Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

THỰC TRẠNG dạy học NGỮ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 126 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

ISO 9001:2008

NGUYỄN TÀI ĐỨC

KHẢO SÁT THỰC TRẠNG
DẠY HỌC NGỮ VĂN THCS
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI (VNEN)
Ở TRÀ VINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC BỘ MÔN NGỮ VĂN

TRÀ VINH, NĂM 2017


ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

NGUYỄN TÀI ĐỨC

KHẢO SÁT THỰC TRẠNG
DẠY HỌC NGỮ VĂN THCS
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI (VNEN)
Ở TRÀ VINH

Ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN
NGỮ VĂN
Mã ngành: 60140111


LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THANH BÌNH

TRÀ VINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Trà Vinh, ngày ... tháng ... năm 2017

Nguyễn Tài Đức

i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Trần Thanh Bình trong suốt thời gian
qua đã nhiệt tình, tận tâm chỉ dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trường Đại Học Trà Vinh đã tận tâm hướng
dẫn và giảng dạy chúng tôi suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ,
Phòng Đào tạo Sau đại học - trường Đại học Trà Vinh; Các cấp lãnh đạo, các Phòng
Giáo Dục và Đào tạo của các huyện thị xã trong tỉnh Trà Vinh; Ban giám hiệu, quý
Thầy, Cô, học sinh trường THCS dạy học theo mô hình VNEN trong tỉnh Trà Vinh; Gia
đình và bạn bè, đồng nghiệp…đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình làm luận văn.


ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan .................................................................................................................... i
Lời cảm ơn ...................................................................................................................... ii
Danh mục ký hiệu, chữ viết tắt ...................................................................................... vi
Danh mục các bảng ....................................................................................................... vii
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 6
6. Ý nghĩa khoa học ..................................................................................................... 7
7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ......................................................... 8
1.1. LÝ THUYẾT VỀ MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI ...................................... 8
1.1.1. Mô hình Trường học mới ở Colombia (EN) .................................................. 8
1.1.1.1. Lịch sử hình thành ................................................................................... 8
1.1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của mô hình trường học mới ở Colombia ........ 9
1.1.1.3. Những ưu việt và bất cập của mô hình Trường học mới Colombia ........ 9
1.1.2. Mô hình Trường học mới ở Việt Nam (VNEN) .......................................... 11
1.1.2.1. Lịch sử hình thành ................................................................................. 11
1.1.2.2. Chủ thể và đặc trưng của mô hình VNEN.............................................. 12
1.1.2.3. Sự khác nhau giữa mô hình EN và mô hình VNEN ............................... 13
1.1.2.4. Một số khác biệt cụ thể giữa dạy học theo mô hình VNEN và dạy học theo
mô hình nhà trường truyền thống ....................................................................... 14
1.1.3. Quan điểm xây dựng chương trình Ngữ văn 6 của mô hình VNEN ............ 16
1.1.3.1. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện mô hình VNEN cấp THCS ................ 16

1.1.3.2. Quan điểm xây dựng sách Hướng dẫn học Ngữ văn 6 của mô hình VNEN 16
1.2. QUY TRÌNH DẠY HỌC NGỮ VĂN 6 THEO MÔ HÌNH VNEN .............. 18
1.2.1. Cách thức tổ chức lớp học theo mô hình vnen ............................................. 18
1.2.2. Các hoạt động dạy học theo mô hình VNEN ............................................... 19
iii


1.2.2.1. Hoạt động khởi động.............................................................................. 19
1.2.2.2. Hoạt động hình thành kiến thức............................................................. 20
1.2.2.3. Hoạt động luyện tập ............................................................................... 20
1.2.2.4. Hoạt động vận dụng ............................................................................... 20
1.2.2.5. Hoạt động tìm tòi, mở rộng .................................................................... 20
1.2.3. Cách thức tiến hành dạy học ngữ văn theo mô hình VNEN ........................ 21
1.2.3.1. Chuẩn bị của giáo viên .......................................................................... 21
1.2.3.2 Chuẩn bị của học sinh............................................................................. 23
1.2.4. Các bước tiến hành giờ dạy .......................................................................... 24
1.2.5. Cách đánh giá HS theo mô hình VNEN ....................................................... 25
1.2.5.1. Mục đích đánh giá ................................................................................. 25
1.2.5.2. Nguyên tắc đánh giá .............................................................................. 25
1.2.5.3. Nội dung đánh giá .................................................................................. 26
1.2.6. Đánh giá giáo viên theo mô hình VNEN ..................................................... 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DẠY – HỌC NGỮ VĂN THEO MÔ HÌNH VNEN
Ở TRÀ VINH ............................................................................................................... 34
2.1. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG ........................................................................... 34
2.1.1. Mô tả phương pháp và cách thức khảo sát ................................................... 34
2.1.1.1. Mục đích khảo sát .................................................................................. 34
2.1.1.2. Nội dung khảo sát .................................................................................. 34
2.1.1.3. Đối tượng và phạm vi khảo sát .............................................................. 34
2.1.1.4. Công cụ và hình thức khảo sát ............................................................... 35
2.1.1.5. Thời gian khảo sát.................................................................................. 35

2.1.2. Trình bày kết khảo sát .................................................................................. 35
2.1.2.1. Mức độ GV am hiểu về mô hình VNEN ................................................. 35
2.1.2.2. Nhận xét, đánh giá của GV về chương trình và sách HDH Ngữ văn 6 theo
mô hình VNEN .................................................................................................... 41
2.1.2.3. Nhận xét của HS về mô hình trường học mới, về chương trình và sách
HDH Ngữ văn 6 theo mô hình VNEN ................................................................. 46
2.1.3. Đánh giá tình hình dạy học Ngữ văn 6 theo mô hình VNEN ở Trà Vinh .... 49
2.2.3.1. Ưu điểm .................................................................................................. 49
2.1.3.2. Hạn chế .................................................................................................. 50
iv


2.2. SO SÁNH CHƯƠNG TRÌNH, SGK NGỮ VĂN 6 HIỆN HÀNH VỚI
CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH HDH NGỮ VĂN 6 VNEN ........................................ 53
2.2.1. Các tiêu chí so sánh ...................................................................................... 53
2.2.1.1. Tên bài học ............................................................................................. 53
2.2.1.2. Các đơn vị kiến thức về văn bản ............................................................ 58
2.2.1.3. Các đơn vị kiến thức về Tiếng Việt ........................................................ 62
2.2.1.4. Các đơn vị kiến thức về Làm văn ........................................................... 64
2.2.1.5. Cấu trúc bài học..................................................................................... 67
2.2.2. Nhận xét về chương trình, sách HDH Ngữ văn 6 ........................................ 68
2.2.2.1. Ưu điểm .................................................................................................. 68
2.2.2.2. Hạn chế .................................................................................................. 68
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN DẠY HỌC NGỮ
VĂN 6 THEO MÔ HÌNH VNEN Ở TRÀ VINH...................................................... 77
3.1. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT.......................................................................................... 77
3.2. GIẢI PHÁP THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ..................................................... 79
3.2.1. Mục đích thực nghiệm .................................................................................. 79
3.2.2. Phạm vi và đối tượng thực nghiệm .............................................................. 79
3.2.3. Thời gian thực nghiệm ................................................................................. 80

3.2.4. Nội dung thực nghiệm .................................................................................. 80
3.2.5. Phân tích kết quả thực nghiệm ..................................................................... 89
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 95
PHỤ LỤC

v


DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
CBQL:

Cán bộ quản lý

EN:

Trường học kiểu mới

GD&ĐT:

Giáo dục và Đào tạo

GPE – VNEN:

Dự án mô hình trường học mới

GV:

Giáo viên


HS:

Học sinh

HDH:

Hướng dẫn học

HĐTQ:

Hội đồng tự quản

SGK:

Sách giáo khoa

SHCM:

Sinh hoạt chuyên môn

THCS:

Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông

VNEN:


Trường học mới tại Việt Nam

vi


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Bảng 1.1
Bảng 1.2

Tên bảng
So sánh một số điểm khác nhau giữa Mô hình nhà trường truyền
thống và Mô hình trường học mới VNEN
So sánh tiến trình dạy học truyền thống và Tiến trình dạy học
theo mô hình VNEN

Trang
15

24

Bảng 1.3

Phiếu đánh giá giờ dạy môn học

32

Bảng 2.1

Ý kiến của GV nhận xét mức độ hiểu biết về mô hình trường

học mới VNEN
Ý kiến của GV nhận xét về chương trình và sách HDH Ngữ văn

36

Bảng 2.2

6 theo mô hình trường học mới VNEN

42

Ý kiến của học sinh nhận xét về mô hình trường học mới, về
Bảng 2.3

chương trình và sách HDH Ngữ văn 6 theo mô hình trường học

47

mới VNEN
Bảng 2.4

So sánh tên bài học SGK Ngữ văn 6 hiện hành với sách HDH
Ngữ văn 6 VNEN

Bảng 2.5

So sánh các đơn vị kiến thức về văn bản SGK Ngữ văn 6 hiện
hành với sách HDH Ngữ văn 6 VNEN

Bảng 2.6


So sánh các đơn vị kiến thức về Tiếng Việt SGK Ngữ văn 6
hiện hành với sách HDH Ngữ văn 6 VNEN

Bảng 2.7

So sánh các đơn vị kiến thức về Làm văn trong SGK Ngữ văn
6 hiện hành với sách HDH Ngữ văn 6 VNEN

Bảng 2.8

So sánh cấu trúc bài học trong SGK Ngữ văn 6 hiện hành với
sách HDH Ngữ văn 6 VNEN

Bảng 2.9

Mô tả những nội dung được tô màu và không được tô màu nền
chữ có sự chưa thống nhất trong sách HDH Ngữ văn 6

vii

53

58

62

64

67


69


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mô hình trường học kiểu mới Escuela Nueva (EN) khởi nguồn ở Colombia từ
năm 1975, bắt đầu từ một sáng kiến đổi mới giáo dục của địa phương, sau phát triển lên
thành chính sách quốc gia. Mô hình này lúc đầu chỉ áp dụng ở vùng nông thôn cho lớp
ghép, sau mở rộng cho khu vực thành thị, cho tất cả các lớp đơn ở tất cả các cấp học và
được ghi nhận trong Luật Giáo dục của Colombia. [25, tr17-18]. Mô hình EN vừa kế
thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn
bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy – học,
cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy – học… Đây
cũng được coi là một trong những mô hình giáo dục sáng tạo nhất của thế kỷ XXI. [54]
Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) là dự án được phát triển
từ mô hình EN của Colombia nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường
tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam;
được hỗ trợ từ Ngân hàng Thế giới và Quỹ Hợp tác Giáo dục Toàn cầu. Sau một năm
thực hiện thí điểm ở 6 tỉnh miền núi khó khăn của Việt Nam, ngày 03/10/2012 Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) ra Quyết định số 4106/QĐ-BGDĐT về việc phê
duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án mô hình trường học mới tại Việt Nam (GPE –
VNEN). Từ năm học 2012 – 2013, Bộ GD&ĐT đã cho phép áp dụng rộng rãi mô hình
VNEN tại hàng ngàn trường Tiểu học trên nhiều địa bàn tỉnh, thành phố. Đến năm học
2015 – 2016, mô hình VNEN tiếp tục được triển khai thực hiện ở hơn 1000 trường
THCS.
Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục phổ thông nói chung (đặc biệt là giáo dục tiểu
học nói riêng) đang tồn tại 4 mô hình trường học cơ bản: mô hình trường học truyền
thống, mô hình trường học mới (VNEN), mô hình trường học quốc tế của các trường
học tư thục có yếu tố nước ngoài và mô hình trường học theo Công nghệ giáo dục [57].

Ngoài ra, theo Đề án đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông của Bộ GD&ĐT
(2014), sau năm 2018, chương trình giáo dục phổ thông sẽ đổi mới căn bản, toàn diện
hướng tới mục tiêu tiếp cận đầu ra, hay còn gọi giáo dục định hướng kết quả, định hướng
đầu ra năng lực [19]. Theo nhiều chuyên gia, mô hình VNEN là sự chuyển đổi từ mô
hình truyền thống, được xây dựng và phát triển dựa trên quan điểm giáo dục định hướng
1


năng lực người học, coi trọng giáo dục lấy người học làm trung tâm, tức là phù hợp quan
điểm với mô hình Đề án; do vậy mô hình VNEN có thể được xem là bước thí điểm, khởi
đầu cho việc triển khai chương trình giáo dục sau 2018.
Ở Trà Vinh, theo báo cáo tại Hội nghị tổng kết năm học 2015 – 2016 Sở GD&ĐT
Trà Vinh cho biết, năm học vừa qua Trà Vinh có 26 trường THCS đăng ký dạy học theo
mô hình VNEN (bao gồm 76 lớp 6, 2.306 HS tham gia học), cuối năm có 2.070/2.306
em được đánh giá đạt chuẩn năng lực, chiếm tỉ lệ 89,76 %. Tuy nhiên, cũng như nhiều
địa phương khác, hiện nay ngành Giáo dục Trà Vinh đang đứng trước tình thế khó khăn
khi tiếp tục triển khai mô hình VNEN trong bối cảnh có nhiều ý kiến đánh giá trái chiều;
nhất là từ cuối năm 2016, dự án VNEN đã kết thúc sau 3 năm hoạt động. Nghiên cứu,
tìm hiểu những vấn đề về thực trạng dạy học theo mô hình VNEN trong thời điểm hiện
tại cũng là một nhiệm vụ cần thiết.
Trong chương trình giáo dục phổ thông, Ngữ văn được xem là một môn học cốt
lõi có nhiệm vụ bồi dưỡng cho HS những phẩm chất chủ yếu, đặc biệt là tinh thần yêu
nước, lòng nhân ái, tính trung thực và ý thức trách nhiệm; hình thành, phát triển cho HS
các năng lực chung và năng lực chuyên môn như năng lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mỹ,
năng lực tìm hiểu xã hội… Khảo sát thực trạng dạy học Ngữ văn là một phần quan trọng
của khảo sát chương trình dạy học; kết quả dạy học Ngữ văn là một chỉ số quan trọng
để đánh giá hiệu quả chương trình. Do vậy, tiếp cận mô hình VNEN từ góc độ của môn
Ngữ văn được xem là một cách tiếp cận hợp lí.
Xuất phát từ những lí do vừa nêu, chúng tôi xây dựng đề tài Khảo sát thực trạng
dạy học Ngữ văn THCS theo mô hình trường học mới (VNEN) ở Trà Vinh, mong góp

một phần rất khiêm tốn vào việc tìm hiểu rõ hơn quan điểm dạy học theo mô hình VNEN
và kì vọng rằng: đề tài sẽ có đóng góp thiết thực vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả
dạy học Ngữ văn THCS nói chung và dạy học Ngữ văn 6 theo mô hình VNEN ở Trà
Vinh nói riêng.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Những công trình viết về mô hình Trường học mới (EN và VNEN)
Theo Truyền thông VNEN, chỉ tính thời gian từ khi Dự án Mô hình trường học
mới tại Việt Nam chính thức bắt đầu (tháng1/2013) cho đến khi kết thúc (tháng 5/2016),
Dự án đã tổ chức 63 cuộc hội thảo, tập huấn với 168.052 người tham gia ở nhiều cấp
khác nhau; in ấn 106 đầu sách gồm nhiều tài liệu hướng dẫn học, tài liệu tập huấn, tài
2


liệu phương pháp dạy học, sổ tay hướng dẫn GV, sổ tay hướng dẫn CBQL, đĩa video
dạy học; 143 tác giả bao gồm các chuyên gia, các nhà khoa học và giáo viên tham gia
phát triển chương trình, biên soạn tài liệu; cung cấp 1.592 bộ thiết bị dạy học cho 1447
trường v.v. Như vậy, số lượng tài liệu nghiên cứu liên quan đến hai mô hình EN và
VNEN là rất lớn.
Ngay từ năm 2010, PGS. TS Đỗ Tiến Đạt trong bài “Mô hình trường học mới
Escuela Nueva ở Colombia và khả năng vận dụng trong Giáo dục Tiểu học tại Việt
Nam” [25] đã giới thiệu khái quát lịch sử hình thành Escuela Nueva (EN), phân tích
những thành tựu chủ yếu và một số đặc điểm cơ bản của mô hình EN, đồng thời đưa ra
những đề xuất thiết kế mô hình tổ chức lớp học VNEN của cấp Tiểu học.
Trong công trình Tổ chức dạy học theo mô hình trường học mới tại Việt Nam
[43], nhóm tác giả đã hệ thống hoá tương đối toàn diện, đầy đủ cơ sở lí luận, cơ sở thực
tiễn của mô hình EN và VNEN, chia sẻ những suy nghĩ về mô hình Trường học mới tại
Việt Nam và xác lập quy trình, cách thức tổ chức lớp học theo mô hình VNEN. Tuy
nhiên sách mới dừng lại ở mô hình VNEN ở cấp Tiểu học, chưa đề cập đến những dự
kiến sẽ phát triển ở cấp THCS.
Như đã nói ở trên, xung quanh mô hình VNEN hiện đang có rất nhiều ý kiến

đánh giá trái chiều. Đơn cử:
Ở phía thứ nhất: Phát biểu tại Hội nghị Tổng kết Dự án mô hình trường học mới
VNEN (tháng 5/2016), Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển khẳng định: Dự án
VNEN triển khai trong một thời gian ngắn, nhưng đã đạt được kết quả rất tốt, tạo bước
chuyển quan trọng về nhận thức và cách thức thực hiện mục tiêu giáo dục là nhằm phát
triển phẩm chất và năng lực HS. [53]
Trong bài Cần có một bộ SGK mới theo định hướng mô hình VNEN [57], tác
giả Đặng Tự Ân cho rằng: “Nội dung của mô hình này, nhất là về mặt sư phạm, dựa
trên cơ sở tích hợp thành quả thực tiễn giáo dục của Việt Nam qua 20 năm đổi mới
gần đây; và có sự cộng hưởng từ nhiều kết quả thí điểm của các Chương trình, Dự
án. Đặc biệt, mô hình này đã lồng ghép Phương pháp bàn tay nặn bột (Viện hàn lâm
Pháp), dạy học Mỹ thuật (Đại sứ quán Đan Mạch tại Hà Nội), Tổ chức sinh hoạt
chuyên môn (Tổ chức JICA của Nhật Bản)... thành các nội dung hoạt động chính của
mô hình”; “Mô hình VNEN là một cách tiếp cận, một thể hiện bước đầu cho đổi mới
căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam”.
3


TS. Phạm Ngọc Định - Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học cũng khẳng
định: mô hình VNEN dựa vào cơ sở khoa học các môn học, đặc biệt là các thành tựu
khoa học giáo dục nổi trội như: thuyết kiến tạo; thuyết tâm lý học phát triển của Piaget,
lý luận về “vùng phát triển gần nhất” của Vưgotsky; thuyết đa trí tuệ của Howard
Gardner [49]. Và sau 4 năm triển khai, dự án VNEN đã tập trung đổi mới đồng bộ
nhiều mặt của giáo dục như: đổi mới phương pháp dạy - học; đổi mới về tổ chức và
không gian lớp học; đổi mới về đánh giá HS; đổi mới về cách thức huy động; đổi mới
SHCM; đổi mới các hoạt động quản lý nhà trường…
Ở phía ngược lại, PGS.TS Hoàng Thị Tuyết đã phân tích “4 khác biệt của mô hình
trường học mới ở Colombia và Việt Nam” [65]; và từ 4 khác biệt đó, tác giả đưa ra những
băn khoăn rất đáng để tiếp tục suy ngẫm; chẳng hạn: “Vì sao VNEN không thực hiện đúng
như tinh thần mô hình Trường học mới Columbia? Ví dụ mô hình trường học lớp ghép

dành cho các vùng nông thôn? Việc áp dụng VNEN vào cả những trường ở thành phố như
Lào Cai, Vị Thanh, TP HCM… đã được nghiên cứu thực nghiệm nhằm kiểm chứng tính
chất và phạm vi khả thi của nó chưa?”; hoặc “Liệu với các Tài liệu hướng dẫn học chứa
đựng ngữ liệu và cấu trúc tổ chức học tập kiểu cố định, thống nhất do các chuyên gia biên
soạn sẵn như hiện nay của VNEN có thể làm cho năng lực chuyên môn và động lực phát
triển chuyên môn của đội ngũ giáo viên bị giảm sút? Liệu với kiểu tài liệu dạy học kiểu ăn
sẵn, ăn liền và gần như không phải tư duy, xem xét gì nhiều trước khi giảng dạy này có dẫn
đến một hệ lụy mà nhiều nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định là tạo nên những thế hệ
thợ dạy/ kỹ thuật viên dạy học hơn là những người thầy có khả năng áp dụng linh hoạt kiến
thức, kinh nghiệm vào những tình huống dạy học cụ thể trong sự tự chủ, tự tin và tự trọng
chuyên nghiệp?”
Ngoài ra, trên các phương tiện thông tin đại chúng, có không ít ý kiến đánh giá
về VNEN mang tính chất phủ định, thậm chí bác bỏ. Chẳng hạn:
Trao đổi với báo Giáo dục Việt Nam, PGS.TS Văn Như Cương tỏ ra băn khoăn
và ái ngại nhiều điều: “VNEN là gì nếu chúng ta làm chỉ để tiêu hàng chục triệu USD?
[...] Với điều kiện cơ sở vật chất như ở Việt Nam hiện tại, muốn thực hiện được mô hình
VNEN thì mỗi lớp phải kê bàn ghế thành 6 “mâm”, mỗi “mâm” 6-7 người, các em không
chỉ cứ cúi xuống để “ăn” mà phải vẹo đầu nhìn lên bảng do vị trí và ngồi không phải
ghế xoay”. Cũng theo ông: “VNEN đã dập khuân một cách máy móc (từ cách ngồi học,
lớp trưởng, bầu bán lớp trưởng đều có quy trình), tôi không hiểu những điều đó để làm
4


gì. Tôi suy nghĩ không biết có đúng không nhưng chúng ta phải làm như vậy để được
lĩnh tiền? Như thế thì vô lí quá.” [58]
Trên ngày 14/08/2016, nhiều phụ huynh học sinh ở
Quảng Trị và Quảng Bình Sẽ cho con nghỉ học nếu tiếp tục dạy học kiểu VNEN. Họ
cho rằng từ khi áp dụng mô hình trên vào thực tiễn thì sức học của các em bị giảm
sút, ý thức học tập của các em cũng không cao, đây là mô hình không hiệu quả và
nhiều bất cập. [55]

Trên trang báo Dân Việt ngày 14/4/2016 đăng bài “6 lý do giáo viên “nói không”
với mô hình trường học mới VNEN”; đây là tâm thư của một GV tại Cao Bằng gửi kiến
nghị bỏ mô hình VNEN vì các lý do: sách HDH VNEN không khoa học, bất cập về chỗ
ngồi và sĩ số, HĐTQ không hiệu quả, quá nhiều trang trí, trình độ HS không đồng đều,
GV diễn nhiều hơn dạy [50]…
Tại Công văn số 4068 ngày 18/8/2016 gửi Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc T.Ư về triển khai VNEN, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ một mặt khẳng
định: sau 3 năm thử nghiệm, mô hình giúp tạo môi trường giáo dục thân thiện, dân chủ
trong nhà trường và lớp học; HS tích cực, tự lực, tự quản trong học tập; mối liên hệ giữa
nhà trường với cha mẹ HS và cộng đồng được tăng cường; mặt khác cũng thừa nhận:
mô hình chưa thực sự phù hợp với nhiều địa phương còn gặp khó khăn; một số nơi chưa
nhận thức đầy đủ về mô hình và điều kiện áp dụng; CBQL và GV chưa được chuẩn bị
chu đáo; việc triển khai còn nóng vội… Từ đó, Bộ GD&ĐT đề xuất phương án triển
khai VNEN trong năm học 2016-2017: khuyến khích các trường triển khai VNEN trên
cơ sở tự nguyện; đối với các cơ sở giáo dục không áp dụng VNEN, có thể lựa chọn một
số thành tố tích cực của nó để đổi mới phương pháp..
Dù có khá nhiều tài liệu viết về mô hình VNEN, nhiều ý kiến trái chiều nhau
trong việc tổ chức thực hiện mô hình này nhưng theo tìm hiểu, nghiên cứu của chúng
tôi cho đến nay ở các cơ sở đào tạo khác chưa có công trình nghiên cứu nào theo hướng
đề tài này.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Đề tài này thực hiện nhằm mục đích và nhiệm vụ sau:
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ những cơ sở lý thuyết về mô hình trường học mới, từ thực trạng dạy học theo
mô hình VNEN ở cấp Tiểu học và khảo sát chương trình, thực tiễn dạy học Ngữ văn 6
5


theo mô hình VNEN cấp THCS nói chung và ở Trà Vinh nói riêng, chúng tôi muốn tìm
hiểu và phân tích kĩ hơn việc dạy học Ngữ văn 6 theo mô hình VNEN; từ đó bước đầu

góp phần đưa việc dạy học Ngữ văn 6 tiếp cận định hướng dạy học phát triển năng lực
HS sau năm 2018.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Xác định hệ thống cơ sở lý luận về mô hình VNEN, về chương trình,
Sách HDH Ngữ văn 6 của mô hình VNEN.
Thứ hai: Tìm hiểu thực trạng dạy học Ngữ văn 6 theo mô hình VNEN ở Trà Vinh.
Thứ ba: Tìm hiểu, phân tích quy trình dạy học Ngữ văn 6 theo mô hình VNEN
và đề xuất một số biện pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học theo
định hướng phát triển năng lực.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Chương trình, sách HDH Ngữ văn 6 (Tập một, tập hai) theo
mô hình VNEN, giáo viên dạy Ngữ văn 6 và HS lớp 6 theo mô hình VNEN tại Trà Vinh.
- Phạm vi nghiên cứu :
+ Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá mô hình VNEN; phân
tích các điểm phát triển của VNEN trên cơ sở chương trình hiện hành đối với môn Ngữ
văn qua thực tế dạy học ở Trà Vinh.
+ Về địa bàn nghiên cứu: Do thời gian và điều kiện cũng như năng lực nghiên
cứu của bản thân còn hạn chế nên chúng tôi chỉ nghiên cứu ở các trường THCS có triển
khai dạy học mô hình VNEN trong tỉnh Trà Vinh.
+ Thời gian nghiên cứu: năm học 2015 - 2016 và học kì I năm học 2016 – 2017.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để nghiên cứu vấn đề mà đề tài đặt ra, trong quá trình thực hiện, người viết đã
kết hợp, vận dụng linh hoạt phương pháp nghiên cứu lí thuyết và phương pháp nghiên
cứu thực tế và các phương pháp khác, cụ thể là:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Phương pháp này sử dụng để nghiên cứu lịch sử vấn đề, cơ sở lí luận… thông
qua việc tìm hiểu những công trình nghiên cứu về lí luận dạy học, đổi mới phương pháp
dạy học, những tài liệu tập huấn về mô hình trường học mới VNEN, các văn bản chỉ đạo
về thực hiện chương trình, mô hình trường học mới, những bài viết, các ý kiến của các
chuyên gia có liên quan trực tiếp đến đề tài.

6


5.2. Phương pháp khảo sát
Khảo sát 26 trường có thực hiện mô hình trường học mới trên địa bàn tỉnh Trà Vinh
để tìm hiểu thực trạng dạy học Ngữ văn 6 theo mô hình trường học mới, những thuận lợi, khó
khăn, những ý kiến của GV và HS trong việc thực hiện dạy học theo mô hình trường học mới
cũng như những vấn đề về biên soạn sách HDH học Ngữ văn 6 đang thử nghiệm …
5.3. Phương pháp thống kê
Được sử dụng xử lý các số liệu đã thu thập được trong quá trình khảo sát, bổ
trợ cho phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm đạt tới những kết luận chính xác,
khách quan, khoa học.
5.4. Phương pháp thực nghiệm
Đề tài thực nghiệm bằng cách hỏi ý kiến các chuyên gia cũng như kinh nghiệm
của các GV đồng thời cũng đề xuất thiết kế lại một số cụm bài học để kiểm nghiệm khả
năng ứng dụng của nó vào thực tế. Từ kiểm nghiệm đó làm cơ sở khẳng định tính khả
thi của luận văn này.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC
Đề tài góp phần giúp GV cũng như CBQL có cái nhìn khái quát hơn về mặt lý
thuyết mô hình VNEN, về thực tế dạy học theo mô hình VNEN nói chung, dạy học Ngữ
văn THCS nói riêng.
Thông qua việc khảo sát thực tế giảng dạy Ngữ văn 6 theo mô hình VNEN ở Trà
Vinh, đề tài đề xuất một số điều chỉnh mới trong xây dựng chương trình và SGK Ngữ
văn sau năm 2018, góp phần đổi mới phương pháp dạy – học Ngữ văn theo định hướng
phát triển năng lực người học phù hợp với yêu cầu thực tiễn của giáo dục Trà Vinh.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm ba
chương chính:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2. Thực trạng dạy học Ngữ văn 6 theo mô hình VNEN ở Trà Vinh.

Chương 3. Một số đề xuất và giải pháp thực hiện dạy học ngữ văn 6 theo mô hình
vnen ở trà vinh

7


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. LÝ THUYẾT VỀ MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI
1.1.1. Mô hình Trường học mới ở Colombia (EN)
1.1.1.1. Lịch sử hình thành
Mô hình Trường học mới xuất phát từ Colombia những năm 1970, tiếng Tây Ban
Nha là Escuela Nueva, viết tắt là EN. Người xây dựng và phát triển mô hình này là bà
Clara Victoria Colbert, từng nghiên cứu xã hội học tại Đại học Stanford.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Stanfrod, Clara Victoria Colbert về nước và làm việc
tại Bộ Giáo dục Colombia. Thời điểm đó, trẻ em nông thôn Colombia thường đi học
trong các lớp ghép, với nền giáo dục cơ bản bắt buộc chỉ đến hết lớp 3. Trong khi đó
giáo viên ở Colombia thiếu trầm trọng. Hầu hết họ được đào tạo bằng cách "học vẹt" và
sử dụng các biện pháp trừng phạt học sinh trong giáo dục. Clara Victoria Colbert đã
phối hợp với Oscar Mogollón, hiệu trưởng một trường "thực nghiệm" ở Pamplona xây
dựng một mô hình giáo dục mới: cho phép mỗi HS trong lớp ghép có thể làm việc theo
tốc độ của riêng mình, đồng thời kết hợp thực hành các hoạt động, và ứng dụng vào thực
tế các khái niệm trừu tượng một cách dân chủ và hợp tác. Những ý tưởng này được lấy
cảm hứng từ lý thuyết phát triển của Jean Piaget và phương pháp giáo dục tiến bộ của
Maria Montessori, Reggio Emilia và John Dewey.
Năm 1976, Mogollón và Clara Victoria Colbert hợp tác mở rộng hệ thống này.
Họ dạy cho các giáo viên cách dạy HS lớp ghép ở nhiều độ tuổi khác nhau – những HS
gia đình có hoàn cảnh khó khăn, các em vừa giúp bố mẹ làm việc kiếm sống, vừa đến
trường. [56]
EN là một mô hình đã thực hiện thành công ở Châu Mỹ La tinh và một số
nước khác trên thế giới. Có thể nói EN là một tác động có hệ thống chuyển đổi mô

hình trường học, có ảnh hưởng đặc biệt đối với việc dạy học lớp ghép ở khu vực nông
thôn, vùng sâu, vùng xa. EN được ghi nhận trong xây dựng Luật Giáo dục mới của
Colombia.[25, tr 17]
Mô hình EN của Colombia ra đời, nhằm mục tiêu tăng cường học thực hành, gắn
kết nhà trường với cộng đồng thay vì học để đi thi vào các lớp học cao hơn. Chính vì
vậy, hiệu quả thực tế của các lớp học rất cao, tác động trực tiếp tới gia đình học sinh nên
ngày càng đông học sinh tới trường, tỷ lệ huy động trẻ đi học cao. Về sau, mô hình học
8


các lớp ghép chuyển đổi áp dụng vào các lớp đơn ở những vùng thuận lợi, với mục tiêu
và hình thành phát triển năng lực tư duy, năng lực công dân và năng lực cơ bản cho HS,
nghĩa là mô hình EN tiếp cận giáo dục năng lực đầu ra của HS.
1.1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của mô hình trường học mới ở Colombia
Mục tiêu của nhà trường EN nhằm giúp HS nâng cao khả năng: đọc hiểu, giao
tiếp, rèn luyện kĩ năng viết; giải toán thực hiện các phép tính đơn giản; giải quyết các
vấn đề trong cuộc sống hằng ngày; quan sát và học hỏi từ những điều xung quanh; thái
độ dân chủ của HS. [25, tr 17]
Trong nhà trường EN, HS được học tập phù hợp với trình độ nhận thức của cá
nhân; nội dung giáo dục thiết thực, liên quan đến cuộc sống thường ngày; kế hoạch dạy
học linh hoạt, môi trường học tập thân thiện, phát huy tinh thần dân chủ, ý thức tập thể;
tài liệu học tập có tính tương tác, hướng dẫn HS tự học; chú trọng HS làm việc theo
nhóm hợp tác; phối hợp chặt giữa phụ huynh, cộng đồng và nhà trường; xếp lớp linh
hoạt; tăng quyền chủ động cho GV và nhà trường, phát huy vai trò tích cực, sáng tạo
của các cấp quản lí giáo dục địa phương; thực hiện bình đẳng giới trong các hoạt động
của nhà trường. [25, tr 17]
Khác với việc HS cả lớp ngồi quay lên bảng nghe GV giảng bài ở lớp học truyền
thống, ở đây các em ngồi quây thành từng nhóm theo độ tuổi và trao đổi với nhau; mỗi
nhóm tương đương với một cấp lớp. Sau khi làm xong bài tập của riêng mình, học sinh
sẽ xem xét chéo kết quả làm bài của các bạn khác. Nếu một HS nào đó đang gặp khó

khăn, những HS khác sẽ giúp đỡ. Trong khi nhóm HS lớp 2 đang tập viết đoạn văn, thì
nhóm H S lớp 5 đang làm thí nghiệm về sự khúc xạ của ánh sáng khi đi qua nước. GV
di chuyển giữa các nhóm, đứng bên cạnh, đọc bài làm của các em và cho ý kiến nhận
xét về công việc của chúng. Ngoài trường học là những luống rau, quả do chính các em
trồng và là nguyên vật liệu chủ lực trong các bữa ăn thường được nấu nướng theo cách
cha mẹ các em vẫn làm ở gia đình. [56]
1.1.1.3. Những ưu việt và bất cập của mô hình Trường học mới Colombia
Qua tìm hiểu, nghiên cứu nhiều nguồn tài liệu, chúng tôi nhận thấy rằng EN có
những điểm ưu việt đáng chú ý sau:
Thứ nhất, mô hình EN có chi phí thấp, rất phù hợp với vùng khó khăn và giải
quyết tình trạng lớp ghép. Theo bà Clara Victoria Colbert, hiện nay, EN chỉ phải tiêu
tốn 30 USD cho mỗi HS một năm, thay vì chi phí trung bình 2000 USD cho một HS
tiểu học theo mô hình truyền thống ở Colombia. [56]
9


Thứ hai, trường học mới của Colombia đã rất thành công trong việc dạy học kiểu
lớp ghép, nghĩa là nó đã mang những HS khác tuổi, khác trình độ vào cùng một lớp học
để đáp ứng được những nhu cầu và mức độ phát triển khác nhau của các em. [41]
Thứ ba, HS theo học mô hình này rất tự tin, tự lập và có kỹ năng làm việc nhóm
hiệu quả. Đồng thời những cái các em được học ở trường học EN hoàn toàn được ứng
dụng trong cuộc sống. Nội dung mô hình EN giáo dục cho HS gắn liền với cuộc sống,
như tiêm chủng, dinh dưỡng, an toàn thực phẩm, hoặc làm thế nào để phân biệt cảm
lạnh với các bệnh nhiễm trùng nặng đường hô hấp. [56]
Thứ tư, mỗi bài học trong Tài liệu HDH của EN ngoài phần phát biểu mục tiêu,
bao gồm 4 loại hoạt động: A- cơ bản ; B- nghiên cứu trường hợp ; C- thực nghiệm ; và
D- hoạt động tự do. Mỗi HS theo 4 loại hoạt động này tùy thuộc nhịp độ phát triển của
riêng mình dưới hình thức học hợp các nhóm và cá nhân. [41]
Thứ năm, EN tăng cường mạnh mẽ mối quan hệ giữa nhà trường và các cộng đồng
xã hội của mình trên nhiều phương diện nhằm giúp HS nông thôn nghèo nuôi lớn động

cơ học tập và đạt sự tiến bộ bền vững trong học tập. Trường học mới tập trung giúp HS
và GV tham gia và làm nên những sản phẩm để hiểu cộng đồng và các gia đình trong cộng
đồng gia đình như bản đồ làng - xã - ấp; thẻ thông tin về các gia đình; bản tin về các vấn
đề văn hóa, xã hội và môi trường và lịch hoạt động mùa màng của cộng đồng. [51] HS
EN cũng có thể nghỉ học giúp bố mẹ thu hoạch mùa màng, sau đó lại quay trở lại lớp học
và tiếp tục, một điều không thể có trong mô hình giáo dục truyền thống. [56]
Bất cập lớn nhất của EN ở Colombia khi đưa vào áp dụng trong thực tế là tính
tùy tiện. Các "biến thể" của EN gây ra nhiều khó khăn để theo dõi kết quả. EN khó nhân
rộng tại chính Colombia nếu không có các hiệp hội doanh nghiệp đỡ đầu. [56]
Tóm lại, tuy mô hình trường học EN có những bất cập nhất định nhưng dường
như EN là một “phép màu” cho giáo dục Colombia. Từ khi được hình thành (vào những
năm 1970 của thế kỉ trước), chủ yếu cho những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
vùng có nhiều lớp ghép, đến năm 1989, Ngân hàng Thế giới lựa chọn EN là một trong
ba cải cách thành công nhất có tác động đến chính sách ở các nước đang phát triển.
Trong báo cáo của Liên hợp quốc năm 2000, EN là một trong ba thành tựu chính của
Colombia. UNESCO đánh giá EN là mô hình đạt kết quả tốt nhất về giáo dục Tiểu học
ở vùng nông thôn ở khu vực châu Mĩ La tinh, đã có 35 nước tham gia học tập mô hình
này. [25, tr 17]
10


1.1.2. Mô hình Trường học mới ở Việt Nam (VNEN)
1.1.2.1. Lịch sử hình thành
Khi nghiên cứu, Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta thấy điều kiện làm giáo dục của
Colombia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, nhất là những khó khăn về chất
lượng GV, cơ sở vật chất nhà trường. Qua thực tế, nghiên cứu mô hình EN và giáo dục
của Colomhia giúp chúng ta có được những kinh nghiệm quý, cách làm tốt cũng như
một số nội dung chuyển đổi từ mô hình trường học truyền thống sang mô hình trường
học mới. Tìm hiểu giáo dục Châu Mỹ La tinh (trong đó có Colombia, Cu Ba, Chi Lê…)
là đúng hướng vì các nước này, nhìn chung có nhiều nét tương đồng với Việt Nam và

bản thân Liên hợp quốc, UNESCO và Ngân hàng thế giới, cũng có những đánh giá rất
cao giáo dục Colombia và các nước Mỹ La tinh; đồng thời cũng khuyến cáo các quốc
gia chậm phát triển và đang phát triển cần học tập kinh nghiệm phương thức chuyển đổi
từ mô hình nhà trường hiện hành, nhà trường công sang mô hình trường học mới.
Theo ông Đặng Tự Ân, Chuyên gia trưởng Dự án VNEN: Mô hình VNEN là sự
chuyển đổi từ mô hình nhà trường truyền thống và được xây dựng, phát triển dựa trên
quan điểm giáo dục định hướng năng lực người học, trong đó coi trọng giáo dục lấy
người học làm trung tâm. Các thành tố, đặc trưng cơ bản của mô hình thể hiện đầy đủ
những xu thế của giáo dục hiện đại trên thế giới và phù hợp với tinh thần của Nghị quyết
số 29- NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng như Nghị quyết
88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt
Nam. Vì thế có thể nói, mô hình VNEN thực chất là một cách tiếp cận, một sự thể
nghiệm mô hình trường học của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở Việt Nam. Nội
dung của mô hình dựa trên cơ sở tích hợp thành quả thực tiễn giáo dục của Việt Nam
qua nhiều năm, nhất là 20 năm đổi mới gần đây. Nhiều kết quả thí điểm của các chương
trình, dự án như Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (PEDC);
Chương trình đảm bảo chất lượng trường học (SEQAP); Dự án phát triển Giáo viên tiểu
học (PTD); Dự án Giáo dục của Ofam (GB); Dự án Việt Bỉ; Dự án về quỹ hỗ trợ của
Thụy Điển; Quỹ hỗ trợ của Úc; Quỹ hỗ trợ của Unicef, Dự án Phát triển THCS; Dự án
Phát triển THPT (I và II); Chương trình phát triển THPT… đã được vận dụng một cách
khoa học vào mô hình trường học mới Việt Nam. Đặc biệt, mô hình đã lồng ghép
Phương pháp bàn tay nặn bột (Viện hàn lâm Pháp), dạy học Mỹ thuật (Đại sứ quán Đan
Mạch tại Hà Nội), Tổ chức SHCM (Tổ chức JICA của Nhật Bản)… thành các nội dung
hoạt động của mô hình. [57]
11


Như vậy, mô hình trường học mới Việt Nam có quan điểm phù hợp với giáo
dục hiện đại và có nội dung được kết hợp hài hòa giữa thành tựu giáo dục của các
nước phát triển và đang phát triển cùng với kinh nghiệm đổi mới giáo dục của Việt

Nam trong một thời gian dài vài thập kỷ gần đây. Mô hình trường học mới Việt Nam
là của Việt Nam và được xây dựng và phát triển tại Việt Nam [9]. Triển khai Dự án
Mô hình Trường học mới tại Việt Nam thực chất là tiến hành xây dựng, duy trì và
nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường hiện đại, tiên tiến, phù hợp với mục tiêu và
đặc điểm của giáo dục Việt Nam.
VNEN đã tập trung đổi mới đồng bộ nhiều mặt của giáo dục như: đổi mới phương
pháp dạy - học; đổi mới về tổ chức và không gian lớp học; đổi mới về đánh giá HS; đổi
mới về cách thức huy động; đổi mới SHCM; đổi mới các hoạt động quản lý nhà trường.
1.1.2.2. Chủ thể và đặc trưng của mô hình VNEN
Các chủ thể trong mô hình VNEN là HS, GV và gia đình (cộng đồng). Các chủ
thể này là 3 trụ cột, luôn luôn gắn kết và tương tác hai chiều với nhau, có thể sơ đồ hóa
như sau:
Gia đình / cộng đồng

Giáo viên

Học sinh

Sự tham gia và tương tác giữa các chủ thể có hiệu quả được biểu hiện bằng kết
quả cải thiện được thành tích học tập và phát triển cho HS. Điều này khẳng định vị trí,
vai trò của HS, GV và gia đình (cộng đồng) là những người chủ thực sự của mô hình,
cùng hướng tới mục tiêu chung là phát triển nhân cách toàn diện cho HS.
Cốt lõi của mô hình VNEN được xây dựng dựa trên hai trụ cột chính: thứ nhất là
quan điểm “Lấy HS làm trung tâm trong quá trình giáo dục”; thứ hai là mục tiêu “Phát
triển phẩm chất, năng lực cho HS, GV”.
Những đặc trưng nổi bật của mô hình trường học mới Việt Nam, bao gồm:
Hoạt động học của HS được coi là trung tâm của quá trình dạy học. HS được
khuyến khích, tạo cơ hội tham gia tích cực vào các hoạt động theo nhóm, tự học. Từ đó,
các em có thể tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức kỹ năng mới; đồng thời phát triển
nhiều phẩm chất và năng lực quan trọng như: tính chủ động, tự tin, khả năng suy nghĩ

12


độc lập, năng lực tư duy phê phán và tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng
lực giao tiếp, năng lực hợp tác.
Phương pháp dạy- học thông qua Tài liệu hướng dẫn học tập, được thiết kế cho
HS hoạt động, tự học, học nhóm, và học cả ngày; dùng chung cho GV, HS và cha mẹ
các em. Trong tài liệu, cấu trúc các hoạt động học tập theo các modul; cung cấp kiến
thức học kết hợp hướng dẫn phương pháp học và phương pháp tư duy; nội dung học
lồng ghép với quy trình học.
Đánh giá HS thường xuyên theo quá trình học tập nhằm kiểm tra và hướng dẫn
phương pháp học tập có hiệu quả cho HS. Coi trọng HS tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau
và đánh giá của cha, mẹ HS, cộng đồng. Kết hợp đánh giá về kiến thức với đánh giá các
năng lực, kỹ năng, thái độ, hành vi của HS.
Môi trường học tập thân thiện và hiệu quả. Thông qua tổ chức các hoạt động của
HĐTQ HS, góc học tập, góc cộng đồng và hoạt động nhóm để hỗ trợ tích cực cho HS.
Từ đó, HS được tự chủ, có trách nhiệm với hoạt động học tập của mình; rèn luyện, phát
triển khả năng giao tiếp và lãnh đạo; nâng cao các phẩm chất và phong cách con người.
GV có vị trí mới, được bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ năng lực nghề
nghiệp, đáp ứng được vai trò quan trọng là người hướng dẫn, tổ chức và quyết định trong các
hoạt động học tập, giáo dục, đánh giá HS và phối hợp với cha mẹ HS, cộng đồng. [9]
1.1.2.3. Sự khác nhau giữa mô hình EN và mô hình VNEN
Theo PGS.TS Hoàng Thị Tuyết [42], có một số điểm khác biệt giữa mô hình EN
và mô hình VNEN; cụ thể như sau:
Thứ nhất, EN là mô hình trường học lớp ghép với quy mô ít HS trong mỗi lớp ở
vùng nông thôn sâu của các nước đang phát triển, nơi mà HS đang học có thể tạm nghỉ
để lo việc đồng áng sinh nhai rồi lại trở về lớp học, nơi mà việc tạo nguồn GV chất
lượng cao vô cùng khó khăn. Trường học mới của Colombia đã rất thành công trong
việc dạy học kiểu lớp ghép này; nghĩa là nó đã mang những HS khác tuổi, khác trình độ
vào cùng một lớp học để đáp ứng được những nhu cầu và mức độ phát triển khác nhau

của các em. VNEN có vẻ không phải là mô hình đặc trưng cho trường học lớp ghép vì
có những lớp học VNEN là lớp học bình thường không chỉ ở vùng nông thôn sâu mà cả
ở một số vùng ngoại vi của thành phố hay thị trấn, thị xã.
Thứ hai, nội dung chương trình của EN liên quan mật thiết đến đời sống hàng
ngày của HS. Để bảo đảm thực hiện yêu cầu này, GV được tự chủ chuyên môn trong
13


việc phát triển ngữ liệu dạy học. Trong lúc nhận sự tư vấn từ chuyên gia giáo dục và
theo Chuẩn kiến thức - kỹ năng của chương trình quốc gia thì phần nhiều chương trình
giảng dạy trực tiếp trên lớp của GV vẫn được tạo ra bởi những “input/ý tưởng” của chính
họ khi dựa vào nhu cầu và trình độ thực tế của HS. Trong lúc đó, tại Việt Nam, nội dung
giảng dạy trực tiếp của GV trên lớp trong dự án VNEN là những ý tưởng được hoạch
định sẵn và cụ thể đến từng chi tiết bởi chuyên gia biên soạn Tài liệu HDH. Công việc
của GV dạy VNEN chủ yếu theo dõi, hỗ trợ, đánh giá việc thực hiện đúng nội dung dạy
học đã được trình bày trong tài liệu này.
Thứ ba, mỗi bài học trong Tài liệu HDH của EN ngoài phần phát biểu mục tiêu, bao
gồm 4 loại hoạt động: A- cơ bản ; B- nghiên cứu trường hợp ; C- thực nghiệm ; và D- hoạt
động tự do. Mỗi HS theo 4 loại hoạt động này tùy thuộc nhịp độ phát triển của riêng mình
dưới hình thức học hợp các nhóm và cá nhân. Trong Tài liệu hướng dẫn học của VNEN,
HS cũng được học theo nhóm và cá nhân, nhưng có vẻ chỉ được thực hiện một loại hoạt
động cơ bản gồm ba mức cơ bản, thực hành và áp dụng. Ở mức thực hành và áp dụng, các
bài tập chủ yếu xoay quanh việc tìm hiểu kiến thức và thực hiện các kỹ năng chính của nội
dung bài đang học. Mặt khác, ở VNEN cơ hội để HS học tập và thể hiện theo nhịp độ phát
triển riêng của cá nhân mỗi em thì chưa nhiều, chưa xuyên suốt và nhất quán do các ngữ
liệu và hoạt động, bài tập, câu hỏi được ấn định sẵn từ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc
và triển khai trong một cấu trúc tổ chức nhìn chung thuần nhất cố định.
Thứ tư, EN tăng cường mạnh mẽ mối quan hệ giữa nhà trường và các cộng đồng
xã hội của mình trên nhiều phương diện nhằm giúp HS nông thôn nghèo nuôi lớn động
cơ học tập và đạt sự tiến bộ bền vững trong học tập. Trường học mới tập trung giúp HS

và GV tham gia và làm nên những sản phẩm để hiểu cộng đồng và các gia đình trong
cộng đồng gia đình như bản đồ làng - xã - ấp; thẻ thông tin về các gia đình; bản tin về
các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường và lịch hoạt động mùa màng của cộng đồng.
VNEN mặc dù đã mở rộng cửa nhà trường mời gọi sự tham gia của cộng đồng thông
qua những “góc cộng đồng” trong trường học, nhưng các hoạt động kết nối cụ thể sâu
sắc kiểu như của Trường học mới có vẻ vẫn còn chưa được thấy rõ.
1.1.2.4. Một số khác biệt cụ thể giữa dạy học theo mô hình VNEN và dạy học
theo mô hình nhà trường truyền thống
Trong mô hình VNEN, HS chủ động tiếp nhận kiến thức, sáng tạo, linh hoạt trong
cách tiếp cận bài học, hình thành kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp, xử lý tình huống...
14


là những ưu thế nổi trội mà VNEN đem lại. Mô hình này đề cao việc HS tự trải nghiệm,
khám phá và cũng chấp nhận sự khác biệt về thời gian, tốc độ, mức độ đáp ứng của HS.
Giữa mô hình VNEN và mô hình nhà trường truyền thống đã có sự khác biệt lớn về bản
chất dạy học, về mục tiêu, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, về tài liệu dạy
học, về vai trò của GV và HS… Để dễ hình dung, dưới đây là so sánh một số nội dung
cụ thể:
Bảng 1.1. So sánh một số điểm khác nhau giữa Mô hình nhà trường truyền thống và
Mô hình trường học mới VNEN
Mô hình nhà trường truyền thống

Mô hình trường học mới VNEN

- HS chủ yếu học tập

- HS học tập và phát triển.

- HS làm việc cá nhân.


- HS làm việc cá nhân kết hợp làm việc
theo nhóm.

- HS thụ động.

- HS tự học, tích cực.

- HS chủ yếu nghe giảng, ghi nhớ, luyện

- HS học qua hoạt động trải nghiệm, giao

tập theo mẫu.

tiếp và tự phản hồi.

- HS học tập theo sự quản lí của GV.

- HS tự chủ, tự chịu trách nhiệm quá trình
học tập, thông qua Hội đồng tự quản HS.

- HS quan tâm tới SGK, GV quan tâm
tới sách hướng dẫn giáo viên.

- HS và GV dùng chung tài liệu hướng
dẫn học. Sử dụng các công cụ hỗ trợ học
tập trong lớp học.

- GV thuyết giảng theo SGK và sách
hướng dẫn giáo viên.


- GV dựa theo tài liệu hướng dẫn học để gợi
mở, hỗ trợ, hướng dẫn HS tìm ra kiến thức.

- Dạy theo số đông, đồng loạt, áp đặt 1
chiều.

- Dạy theo cá thể, chấp nhận khác biệt về
tiến độ, tương tác đa chiều.

- Quan tâm tới kết quả học cuối kì, đánh

- Quan tâm tới suốt quá trình học và cách

giá định kì thông qua bài kiểm tra định

học; đánh giá linh hoạt và thường xuyên

lượng.

theo từng bài học.

- Mối quan hệ GV, HS theo kiểu chỉ
huy, áp đặt một chiều từ trên xuống.

- Mối quan hệ giữa GV và HS, HS với HS
mang tính hỗ trợ, hợp tác và hướng tới tinh
thần xã hội.

- Sĩ số HS đông, diện tích lớp học nhỏ,

học 1 buổi/ngày

- Sĩ số HS ít, diện tích lớp học rộng, có
thể học 2 buổi/ngày.
15


1.1.3. Quan điểm xây dựng chương trình Ngữ văn 6 của mô hình VNEN
1.1.3.1. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện mô hình VNEN cấp THCS
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt
lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ
chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát
huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới
phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp
học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù
hợp. Phát triển GD&ĐT là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo
dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, từ năm học 2012 – 2013 Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã cho phép Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam chính thức thực hiện với
1.447 trường Tiểu học. Sau khi thực hiện khá thành công với mô hình trường học mới
Việt Nam ở cấp tiểu học, ngày 03 tháng 9 năm 2014, Bộ GD&ĐT ban hành Công văn
số 4749/BGDĐT-GDTrH về việc hướng dẫn triển khai thí điểm mô hình trường học
mới Việt Nam đối với lớp 6 năm học 2014- 2015 cho 48 lớp của 24 trường thuộc 6 tỉnh.
Sang năm học 2015 – 2016 đã có hơn 1600 trường THCS đăng ký tham gia triển khai
mô hình VNEN đối với lớp 6. Bộ GD& ĐT tiếp tục ban hành Công văn số
3218/BGDĐT-GDTrH ngày 26 tháng 6 năm 2015 về việc hướng dẫn triển khai thí điểm
mô hình VNEN lớp 6 cấp THCS với bộ sách HDH được thiết kế dựa trên chương trình

giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng tích hợp. [3]
1.1.3.2. Quan điểm xây dựng sách Hướng dẫn học Ngữ văn 6 của mô hình VNEN
Tài liệu tập huấn cán bộ quản lý, giáo viên triển khai mô hình trường học mới
Việt Nam môn Ngữ văn lớp 6 [44], của Vụ Giáo dục Trung học tháng 7/2015 trình bày:
Theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của HS, việc xây dựng tài liệu HDH
(tương tự như SKG) được thực hiện theo nguyên tắc như sau:
- Về nội dung, tài liệu HDH các môn học được biên soạn theo các chủ đề tích hợp
để có thể tổ chức hoạt động học tích cực và tự lực của HS. Hoạt động học mỗi chủ đề
có thể và cần phải được thực hiện một cách linh hoạt ở trong lớp, ngoài lớp, trong trường,
16


×