Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Môn chính luận báo chí câu 1 làm rõ bản chất chính luận và chính luận báo chí (phong cách chính luận báo chí)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.89 KB, 15 trang )

Câu 1
Làm rõ bản chất chính luận và chính luận báo chí (Phong cách chính luận
báo chí).
Gợi ý:
Giải mã được khái niệm chính luận và chính luận báo chí.
Đặc điểm của chính luận báo chí (sách tham khảo: Thể loại chính luận
báo chí, Thể loại thông tấn, Tin, Tác phẩm báo chí).
Trả lời:
a. Chính luận là gì?
1. Chính luận là một nhóm thể tài báo chí. Nó có chung hình thức là thông
tin lý luận. Chính luận bao gồm một số thể tài độc lập (bản thân nó chứa đựng
phương pháp, bản chất riêng không phụ thuộc vào thể tài khác) như: xã luận, bình
luận, tiểu luận, chuyên luận, điểm báo,...
2. Trong thực tế, những quan niệm về chính luận và các thể tài trong nhóm
chính luận hiện nay không thống nhất. Cụ thể:
- Không thống nhất trong bản thân những người nghiên cứu báo chí.
- Không thống nhất giữa báo chí của ta với thế giới. Trên thế giới không có
nhóm chính luận mà có từng thể tài cụ thể. Còn ở Việt Nam thể loại xã luận, bình
luận... là một thể loại riêng nhưng được xếp vào một nhóm là chính luận. Nhưng
trong đó các thể tài có tính chất, bản chất khác nhau.
3. Mặc dù còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất nhưng ở những điểm cơ
bản thì nó có được sự thống nhất như: về phạm vi, đề cập đến những cái khái quát
mang tính tiêu biểu, chỉ ra hướng vận động; thống nhất về đối tượng tác động.
Trong tác phẩm chính luận, các sự kiện riêng rẽ nhưng được xem xét một cách có
hệ thống, có logic.
4. Chính luận là nhóm thể tài báo chí dùng lý lẽ để soi sáng sự kiện, giúp
công chúng hiểu đúng sự thật, hướng họ đến hoạt động tích cực, phù hợp với quan
điểm, tư tưởng, ý đồ của tác giả.
Chính luận báo chí?
b. Báo chí Chính luận?
Báo chí chính luận là một thể loại văn học đồng thời là một loại thể báo chí,


có nội dung phản ánh các vấn đề có tính thời sự về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, văn học, tư tưởng, v.v...
Các tác phẩm chính luận hướng tới mục đích tác động đến dư luận xã hội
đương thời, đến lối sống, các quyền lợi chính trị hiện hành; đề xuất việc củng cố
hoặc thay đổi chúng cho phù hợp với quyền lợi giai cấp hoặc với lý tưởng xã hội,
đạo đức.


Đối tượng phản ánh của chính luận là toàn bộ cuộc sống quá khứ và hiện tại,
cuộc sống cá nhân cũng như đời sống xã hội, đời sống thực và đời sống được phản
ánh trong báo chí, nghệ thuật.
Những bức tranh về thực tại, tính cách và số phận con người biểu hiện trong
tác phẩm chính luận như những chứng cứ lấy từ chính đời sống, như một hệ thống
những luận cứ, như đối tượng của sự phân tích hoặc được dùng làm cơ sở cho xúc
cảm, làm tác nhân kích thích, làm nguyên cớ để lên án, tố cáo, hoặc chất ván
cácgiới hữu quan để khẳng định lý tưởng.
c. Đặc điểm chính luận báo chí?
Chính luận mang đặc điểm chung của báo chí. Ngoài ra, chính luận còn có
những đặc điểm riêng:
- Chính luận báo chí là nhóm thể tài báo chí dùng lý luận để soi sáng sự
kiện. Mục đích: nhằm thay đổi nhận thức, tư duy lý luận của công chúng chứ
không phải để cung cấp thông tin.
- Chính luận báo chí coi là một dạng văn nghị luận.( là một dạng văn mà ở
đó người ta dùng lý lẽ, dẫn chứng để bàn bạc, làm rõ vấn đề nào đó nhằm để cho
người đọc, người nghe hoạt động theo.
- Chính luận thể hiện trực tiếp quan điểm của chủ thể sáng tạo để công
chúng hiểu và hoạt động theo.
Biểu hiện:
+ Lối tư duy trong văn nghị luận khác với lối tư duy trong căn phản ánh (lối
tư duy hình tượng). Trong chính luận là lối tư duy logic, nó dựa trên những dữ

kiện, phán đoán để tư duy.
+ Hình thức: thông thường, lối thể hiện của của văn là tình tiết, diễn biến
được thể hiện, triển khai theo mạch cảm xúc. Còn trong văn chính luận, nó lại diễn
biến theo diễn biến của sự kiện đó hoặc diễn biến theo trình tự nhận thức và theo
cách khai triển vấn đề. Cụ thể, nếu trong văn học được thể hiện qua các tình tiết,
hành động, lời nói thì trong chính luận, chủ đề tác phẩm được thể hiện qua hệ
thống luận điểm, luận chứng, luận cứ. Nói cách khác, văn nghị luận là văn được
thể hiện qua phương pháp nghên cứu khoa học rất chặt chẽ.
- Có 2 loại chính luận: chính luận nghệ thuật và chính luận báo chí. Tuy
nhiên sự phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối.
- Chính luận thể hiện rõ nét, tập trung tư tưởng tác giả.
- Bản thân báo chí là phương tiện định hướng tư tưởng. Bởi lẽ chính luận
báo chí là nhóm những thể tài không phản ánh hình thức mà phản ánh bên trong,
làm thay đổi nhận thức của của công chúng về sự kiện ấy. Do đó tác giả phải bày tỏ
quan điểm, tư tưởng của mình để định hướng cho nhận thức hoạt động. Nói cách
khác, chính luận báo chí là xem xét, soi sáng những sự kiện bằng lý luận, mà đặc
trưng của lý luận có tính chất định hương, chỉ đường. Do đó tác giả các phải bày tỏ
quan điểm, thái độ.


- Thái độ, quan điểm của tác giả được bày tỏ bao nhiêu thì càng có khả năng
định hướng bấy nhiêu.
- Những sự kiện trong tác phẩm chính luận được soi sáng bởi tư duy lý luận,
tư duy logic.
* Phong cách ngôn ngữ chính luận là một trong nhiều phong cách được vận dụng
trong ngôn ngữ báo chí.
Vài điểm cần phân biệt như sau:
* Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức, thời sự trong nước và
quốc tế, nó phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng nhằm thúc đẩy
tiến bộ của xã hội.

* Đặc trưng ngôn ngữ báo chí: có 3 đặc trưng:
- Tính thời sự cập nhật: thời gian, địa điểm, sự kiện, ý kiến
-Tính thông tin ngắn gọn: Mỗi câu là một thông tin cần thiết.
- Tính sinh động hấp dẫn: gây tò mò chú ý, độc giả.
SO SÁNH CÁC THỂ LOẠI:
Nhóm thông tấn:
Trong nhóm này tập hợp một số thể loại có nhiệm vụ thông tin (dưới sự chi
phối của các yêu cầu củatính xác thực, thời sự) mà trong đó thể loại tin giữ vị trí
hàng đầu. Bên cạnh tin còn có một số thể loại khác như bài thông tấn, tường thuật,
điều tra, ghi nhanh, phỏng vấn sự kiện, phóng sự sự kiện v.v.. Đặc điểm nổi bật
nhất của các thể loại trong nhóm này là chúng đều thể hiện rõ năng lực thông tin sự
kiện thời sự. Sự kiện được thông tin trong các thể loại thuộc nhóm này được biểu
hiện với những cấp độ khác nhau, nhưng dù ở cấp độ nào thì cũng phải đáp ứng
các yêu cầu về tính thời sự và tính xác thực tối đa. Với mục đích rõ rang là ưu tiên
tối đa cho nhiệm vụ thông tin sự kiện, TTBC cung cấp kịp thời cho công chúng
những thông tin về những sự kiện mới.
Nhóm các thể loại Chính luận báo chí
Chính luận là nhóm thể tài báo chí dùng lý lẽ để soi sáng sự kiện, giúp công
chúng hiểu đúng sự thật, hướng họ đến hoạt động tích cực, phù hợp với quan điểm,
tư tưởng, ý đồ của tác giả. Đây là một nhóm bao gồm các thể loại có nhiệm vụ
đánh giá, phân tích, giải thích, bàn luận về những sự thật của đời sống. Thế mạnh
chủ yếu của các thể loại trong nhóm thể loại này biểu hiện ở năng lực thông tin lý
lẽ. Tất nhiên lý lẽ phải gắn liền với những sự kiện thời sự. Nói cách khác, đây là
nhóm không chỉ có nhiệm vụ thông tin về sự thật mà còn có nhiệm vụ phân tích, lý
giải, bàn luận, đánh giá những sự thật đó trên cơ sở của một thái độ rõ ràng nhằm
hướng dẫn, điều chỉnh dư luận. “Nội dung của tác phẩm chính luận báo chí tập
trung một cách rõ nhất, nhiều nhất lập trường, quan điểm trong sứ mệnh định
hướng tư tưởng và hành động theo mục đích của từng tờ báo”.



Trong nhóm này có các thể loại như bình luận, xã luận, điều tra, bài phê
bình, phỏng vấn vấn đề… Trong đó, thể loại bình luận giữ vai trò là hạt nhân vì nó
đã thể hiện sinh động nhất những đặc điểm cơ bản của cả nhóm. Chúng ta sẽ lần
lượt điểm qua những nét tiêu biểu nhất của các thể loại đó.
Nhóm các thể loại ký BC
Không hoàn toàn giống với hai nhóm nêu trên, các thể loại trong nhóm này
có nhiệm vụ mô tả, diễn tả một cách có hình ảnh, có cảm xúc và giọng điệu về
những sự thật đời sống. Nói cách khác, vẫn trên cơ sở của những sự thật (xác thực,
thời sự), các thể loại trong nhóm này có phương pháp phản ánh linh hoạt, sinh
động do đã kết hợp được những đặc điểm của cả bên trong và bên ngoài hệ thống
thể loại báo chí. Về hình thức thể hiện, trong các tác phẩm thuộc nhóm này thường
có vai trò quan trọng của nhân vật trần thuật và sử dụng ngôn từ, bút pháp, giọng
điệu giàu chất văn học. Nhóm các thể loại này là sự kết hợp yếu tố chính luận ( tư
liệu, sự kiện, lý lẽ, hùng biện…) với yếu tố nghệ thuật ( hình ảnh, cảm xúc, thái độ,
khái quát…) để phản ánh và lý giải vấn đề. Nói cách khác, các sự kiện, hiện tượng,
quá trình có thật của đời sống xã hội được phản ánh một cách sinh động hấp dẫn
bằng cách sử dụng hình ảnh, cảm xúc và các thế mạnh khác nhau của ngôn từ ( ẩn
dụ, ngoa dụ, tính ngữ, so sánh…). Có thể nói thông tin sự kiện, lý lẽ và thẩm mỹ là
tính trội của nhóm thể loại này. Đặc trưng: xuất hiện nhân vật trần thuật cùng với
việc sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu, bút pháp giàu chất văn học.
Thể loại được coi là hạt nhân của nhóm này là phóng sự. Ngoài ra trong
nhóm này còn có các thể loại có hình thức thể hiện sinh động, giàu tính chất văn
học như phỏng vấn chân dung, ký chân dung, ký chính luận, thư phóng viên, sổ tay
phóng viên, nhật ký phóng viên cùng với một vài biến thể khác nữa. Điều đáng lưu
ý là một dạng của thể loại tiểu phẩm cũng có thể được xếp vào nhóm này. Tiểu
phẩm, về bản chất là một thể loại văn học với nhiều dạng khác nhau (văn xuôi, đối
thoại, văn vần hoặc là sự kết hợp giữa ba dạng đó). Tuy nhiên nếu tác phẩm tiểu
phẩm lấy đối tượng phản ánh là người thật, việc thật và đáp ứng được yêu cầu
thông tin xác thực, thời sự và tính định hướng trực tiếp (vốn là những đặc trưng cơ
bản của tác phẩm báo chí) thì có thể coi nó như một dạng giao thoa giữa tiểu phẩm

văn học với nhóm các thể ký BC này.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, trong hệ thống hệ thống thể loại báo chí với
ba nhóm như đã nêu ở trên, các thể loại có thể tồn tại độc lập nhưng cũng có thể
giao thoa với các thể loại (và các loại thể) ở trong và ở bên ngoài hệ thống. Trong
số đó, trừ một số thể loại tương đối ổn định, các thể loại khác ít nhiều đều có sự
giao thoa, chuyển hoá lẫn nhau. Đó là một hiện tượng bình thường trong đời sống
các thể loại báo chí.
Thể loại này là một ngoại lệ vì nó không hoàn toàn thuộc vào một nhóm thể
loại nào. Tuỳ vào từng tác phẩm cụ thể, tác phẩm phỏng vấn sẽ thuộc vào một
nhóm thể loại nào đó. Tương tự như vậy, thể loại phóng sự tuy được coi là hạt nhân


của nhóm các thể Ký BC nhưng một dạng của nó là phóng sự sự kiện vẫn có thể
được xếp vào nhóm các thể Thông tấn báo chí.


Câu 2
Vai trò của chính luận báo chí (Chức năng của chính luận báo chí, hoặc ý
nghĩa của báo chí đối với đời sống xã hội)
Gợi ý: Chính luận báo chí có vai trò gì, đóng góp gì và phân tích nó.
Trả lời:
Vai trò của chính luận trong hoạt động báo chí
Có thể nói rằng, chính luận là nhóm thể tài có vai trò quan trọng trong hoạt
động sáng tạo báo chí. Nó có khả năng giáo dục, tuyên truyền, lý luận cho công
chúng. Cụ thể: Là nhóm thể tài có khả năng chuyển tải thông tin tổng hợp, khái
quát cao. Có khả năng chuyển tải thông tin mang tính định hướng, chiến lược. Tạo
ra cho công chúng 1 tầm nhận thức mới cao hơn, khái quát hơn.
Chính luận báo chí bao hàm trong nó sư tranh luận xã hội, luận chiến xã hội
hay đối thoại xã hội mà chính luận nhằm bày tỏ và bảo vệ chính kiến, luận điểm,
lập truờng xã hội của mình trước sự kiện và vấn đề thời cuộc đang được công

chúng và DLXH quan tâm.
Báo chí chính luận là một loại hình của hoạt động sáng tạo của nhà báo cho
nên nó phải mang đặc trưng cơ bản của báo chí. Hai yếu tố tạo nên đặc trưng của
loai tác phẩm này: Chính luận báo chí trước tiên phải mang phong cách chính luận;
tiếp đó nó phải thỏa mãn yêu cầu của tính chất báo chí.
Theo sách Tác phẩm báo chí tập III, tác giả Trần Thế Phiệt thì chính luận
báo chí là một dạng văn nghị luận; mà văn nghị luận là một loại văn trong đó
người viết đưa ra những lý lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thông qua cách
thức bàn luận mà làm cho nguời đọc, nguời nghe hiểu tin, tán đồng những ý kiến
của mình và hành động theo những điều mà mình đề xuất.
- Chính luận báo chí thể hiện tập trung tính tư tưởng (thông tin trong tác
phẩm chính luận báo chí là thông tin lý lẽ; thái độ trong nội dung thông tin là bày
tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm tư tưởng, chính trị của người viết, của
bản báo đối với nhưng vấn đề thời sự quan trọng thiết yếu; Nội dung của tác phẩm
chính luận báo chí tập trung một cách rõ nhất, nhiều nhất lập trường, quan điểm
trong sứ mệnh định hướng tư tưởng và hành động theo mục đích của từng tờ báo).
- Chính luận báo chí có hình thức trình bày thể hiện yêu cầu và đòi hỏi rất
cao hoạt động tư duy luận lý chặt chẽ thể hiện qua các luận điểm, luận cứ, luận
chứng đuợc triển khai trong tác phẩm. Chính luận báo chí có nhiệm vụ đánh giá,
phân tích, giải thích, bàn luận về những sự thật của đời sống. Nội dung của tác
phẩm chính luận báo chí tập trung một cách rõ nhất, nhiều nhất lập trường, quan
điểm trong sứ mệnh định hướng tư tưởng và hành động theo mục đích của từng tờ
báo.
Trong thực tế cuộc sống mới, dù hòa bình, bao giờ cũng vẫn đặt ra những
vấn đề cần đuợc lý giải, phân tích, thẩm định. Vì vậy xã hội cần đến báo chí không


những chỉ ở thông tin sự kiện mà còn cả ở thông tin lý lẽ. Chính tính chất thông tin
lý lẽ tạo nên vị trí không thể thay thế của chính luận báo chí.
Đây là loại tác phẩm khó viết, người viết phải có quá trình tích lũy, có tầm tư

tuởng và có trình độ chính trị, lý luận nhất định.


Câu 3
Phân tích một vấn đề thời sự đang diễn ra và đưa ra quan điểm của mình về
vấn đề đó.
Gợi ý: Chọn một vấn đề cụ thể và đi vào phân tích sâu.
Trong nước: Văn hóa, giáo dục, kinh tế, an ninh quốc phòng (Chú ý:
quan điểm tiếp cận, cách thức giải thích nó, mỗi quan điểm tiếp cận có những cái
hay, cái dở gì).
Quốc tế: Vấn đề Trung đông: Cuộc chiến seri, cuộc khủng hoảng
Ucaraina (2011 đến nay), vấn đề khủng bố, vấn đề biển đông
Trả lời:
Phân tích bài báo: Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979: Con của những
người anh hùng – Tác giả Mai Thanh Hải - Ngọc Minh- chuyên mục “Tiêu điểm
– Báo Thanh Niên”, số ra ngày 17/02/2016.
Bài báo đã giúp độc giả hồi niệm lại Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc
năm 1979. Lịch sử BĐBP ghi rõ: Từ 4 giờ sáng ngày 17.2.1979, lính bộ binh và 20
xe tăng Trung Quốc với sự yểm hộ của pháo tầm xa ào ạt vượt sông Thủy Khẩu tấn
công vào ĐBP Tà Lùng, để mở cửa di chuyển theo Quốc lộ 3, đánh xuống đèo
Khau Chỉ, vào thị xã Cao Bằng. Các cán bộ chiến sĩ biên phòng sau khi nổ súng
đánh trận mở màn ở Trạm Kiểm soát Thủy Khẩu, đã quay về đồn tăng cường lực
lượng chiến đấu, ngăn cản không cho bộ binh địch tiếp cận các chiến hào ngoài
cùng.
Một số xe tăng lọt được vào sân bóng, liên tục nã pháo lên các lô cốt, ụ súng
nhưng bị B40 của bộ đội lần lượt tiêu diệt đến chiếc thứ 4. Từ 4 giờ sáng đến 8 giờ
tối ngày 17.2.1979, Chính trị viên Vạn và Chính trị viên phó Ngân Xuân Bình trực
tiếp chỉ huy chiến đấu phòng ngự, mặc dù bị thương nhưng vẫn đến từng cụm – tổ
chiến đấu chỉ thị mục tiêu, động viên bộ đội và các anh ngã xuống ngay cuối giờ
chiều, cùng với 2 chiến sĩ, khi vừa tiêu diệt xong chiếc tăng thứ 4 của quân Trung

Quốc, khiến địch điên cuồng nã pháo trả đũa.
Suốt 1 ngày trời ròng rã, lực lượng của Trung Quốc bị chôn chân bởi hỏa lực
đánh trả mãnh liệt của ĐBP Tà Lùng và khoảng thời gian này, cũng tạo điều kiện
cho lực lượng tiếp ứng của ta cơ động lên từ phía sau. Đêm 17.2.1979, cả ĐBP Tà
Lùng nén nước mắt đưa thi hài 4 liệt sĩ, 8 thương binh, phá vòng vây của 12 chiếc
xe tăng bật đèn pha sáng trưng và hàng ngàn lính của quân đoàn 41 Trung Quốc.
Qua những tấm bia ghi danh 26 liệt sĩ bộ đội biên phòng (BĐBP) Ma Lù
Thàng (Phong Thổ, Lai Châu) đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới
phía Bắc. Qua lời kể của ông Phạm Trục, nguyên Chính trị viên ĐBP Ma Lù Thàng
(giai đoạn 1977 - 1980) hiện đang nghỉ hưu tại Yên Bái, kể: Rạng sáng 17.2.1979,
quân Trung Quốc ồ ạt tấn công vào đồn. Thiếu úy Nguyễn Văn Hiền chỉ huy phân
đội chặn đánh địch ở mũi chính diện, đẩy lùi 15 đợt tấn công liên tiếp, diệt hàng


trăm tên, bắn cháy 2 xe tăng. Trầy trật nửa ngày không chiếm được đồn, quân
Trung Quốc tăng viện ồ ạt tấn công. Thiếu úy Hiền bị thương ở tay nhưng tự băng
bó và tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu. Lần thứ ba, bị thương gãy cả hai chân,
Nguyễn Văn Hiền vẫn không rời vị trí, chỉ huy bộ đội đánh trả quyết liệt. Địch
dùng chiến thuật “biển người” ào lên khiến cơ số đạn cạn kiệt, thiếu úy Hiền lệnh
cho 12 chiến sĩ phá vây, rút về tuyến sau. Một mình anh ở lại, bắn đến viên đạn
cuối cùng ghìm chân địch và anh dũng hy sinh. Ngày 19.12.1979, liệt sĩ Nguyễn
Văn Hiền được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lực vũ trang nhân
dân.
37 năm sau khi bố hy sinh, con trai đầu của liệt sĩ Hiền là Nguyễn Viết Hùng
(sinh năm 1973) đã đi theo nghiệp bố, hiện là thượng úy quân nhân chuyên nghiệp,
Quân y sĩ tại Hải đội 2, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Thanh Hóa, kể với chúng tôi: “Mất
chồng khi mới 28 tuổi, nhưng chưa bao giờ mẹ tôi có ý định đi bước nữa. Mọi
công việc đều mẹ cáng đáng nhưng không kêu ca mà chỉ động viên các con phấn
đấu, xứng đáng với sự hi sinh vì Tổ quốc của bố”. “Tôi là con của người anh hùng,
nhưng cũng thấy hiểu đằng sau danh hiệu đó là mất mát hy sinh, nên phải sống cho

xứng đáng với bố, với Tổ quốc”, thượng úy Hùng nói.
Thiếu tá Ngân Thế Phong (sinh năm 1975), hiện là Phó Tiểu đoàn trưởng
của Tiểu đoàn Huấn luyện – cơ động, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Cao Bằng. Bố của
anh là liệt sĩ Ngân Xuân Bình (dân tộc Tày) hy sinh ngày 17.2.1979 khi đang đeo
quân hàm trung úy, Chính trị viên phó ĐBP Tà Lùng, Cao Bằng. Bố hy sinh khi
vừa tròn 4 tuổi, tháng 3.1994, Ngân Thế Phong đi nghĩa vụ quân sự, đóng quân ở
Tiểu đoàn Huấn luyện - Cơ động. Năm 1995, Phong được cấp trên cho đi học tại
Trường Văn hóa - Ngoại ngữ BĐBP đóng tại Văn Giang Hưng Yên và năm 1997,
được vào học Học viện Biên phòng. Sau 4 năm, thiếu úy Phong ra trường, về công
tác tại ĐBP Lũng Nặm (Hà Quảng, Cao Bằng), ĐBP Đức Long (Thạch An, Cao
Bằng) và năm 2007 về Tiểu đoàn Huấn luyện - Cơ động, giữ chức vụ Đội trưởng
Đặc nhiệm, rồi Phó Tiểu đoàn trưởng. Suốt quãng đời quân ngũ, lúc nào Phong
cũng đau đáu lời dặn của mẹ, trong ngày nhập ngũ: “Trước khi hy sinh, về thăm
nhà, bố chỉ mong con trai khỏe mạnh, cứng cáp để đi theo nghiệp bố, giữ đất đai
cho quê hương, thôn xóm”…
Bài báo đã nhận được 25 nhận xét, phản hồi từ độc giả. Với các ý kiến như:
Chúng ta cần đưa cuộc chiến tranh biên giới phía bắc vào ngày 17/2/1979, vào
sách giáo khoa môn lịch sử để cho các thế hệ học sinh biết rõ ràng. Cùng những lời
cảm ơn báo Thanh Niên đã không quên cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc này. Chúng ta
phải đời đời ghi nhớ và biết ơn những người đã hy sinh... Thật tuyệt vời vì đã quá
lâu rồi khi mà đến ngày 17/2 mới được đọc bài viết về những Anh hùng Liệt sỹ đã
anh dũng hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới phía bắc năm 1979. Mong rằng
các báo vượt qua sự cấm kỵ để viết nhiều hơn nữa về những người đã ngã xuống
nơi biên giới phía bắc. Bài báo đã nhắc nhở chúng ta – những người còn sống,


đang sống trong thời bình đời đời nhớ ơn những người đã ngã xuống khi bảo vệ
từng tấc đất biên cương của tổ quốc.
Qua bài báo, độc giả mong có nhiều hơn những bài báo thắp sáng và vun
đắp tình yêu Tổ quốc như thế này. Rất cảm ơn Ban Biên tập và các phóng viên Báo

Thanh niên.
Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận thông tin - tư tưởng, chính luận là vũ khí
và phương thức không thể thiếu. Nghệ thuật khai thác câu chuyện lịch sử và dùng
ý nghĩa của câu chuyện tạo nên sợi dây (đường link) liên tưởng và so sánh trong
nhận thức của công chúng và DLXH. Ở đây nhà báo - nhà chính luận có kiến thức,
am hiểu lịch sử; vì không hiểu lịch sử thì khó cắt nghĩa được hiện tại và càng
không thể phác thảo ra đường nét tương lai của vấn đề nhận thức. Sự kiện và vấn
đề lịch sử trong mối liên hệ với hiện tại, được nhà chính luận khơi thức, làm sống
lại và dẫn dắt nó theo cách riêng của mình, thu hút công chúng và tạo cho họ
đường link từ quá khứ, đến hiện tại và định hướng tới tương lai.
Qua việc chứng minh tác phẩm báo chí chính luận trong chuyên mục “Tiêu
điểm” của báo Thanh niên bạn đọc có thể thấy tính cấp thiết phải phản ánh tính
hiện thực của cuộc sống xã hội hiện nay, những vấn đề lịch sử xã hội. Chuyên mục
mang phong cách báo chí chính chức năng của ngôn ngữ được hiện thực hóa trong
phong cách chính luận. Phong cách viết trong sáng, sâu sắc, và súc tích… những
bài viết đó mang tính thời sự chính trị xã hội thời đại.
Đặc trưng của phong cách báo chí chính luận trong chuyên mục này là
tuyên truyền, giáo dục, cổ động, tính lập luận chặt chẽ và tính truyền cảm mạnh
mẽ. Phong cách báo chính chí chính luận trong chuyên mục này của báo Thanh
Niên có tính lập luận chặt chẽ. Bởi vì muốn thuyết phục người đọc thi cần phải giải
thích, thuyết minh một cách có lí lẽ, có căn cứ vững chắc, nghĩa là phải dựa trên cơ
sở những luận điểm, luận cứ khoa học. Về điểm này, phong cách báo chí chính
luận của chuyên mục có tính truyền cảm mạnh mẻ, diễn đạt sinh động, có sức hấp
dẫn và đạt hiệu quả cao, thuyết phục cả bằng lí trí, tình cảm, và đạo đức...
Đối tượng tiếp nhận báo chí chính luận đông đảo về số lượng và đa dạng về
trình độ. Vì vậy, ngôn ngữ phong cách báo chí chính luận trong chuyên mục giản
dị, rõ ràng, chính xác, có khả năng diễn đạt dễ hiểu.
Chuyên mục “Tiêu điểm” của báo Thanh Niên đang được nhiều độc giả
quan tâm theo sát từng sự kiện hàng ngày của báo. Chuyên mục trong một thời
gian phát triển đã có nhiều phong cách viết nội dung mới mẻ chuyền tải đến bạn

đọc những vấn đề cấp thiết của cuộc sống, những vấn đề mang tính thời sự cần
phải phản ánh để mọi người có cái nhìn tổng quát về xã hội hiện tại rút ra nhũng
điều mới mẻ, khắc phục những mặt hạn chế trong cuộc sống để xây dựng đất nước
Việt Nam ngày càng giàu đẹp và văn minh hơn.


Tóm tắt diễn biến chính Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979
Rạng sáng ngày 17/2/1979, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã điều động một
lượng lớn quân đội và vũ khí hiện đại nhất mà họ có lúc đó tấn công vào 6 tỉnh
biên giới phía bắc nước ta.
TQ đã huy động 60 vạn quân (chưa kể dân công hỏa tuyến phục vụ), tấn
công trên toàn tuyến biên giới từ Quảng Ninh đến Phong Thổ dài trên 1.000 km,
tập trung vào 3 khu vực Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai với Lào Cai là trọng điểm.
Ngoài ra TQ còn mang theo mấy trăm máy bay, và một số tàu chiến thuộc hạm đội
Nam hải sẵn sàng tham chiến khi cần thiết.
Thời gian tấn công: Cuộc tấn công của TQ vào lãnh thổ VN bắt đầu từ
ngày 17/2/1979 và kết thúc ngày 16/3/1979, có thể chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn
tấn công và giai đoạn rút lui.
Giai đoạn tấn công: thời gian 17 ngày (từ 17/2 đến 5/3/1979):
Ngày 17/2-19/2: Quân đội TQ đột kích trên toàn tuyến biên giới dài trên
1.000 km chiếm một số vị trí tiền duyên của ta.
Ngày 20/2: Chiếm thị xã Lào Cai, thị trấn Đồng Đăng.
Ngày 21/2: Chiếm thị xã Cao Bằng
Ngày 22/2: Chiếm thị trấn Bảo Lộc
Ngày 23/2: Chiếm thị xã Hà Giang
Ngày 24/2: Chiếm thị trấn Cam Đường
Các ngày sau đó 2 bên đánh nhau dữ dội tại vùng gần Lạng Sơn, Sapa. Ngày
5/3 TQ chiếm Sapa và một phần thị xã Lạng Sơn.
Ngay trong ngày hôm đó (5/3), TQ tuyên bố đã đạt mục đích, bắt đầu rút
quân khỏi VN. VN tuyên bố tổng động viên toàn quốc. Một sư đoàn chính quy VN

điều từ Campuchia và Lào đã về tới sát mặt trận. Liên Xô bắt đầu tăng quân tới
biên giới Trung Xô.
Giai đoạn rút lui: thời gian 10 ngày (từ 6/3 đến 16/3/1979):
Kể từ lúc quân đội TQ rút lui, bộ đôi VN không tấn công, truy kích địch.
-Quân TQ bắt đầu rút khỏi một phần của thị xã Lạng Sơn từ 5/3, đến 12/3 rút
hết khỏi Đồng Đăng.
-Bắt đầu rút khỏi vùng Lào Cai từ 7/3 đến 13/3 thì rút hết
-Bắt đầu rút khỏi vùng Cao Bằng từ 7/3, đến 14/3 thì rút hết.
Ngày 16/3/1979 TQ tuyên bố hoàn thành việc rút quân, chiến tranh kết thúc.


Câu 4
Trên cơ sở chọn vấn đề phân tích, chọn viết một bài bình luận (tự chọn) từ
các vấn đề trên để phân tích, kế thừa.
TĂNG LƯƠNG TỐI THIỂU VÙNG - TIN BUỒN CHO NGƯỜI LAO
ĐỘNG?
Có rất nhiều công nhân ở các khu công nghiệp phải cùng nhau thuê trọ một
phòng rộng chưa đầy 12 m2 nhằm tiết kiệm chi phí; hoặc đứng ăn trưa dưới băng
chuyền là những điều diễn ra hằng ngày. Chuyện làm thêm giờ như một thói quen
cuộc sống, bởi với mức lương từ 2 - 3 triệu đồng/tháng làm sao có thể đủ chi tiêu
cơm, cà mắm muối; đặc biệt với những đôi vợ chồng trẻ cùng một con nhỏ khiến
cuộc sống càng trở nên nheo nhóc với bộn bề lo toan…
Một tin vui đến với người lao động khi mà mới đây Chính phủ vừa ban hành
Nghị định số 122/2015/NĐ-CP, áp dụng từ 1/1/2016 quy định mức lương tối thiểu
vùng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, liên hiệp hợp tác xã, hợp tác
xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có sử dụng
lao động theo hợp đồng lao động.
Mức lương tối thiểu vùng từ 2.400.000 đến 3.500.000 đồng/tháng đối với
người lao động làm việc ở doanh nghiệp, liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã, tổ hợp
tác xã, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động.

Cụ thể, Vùng 1 là 3,5 triệu đồng/tháng (tăng 400.000 đồng so với năm 2015). vùng
2 là 3,1 triệu đồng/tháng, (tăng 350.000 đồng ), vùng 3 là 2,7 triệu đồng/tháng
(tăng 300.000 đồng), vùng 4 là 2,4 triệu đồng/tháng (tăng 250.000 đồng ). Mức
lương tối thiểu vùng mới cao hơn mức lương hiện nay khoảng 250.000 - 400.000
đồng/tháng, tăng trung bình khoảng 12,4%.
Để có được mức tăng này, Hội đồng tiền lương Quốc gia đã phải trải qua 3
cuộc họp mới đi đến được thống nhất. Trong lần họp đầu tiên, phương án tăng
lương tối thiểu vùng năm 2016 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam gửi Hội
đồng tiền lương Quốc gia có mức tăng từ 16 - 17% so với năm 2015, tăng từ
350.000 - 550.000 đồng/mức. Việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu năm 2016 lên
14,4% để thực hiện nghiêm túc quy định của luật, đảm bảo đến năm 2017 tiền
lương tối thiểu đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động.
Tăng lương tối thiểu, mới nghe có vẻ vui, nhưng lại là tin buồn cho không
chỉ lao động mà cả những người đang chưa có việc làm, hay những sinh viên sắp ra
trường.
Thực tế cho thấy, mức lương tối thiểu vùng mới cao hơn mức lương hiện
nay từ 250.000 - 400.000 đồng mỗi tháng, tương ứng với mức tăng trung bình
12,4% so với năm 2015. Với con số này, Chính phủ dự tính mức lương mới sẽ đáp
ứng được 80% nhu cầu sống tối thiểu của người lao động.
Việc tăng lương tối thiểu hàng năm để tiệm cận với mức sống hiện nay thoạt
nghe có vẻ như là một chính sách bảo vệ tốt cho người lao động, nhưng sự thực lại


không hẳn như vậy. Nguyên nhân là bởi không có nhiều doanh nghiệp trả lương
cho nhân viên ở mức 3,5 triệu đồng/tháng. Nếu lao động có mức lương thực nhận
trên 3,5 triệu đồng, họ sẽ không nhận thấy sự thay đổi nào. Tuy nhiên, góc độ của
doanh nghiệp sẽ là hoàn toàn khác.
Hiện tại, với mức chi trả cho các khoản bảo hiểm dành cho người lao động
hằng năm là 32,5% tiền lương (trong đó doanh nghiệp đóng 22%, người lao động
đóng 10,5%). Để giảm mức bảo hiểm phải đóng, tất cả các doanh nghiệp trong

nước hiện đều chọn cách đóng tiền bảo hiểm theo mức lương tối thiểu lao động,
hoặc cao hơn một chút, thay vì đóng theo mức lương thực nhận. Có thể tính toán
sơ bộ, một doanh nghiệp trả cho người lao động 10 triệu đồng/tháng, thì số tiền bảo
hiểm sẽ không dựa trên con số 10 triệu này, mà sẽ dựa trên mức lương tối thiểu
(3,1 triệu đồng). Việc đóng tiền bảo hiểm theo mức lương tối thiểu giúp giảm gánh
nặng cho doanh nghiệp và có thể trả lương cho nhân viên cao lên.
Khi mức lương tối thiểu tăng từ 3,1 triệu đồng lên 3,5 triệu đồng, doanh
nghiệp sẽ phải đóng các khoản hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
dựa trên mức lương tối thiểu mới là 3,5 triệu đồng. Như vậy, tổng số tiền chi trả
bảo hiểm cho người lao động của công ty sẽ tăng lên một khoản tương ứng với
mức trung bình tăng lương cơ bản là 12,4%.
Chính sách tăng lương tối thiểu, đứng nhìn từ khía cạnh này, không hỗ trợ
cho người lao động mà là câu chuyện giữa Chính phủ và doanh nghiệp. Trong khi
lương lao động không tăng, doanh nghiệp phải thêm 12,4% tổng quỹ bảo hiểm và
Nhà nước nhận thêm một khoản tiền tương ứng.
Câu hỏi đặt ra người lao động được lợi gì? Có thể lương hưu của họ sẽ tăng,
nhưng đó là câu chuyện của hai, ba chục năm nữa. Còn hiện tại, với những người
có mức lương trên mức tối thiểu, người lao động sẽ không được lợi gì về mặt thu
nhập. Thậm chí, lương của họ còn có nguy cơ bị ảnh hưởng khi doanh nghiệp chọn
cách trích thu nhập thực của họ ra để chi trả cho bảo hiểm. Hoặc thậm chí một số
doanh nghiệp không đủ khả năng chi trả có thể tính tới việc sa thải bớt nhân viên,
cắt giảm lương hoặc không tuyển dụng thêm nhân sự mới.
Khi gánh nặng đè lên vai doanh nghiệp, đương nhiên họ sẽ tìm cách để "san
sẻ" sang cho người khác. Tăng lương tối thiểu, thoạt nghe có vẻ vui, nhưng lại là
tin buồn cho không chỉ lao động mà cả những người đang chưa có việc làm, những
sinh viên sắp ra trường,...
Cũng có thể nhìn nhận câu chuyện tăng lương tối thiểu theo hướng tích cực
hơn. Đó là các doanh nghiệp trả lương quá thấp (dưới mức lương tối thiểu) sẽ buộc
phải tăng cho người lao động của mình. Thêm vào đó, trong tương lai xa, khi
lương tối thiệu thực sự tiệm cận mức sinh sống của người dân và doanh nghiệp đủ

sức chi trả khoản tiền này, người lao động có thể được hưởng lợi lớn khi phúc lợi
xã hội tăng.


Tuy nhiên, trong bối cảnh sự chênh lệch giữa lương tối thiểu và thu nhập
thực còn đáng kể như hiện nay, sẽ hợp lý hơn khi coi động thái tăng lương tối thiểu
qua các năm là một hình thức để tăng thu cho ngân sách Chính phủ.
Nhìn ở khía cạnh tiền lương là nguồn chủ yếu để tái sản xuất sức lao động,
là động lực kinh tế thúc đẩy người lao động quan tâm đến công việc của họ. Nhưng
trên thực tế thì tiền lương của người lao động có được tăng hay không lại phụ
thuộc chính vào năng suất và chất lượng của người lao động.
Các chuyên gia về tiền lương của ILO cho rằng, chỉ khi năng suất lao động
cao thì mới có thể tăng lương. Đại diện cho người lao động (Tổng liên đoàn Lao
động Việt Nam) lý luận phải cho người lao động ăn đủ năng lượng để làm việc, sau
đó mới yêu cầu làm việc năng suất cao. Nói cách khác, khi nào trả lương tối thiểu
đủ sống thì mới có thể bàn đến chuyện năng suất lao động.
Thực tế tại các doanh nghiệp, đơn vị cho thấy, một trong những yếu tố để
tăng lương là cần phải tăng năng suất lao động. Muốn tăng năng suất lao động thì
cần phải chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển đổi từ nền kinh tế có tiền lương thấp
sang nền kinh tế có năng suất lao động cao, thu nhập cao.
Như vậy, có thể khẳng định chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định
trong tăng năng suất lao động. Chính vì vậy, Nhà nước cần có chính sách để đẩy
mạnh tái cơ cấu nền kinh tế; chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ mô hình chỉ dựa
vào vốn và nhân lực (giá rẻ) chuyển sang mô hình đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ
năng của người lao động.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính luận báo chí, Trần Thế Phiệt, NXB lý luận Chính trị (tái bản năm 2012)
2. Báo chí và DLXH, PGS. TS. Nguyễn Văn Dững, NXBLĐ năm 2012

3. Hoàng Tùng – Nhà báo chính luận xuất sắc – PGS. TS. Nguyễn Văn Dững



×