDC Nga thông qua.
Tối ngày 6 tháng Mười Một 1917, V.I. Lênin đến Cung điện Smolnưi
trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa. Đến rạng sáng ngày 7 Tháng Mười một
1917, toàn thành phố Petersbuorg nằm trong tay những người khởi nghĩa, và
đến đêm ngày 7 tháng Mười Một 1917, Cách mạng tháng Mười Nga đã toàn
thắng. Chính quyền đã về tay nhân dân. Nhà nươc công nông đầu tiên trên thế
giơi do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đã ra đời. Tại Đại hội các Xô Viết
toàn Nga lần thứ II V.I. Lênin được bầu là Chủ tịch Hội đồng các Uỷ viên
nhân dân (Hội đồng Dân uỷ). Sau Cách mạng tháng Mười Nga theo đề nghị
của V.I. Lênin Hồ ươc Brest vơi nươc Đức đã được ký kết (ngày 3 Tháng Ba
1918). Ngày 11 tháng Ba 1918 V.I. Lênin cùng vơi Trung ương Đảng và
Chính phủ Xô Viết trở về Mát xcơ va, V.I. Lênin đã có công lao to lơn trong
việc lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân lao động nươc Nga Xô Viết chống
sự can thiệp quân sự của nươc ngoài và lực lượng phản cách mạng trong
nươc; trong việc lãnh đạo quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nươc Nga. V.I.

Lênin thi hành chính sách đối ngoại Xô Viết, đề ra những nguyên tắc cùng tồn
tại hòa bình giữ các quốc gia có chế độ xã hội khác nhau.
Ngày 30 tháng Tám 1918, V.I. Lênin bị ám sát và bị thương nặng,
nhưng sau đó ít lâu sức khoẻ hồi phục, V.I. Lênin là người sáng lập Quốc tế
Cộng sản (1919). Tháng Ba năm 1919, Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng
sản Nga đã thông qua Cương lĩnh mơi của Đảng, V.I. Lênin được bầu là chủ
tịch Uỷ ban soạn thảo Cương lĩnh Mùa xuân 1920, V.I. Lênin viết cuốn Bệnh
ấu trĩ tả khuynh của chủ nghĩa cộng sản trình bày những vấn đề chiến lược và
sách lược của phong trào cộng sản. Thời gian này, V.I. Lênin soạn thảo xong
kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội (công nghiệp hóa đất nươc, hợp tác hóa
18


gia cấp nông dân, cách mạng văn hóa) là người sáng lập ra Kế hoạch điện khí
hóa toàn Nga (GOELRO), người đề ra chính sách kinh tế (NEP). Năm 1921
chính sách NEP của V.I. Lênin được thông qua tại Đại hội lần thứ X Đảng
Cộng sản Nga. Năm 1922 V.I. Lê-nin ốm nặng. Trong diễn văn cuối cùng đọc
tại hội nghị toàn thể Xô Viết đại biểu thành phố Mát-xcơ-va (ngày 20 Tháng
Mười một 1922) V.I. Lênin tin tưởng rằng thi hành chính sách NEP nươc Nga
sẽ trở thành một nươc xã hội chủ nghĩa. Tháng Chạp 1922 đến tháng Ba 1922
V.I. Lênin đọc ghi âm lại một số bài báo quan trọng như: Những trang nhật
ký, Bàn về hợp tác hóa, Bàn về cách mạng của chúng ta, Thà ít mà tốt; Thư
gửi Đại hội. Ngày 21 tháng Tư 1924, V.I. Lênin qua đời ở làng Gorki (Mátxcơ-va).
2.2. Sự phê phán của Lênin đối với các trào lưu xã hội chủ nghĩa
phi macxit ở Nga.
2.2.1. Sự phê phán của Lênin đối với các trào lưu xã hội chủ nghĩa
phi macxit về cách mang vô sản và chuyên chính vô sản
V.I.Lênin đấu tranh chống phái kinh tế. Nếu cuộc đấu tranh của
V.I.Lênin chống phái dân túy và phái mác xít hợp pháp nhằm chống ảnh
hưởng từ bên ngoài vào phong trào công nhân Nga thì đấu tranh chống phái

kinh tế của Lênin là cuộc đấu tranh trực tiếp ngay trong nội bộ phong trào
công nhân, nội bộ những người cách mạng dân chủ - xã hội Nga lúc bấy giờ.
Năm 1895, việc thành lập một chính đảng mác xít ở Nga đã chín muồi và
V.I.Lênin đã lãnh đạo thành lập Đảng dân chủ - xã hội cho phong trào công
nhân Nga vơi tên “Hội liên hiệp chiến đấu giải phóng thợ thuyền Pêtécbua,
nhưng ngay sau đó, phong trào công nhân Nga đã xuất hiện hai xu hương: xu
hương cách mạng và xu hương cơ hội chủ nghĩa.
Tháng 2 năm 1897 V.I.Lênin bị bắt, quyền lãnh đạo phong trào công
nhân Nga thuộc về phái cơ hội chủ nghĩa - đó là phái kinh tế. Nội dug chủ yếu
của phái kinh tế thể hiện ở những luận điểm: 1) Họ quy toàn bộ mục đích của
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vào cuộc đấu tranh kinh tế nhằm cải
19


thiện đời sống kinh tế trươc mắt chứ không nhằm cải tạo chế độ. Để đạt được
mục đích đó chỉ cần đấu tranh kinh tế chứ không cần đấu tranh chính trị, đấu
tranh giai cấp; đồng thời phái này nhấn mạnh chỉ cần đấu tranh trong phạm vi
chủ nghĩa công liên, không cần vượt ra ngòai khuôn khổ chủ nghĩa tư bản. 2)
Họ bênh vực tình trạng phân tán cục bộ, bè phái, thực chất là phản đối việc đi
tơi thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân. Đặc sắc trong chống lại
chủ nghĩa Mác của phái kinh tế khác vơi các phái cơ hội, xét lại khác ở chỗ họ
khinh thường lý luận đến mức cho rằng vơi họ lý luận chẳng qua chỉ là sự bày
vẽ của các nhà học lý chủ nghĩa, còn các nhà kinh tế chỉ cần thực tiễn.
“Những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội quốc tế hiện đại thay đổi tùy theo đặc
điểm dân tộc, nhưng chủ nghĩa cơ hội thì bất cứ ở đâu, cũng giống hệt như
nhau về nội dung xã hội và chính trị. Ở nước này, những người cơ hội chủ
nghĩa tập hợp nhau lại từ lâu dưới ngọn cờ riêng biệt; ở nước kia, họ lại coi
thường ly luận, và trên thực tiễn, tiến hành chính sách của phái xã hội cấp
tiến; ở nước thứ ba, một số đảng viên đảng cách mạng nhảy sang hàng ngũ
cơ hội chủ nghĩa và cố gắng đạt mục đích của họ, không phải bằng cách đấu

tranh công khai cho những nguyên tắc và cho một sách lược mới, mà bằng
cách làm cho đảng họ dần dần bị đồi bại một cách tuần tự, không thể cảm
thấy được và không thể trừng phạt được, nếu có thể nói như thế; sau hết, ở
nước thứ tư, những kẻ đào ngũ ấy dùng cũng những phương pháp như thế
trong cảnh đen tối của sự nô dịch chính trị, và với những mối quan hệ hoàn
toàn độc đáo giữa hoạt động "hợp pháp" và hoạt động "bất hợp pháp"[3,
tr.18]
Sự phát triển của xu hương cơ hội chủ nghĩa ở những năm cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, trong phong trào công nhân là sự phản ánh cuộc đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Xu hương ấy phát triển
đặc biệt nhanh chóng trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi
chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc.

20


Trươc đây, khi ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác chưa rộng lơn thì những
người cơ hội chủ nghĩa đứng ngoài hàng ngũ của những người mácxít để
chống lại chủ nghĩa Mác. Nhưng đến nửa thứ hai thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác
đã trở thành một trào lưu tư tưởng tiến bộ nhất của loài người đã thu được
thắng lợi hoàn toàn và ngày càng mở rộng ảnh hưởng trong phong trào công
nhân: Sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác đã buộc kẻ thù của chủ nghĩa Mác phải
đội lốt những người Mácxít để chống lại chủ nghĩa Mác. Vì vậy, thời kỳ này,
khuynh hương cơ hội chủ nghĩa xuất hiện ngay trong hàng ngũ những người
Mácxít. Bọn cơ hội lúc này không dám công khai phủ nhận chủ nghĩa Mác
nữa, nhưng chúng lại tiến hành việc xuyên tạc chủ nghĩa Mác, vứt bỏ linh hồn
của chủ nghĩa Mác, nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản.
Cuộc đấu tranh giữa khuynh hương Mácxít và cơ hội chủ nghĩa trong
phong trào xã hội dân chủ quốc tế “có lúc bừng lên sáng rực như một ngọn
lửa chói lòa, có lúc lại dịu xuống âm ỉ dươi đống tro tàn của nghị quyết ngừng

chiến trang nghiêm” và “ai không cố y nhắm mắt lại thì không thể không thấy
rằng khuynh hướng "phê bình" mới trong chủ nghĩa xã hội chẳng qua chỉ là
một hình loại mới của chủ nghĩa cơ hội mà thôi”. [3, tr.10]
Các luận điệu phê phán chủ nghĩa Mác là “giáo điều”, “cũ kỹ” chỉ là
một hình thức mơi của chủ nghĩa cơ hội quốc tế. Trong các đảng dân chủ - xã
hội Tây Âu, trào lưu cơ hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố và hành động
dươi chiêu bài “tự do phê bình” Mác và đòi hỏi “xét lại” học thuyết của Mác.
Sau khi Ăngghen mất (1895), bọn cơ hội chủ nghĩa đứng đầu là
Béstanh đã chủ trương biến Đảng dân chủ cách mạng thành Đảng dân chủ cải
lương, chủ trương thi hành cải cách xã hội. Béstanh phủ nhận khả năng có thể
đem lại cho chủ nghĩa xã hội cơ sở khoa học, phủ nhận tình trạng bần cùng
ngày càng tăng nhanh sự vô sản hóa và những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư
bản ngày càng trầm trọng. Béstanh còn tuyên bố rằng, ngay cả các quan hệ về
mục đích cuối cùng cũng không vững chắc gì cả và kiên quyết bác bỏ ý niệm
về chuyên chính vô sản; phủ nhận sự đối lập về nguyên tắc không thể điều
21


hòa giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội; phủ nhận thuyết đấu tranh giai
cấp; phủ nhận chuyên chính vô sản.
Những quan điểm cơ hội chủ nghĩa đó của chủ nghĩa xét lại Béstanh
chẳng những chỉ là “chủ nghĩa Béstanh lý luận” mà đã được Milơrăng ở Pháp
biến thành “chủ nghĩa Béstanh thực tiễn”. Khuynh hương mơi “Tự do phê
bình” là khuynh hương phê bình theo lối tư sản tất cả những tư tưởng cơ bản
của chủ nghĩa Mác. Đó là thứ tự do của khuynh hương cơ hội chủ nghĩa trong
Đảng dân chủ - xã hội; thứ tự do đem lại hệ tư tưởng vô sản vào thống trị
phong trào công nhân; biến Đảng dân chủ - xã hội cách mạng thành Đảng dân
chủ - xã hội cải lương. Đó là thực chất của các khuynh hương “mơi” trong
phong trào dân chủ xã hội quốc tế lúc bấy giờ. Và vì vậy, “vấn đề đặt ra hiện
nay là: do những đặc điểm đó của "phái phê bình" và của chủ nghĩa

Bécưstanh ở Nga thì nhiệm vụ của những người muốn đánh đổ chủ nghĩa cơ
hội một cách thực sự, chứ không phải trên lời nói, là thế nào? Thứ nhất là
phải nghĩ đến việc làm lại công tác ly luận là công tác chỉ vừa mới bắt đầu
được tiến hành trong thời kỳ chủ nghĩa Mác hợp pháp và nay thì những nhà
hoạt động bất hợp pháp lại phải đảm nhiệm lấy; không có công tác ấy thì
phong trào không thể phát triển thắng lợi được. Thứ hai là cần tiến hành đấu
tranh tích cực chống "phái phê bình" hợp pháp, nó đã làm trụy lạc đầu óc
con người đến cùng cực. Thứ ba là phải lên tiếng mạnh mẽ chống tình trạng
lộn xộn và dao động trong phong trào thực tế, bằng cách tố cáo và bác bỏ
mọi mưu đồ làm giảm giá trị, một cách có y thức hay không có y thức, cương
lĩnh và sách lược của chúng ta”. [3, tr.25]
Chủ nghĩa cơ hội xét lại Bécstanh phát triển nhanh chóng vào cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX không phải là ngẫu nhiên mà có nguồn gốc kinh tế,
nguồn gốc lịch sử và xã hội của nó
Nguồn gốc kinh tế, là sự mua chuộc tầng lơp trên trong giai cấp công
nhân bằng hình thức siêu lợi nhuận thuộc địa.

22


Nguồn gốc lịch sử là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối hòa
bình, các hình thức đấu tranh nghị trường được sử dụng rộng rãi.
Nguồn gốc xã hội là sự tham gia đông đảo của các phần tử tiểu tư sản
trí thức vào Đảng dân chủ - xã hội khi chủ nghĩa Mác đã trở thành một cái
mốt rất hấp dẫn đối vơi tầng lơp thanh niên tiểu tư sản trí thức.
Lênin phân tích lý do vì sao lý luận cách mạng lại có tầm quan trọng
lơn đối vơi Đảng dân chủ - xã hội Nga và trình bày những tư tưởng của MácĂngghen nói về vai trò của lý luận:
“Nếu thực sự cần phải liên hợp thì cứ ký kết những thỏa hiệp nhằm đạt
những mục tiêu thực tiễn của phong trào, nhưng chơ có buôn bán nguyên tắc,
chơ có “nhân nhượng” về lý luận”. Tư tưởng của Mác là như thế, ấy vậy mà

trong chúng ta đã có những người đã nhân danh Mác mà tìm cách làm giảm ý
nghĩa quan trọng của lý luận.
“Nhưng tư tưởng sâu sắc không gì bì được ấy, không những chỉ là
buồn cười (nếu chỉ có thế thì không cần phải đặc biệt bàn đến làm gì), mà lại
còn là cương lĩnh của cả một phái nữa, cương lĩnh mà R. M. (trong "Phụ
trương đặc biệt của báo "Tư tưởng công nhân"") đã trình bày như thế này:
cuộc đấu tranh đáng mong muốn là cuộc đấu tranh có thể thực hiện được,
còn cuộc đấu tranh có thể thực hiện được là cuộc đấu tranh đang được tiến
hành vào lúc này. Đó chính là khuynh hướng của thứ chủ nghĩa cơ hội đến
cực độ, nó thích ứng một cách tiêu cực với tính tự phát”. [3, tr.60 - 61]
Lênin đã dẫn chứng những lời nhận xét của Ăngghen năm 1874 về tầm
quan trọng của lý luận trong phong trào dân chủ - xã hội. Ăngghen khẳng
định rằng, cuộc đấu tranh vĩ đại của Đảng dân chủ - không phải chỉ có hai
hình thức chính trị và kinh tế mà có ba hình thức. Ăngghen đặt cuộc đấu tranh
lý luận ngang vơi cuộc đấu tranh chính trị và kinh tế vấn đề lý luận ngày càng
quan trọng đối vơi những người lãnh đạo.
Lênin khẳng định “Không có ly luận cách mạng thì cũng không thể có
phong trào cách mạng. Trong lúc mà sự say mê những hình thức nhỏ hẹp
23


×