MỞ ĐẦU
Trong thế giới hiện đại ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của các
ngành khoa học, công nghệ nói chung, sự bùng nổ của công nghệ thông tin nói
riêng, nhất là internet làm cho thế giới không còn là quá rộng lớn mà ngày càng
xích gần lại nhau hơn. Bên cạnh sự giao lưu về khoa học, kinh tế, chúng ta còn
chứng kiến sự giao lưu của các nền văn hóa, chính trị - xã hội. Do đó, trong
những thập niên cuối thế kỷ 20 - đầu thế kỷ 21 này, người ta nhắc nhiều đến vấn
đề toàn cầu hóa các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…hay quan niệm “Thế
giới phẳng” chia đều những cơ hội phát triển cho tất cả các quốc gia trên thế giới
cũng như nguy cơ bị hòa tan trong “cơn bão” toàn cầu hóa đó.
Những vấn đề trên đặt ra cho mỗi quốc gia những cơ hội, thách thức mà
mỗi quốc gia cần phải biết tận dụng thời cơ, loại bỏ những nguy cơ bị hòa tan,
tụt hậu trong thế giới mới. Để tận dụng các cơ hội đó, các nước sử dụng nhiều
phương thức khác nhau như hợp tác, liên kết, thành lập những khối liên minh
kinh tế (ASEAN, APEC, G8…), tận dụng, phát huy các yếu tố nội lực để “hòa
nhập nhưng không hòa tan” trong toàn cầu hóa và “xây dựng và quảng bá hình
ảnh quốc gia” là một trong những phương thức nắm bắt thời cơ ấy.
Vấn đề “xây dựng và quảng bá hình ảnh” của mỗi quốc gia ngày nay,
không còn nằm trong những giá trị thuần túy về văn hóa, tinh thần mà nó được
các quốc gia nâng tầm thành những “Chiến dịch xây dựng và quảng bá hình
ảnh” rộng lớn nhằm mang lại giá trị kinh tế, chính trị, đồng thời bảo vệ các giá
trị truyền thống của quốc gia mình, mà truyền thông là phương tiện quan trọng
trong chiến dịch đó. “Xây dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia” gồm nhiều cách
thức, và nội dung phong phú đa dạng trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, tập
trung ở một số lĩnh vực như du lịch, giáo dục, truyền bá văn hóa…
Xuất phát từ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn hiện nay đang đặt ra
do vậy em đã lựa chọn đề tài: “Vai trò của truyền thông trong quảng bá hình
ảnh của Việt Nam” để làm đề tài tiểu luận kết thúc môn Chính trị quốc tế trong
giai đoạn hiện nay với mong muốn sẽ hiểu rõ hơn về các nội dung trong đó.
1
NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
TRUYỀN THÔNG TRONG QUẢNG BÁ HÌNH ẢNH QUỐC GIA
1.1.
Một số khái niệm cơ bản
Trong tiếng Anh, "Communication" có nghĩa là truyền thông - sự truyền
đạt, thông tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi, liên lạc. Còn theo tiếng La tinh, nó
có nghĩa là cộng đồng. Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con đường,
phương tiện để đạt đến sự hiểu biết lẫn nhau giữa cá nhân và xã hội. Hay truyền
thông là một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ năng
nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận thức.
Còn truyền thông đại chúng được hiểu là những phương pháp truyền
thông chuyển tải thông điệp đến những nhóm đông người. Có nhiều phương tiện
truyền thông đại chúng khác nhau, phổ biến nhất là Phát thanh, Truyền hình,
Báo chí và Internet. Thế nên, trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, truyền
thông đại chúng có có vai trò rất quan trọng đối với đời sống xã hội.
Truyền thông theo định nghĩa hẹp là “sự trao đổi tin tức hoặc thông báo”,
còn nghĩa rộng, theo UNESCO là hoạt động của cá nhân hoặc tập thể bao gồm
toàn bộ những chuyển giao và trao đổi ý niệm, sự việc, dữ kiện. Được thông tin
là 1 trong những quyền cơ bản của con người, được pháp luật bảo vệ.
Truyền thông đại chúng (còn gọi là báo chí) có vai trò quan trọng và
không thể thay thế trong việc đáp ứng quyền cơ bản đó và thông tin cũng được
xem là chức năng cơ bản của báo chí.
Thật vậy truyền thông đại chúng ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi
thông tin của công chúng và sự phát triển mạnh mẽ của báo chí cũng dựa trên
nền tảng là sự gia tăng nhu cầu thông tin trong xã hội.
2
Nhiều cuộc điều tra xã hội đã cho thấy, phần lớn người dân thường trả lời
là mình biết tin tức và tất cả những thông tin diễn ra xung quanh nhờ theo dõi
các phương tiện truyền thông đại chúng.
Đây cũng là lý do tạo nên sự tin tưởng của công chúng đối với chất lượng
và nội dung thông tin được báo chí đưa ra qua đó có phản hồi tích cực hợp tác
và thậm chí trở thành nguồn tin của báo chí.
1.2.
Tác động của truyền thông đối với các mặt của đời sống xã hội
Truyền thông có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền
thông tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến
hành động và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng được
lặp đi lặp lại sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn mực
của xã hội. Nhờ đến truyền thông mà những vấn đề này được xã hội chấp nhận
và lan truyền nhanh trong công chúng.
Truyền thông có tác động lớn đến các nhóm đối tượng lớn như sau:
1.2.1.
Đối với chính quyền nhà nước
Giúp các cơ quan nhà nước đưa thông tin đến người dân về các chính
sách kinh tế, văn hóa xã hội, luật pháp đến với dân chúng, thuyết phục công
chúng thay đổi về nhận thức và hành xử đúng pháp luật. Ngoài ra chính phủ
cũng nhờ truyền thông để thăm dò lấy ý kiến của dư luận trước khi ban hành các
văn bản pháp lý. Nhờ truyền thông mà nhà nước điều chính các chính sách quản
lý của mình và tạo ra sự đồng thuận cao trong dân chúng.
Truyền thông làm cho chính phủ, những người thừa hành pháp luật được
trong sạch và minh bạch hơn, thông qua thông tin phản biện của các đối tượng
dân chúng trong xã hội.
1.2.2.
Đối với công chúng
Giúp cho người dân cập nhật thông tin kinh tế văn hóa xã hội, pháp luật
trong và ngoài nước. Giúp người dân giải trí và học tập về phong cách sống
3
những người xung quanh. Truyền thông ủng hộ cái đẹp và bài trừ cái xấu.
Truyền thông đóng vai trò trong việc tạo ra các xu hướng về lối sống, văn hóa,
thời trang…
Ngoài ra truyền thông còn giúp cho người dân phản hồi, nói lên tiếng nói
của mình, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.
1.2.3. Đối với nền kinh tế
Nhờ có truyền thông mà doanh nghiệp có thể quảng bá sản phẩm và dịch
vụ, giúp cho người mua nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ. Truyền
thông cũng tạo ra nhu cầu tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ, giúp các công ty tạo
ra công ăn việc làm cho nhiều người, giúp kinh tế phát triển. Hơn 90% ngân
sách marketing của doanh nghiệp là sử dụng các phương tiện truyền thông để
quảng cáo sản phẩm và dịch vụ để thu hút người tiêu dùng nhận biết và sử dụng
sản phẩm và dịch vụ của họ.
Bản thân truyền thông cũng là một ngành kinh tế quan trọng của một
quốc gia, giải quyết công ăn việc làm và tạo ra giá trị cho nền kinh tế.
Truyền thông cũng là công cụ giúp cho người tiêu dùng phản ánh về chất
lượng sản phẩm và dịch vụ của các nhà sản xuất.
1.2.4. Tính 2 mặt của truyền thông
Truyền thông cũng có tính 2 mặt của nó nếu thông tin, hình ảnh truyền đi
mang tính tiêu cực, thì tác động của truyền thông cũng tạo ra những ảnh hưởng
tiêu cực cho các đối tượng công chúng trong xã hội. Nhất là những đối tượng
thanh thiếu niên, những đối tượng có trình độ nhận thức còn thấp, không có khả
năng chắt lọc thông tin, nếu thông tin từ truyền thông tiêu cực thì dễ bị lôi kéo
và có những tác động tiêu cực cho bản thân và cho cộng đồng xã hội.
Trong kinh tế, truyền thông tác động đến tiêu dùng của người dân giúp
người dân tiêu dùng nhiều hơn, giúp kinh tế phát triển.
4
Tuy nhiên, truyền thông cũng tác động đến việc con người ngày càng tiêu
dùng nhiều hơn so với nhu cầu cần thiết. Con người ngày càng làm việc nhiều
hơn để phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng. Các giá trị vật chất ngày càng được
xã hội đánh giá cao hơn các giá trị tinh thần. Sản xuất và tiêu dùng nhiều sẽ hủy
diệt môi trường và tác động xấu đến đời sống của người dân.
1.3.
Kinh nghiệm sử dụng truyền thông của một số quốc giá trên thế giới
để quảng bá hình ảnh quốc gia
1.3.1. Malaysia - Một châu Á thu nhỏ
Một trong những quốc gia thành công nhất quảng bá hình ảnh thông qua
du lịch đó là Malaysia. Malaysia là một nước không có nhiều tài nguyên khoáng
sản, cũng như không có nhiều di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận
như Việt Nam, nhưng những thành tựu về ngành du lịch mà nước này đạt được
đáng để chúng ta và các nước trong khu vực học tập. Malaysia trở thành đất
nước được ghé thăm nhiều nhất trên thế giới sau Trung Quốc trong khu vực châu
Á và đứng thứ 13 trên Thế giới.
Để đạt được những thành tựu như vậy, ngành du lịch Malaysia đã dành
không ít công sức cũng như tiền bạc để cải thiện các hoạt động dịch vụ, xây
dựng hệ thống hạ tầng cơ sở tương đối tốt đáp ứng nhu cầu của du khách. Tuy
nhiên, điểm mạnh tạo nên sự khác biệt về du lịch giữa Malaysia với các nước
trong khu vực chính nhờ hoạt động quảng bá du lịch tạo nên Malaysia với một
hình ảnh “ Malaysia - Truly Asia ” (Malaysia – Châu Á thực sự) với thế giới.
Ngành du lịch Malaysia đã biết cách đánh bóng mình để trở thành một
châu Á thu nhỏ, một châu Á đích thực. Mặc dù trên thực tế, Malaysia có thể vẫn
chưa hẳn phải là Truly Asia nhưng với mật độ xuất hiện trên những kênh truyền
hình quốc tế cùng với những video quảng cáo thực sự ấn tượng, du khách khó có
thể không in vào trí nhớ mình câu slogan du lịch rất hay và những hình ảnh giới
thiệu gợi cảm của du lịch Malaysia.
Cùng với tận dụng thế mạnh của truyền thông, Malaysia đã thực sự biến
sự đa dạng sắc tộc, đa ngôn ngữ và đa tôn giáo của mình thành những món ăn
5
tình thần độc đáo cho du khách (Malaysia gồm 03 sắc tộc chủ yếu là Malaysia 67%, người Hoa -25%, người Ấn - 8%).
Mỗi người dân Malaysia đểu trở thành một người làm truyền thông.Họ ý
thức được rằng du khách nước ngoài không chỉ mang lại nguồn thu cho đất nước
mà còn mang lại việc làm không vất vả mà thu nhập tương đối cao. Số lượng
khách du lịch tới Malaysia là 22 triệu người. Tất cả những điều trên đã tạo ra cả
một ngành công nghiệp không khói mang thương hiệu châu Á thực sự - Truly
Asia rất đáng học tập.
1.3.2. Thái Lan - đất nước của những người biết làm PR
Trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan được coi là nước phát triển kinh tế
trong đó gành du lịch Thái Lan được coi như một trong những thương hiệu
thành công nhất trong khu vực Đông Nam Á được ghi nhận bằng sự góp mặt
trong bản đồ du lịch của thế giới.
Hiện, ngành du lịch đóng góp khoảng 6% GDP của Thái Lan và là nguồn
thu ngoại tệ quan trọng với doanh số mỗi năm khoảng 16 tỉ đô la Mỹ và mặc dù
khủng hoảng chính trị kéo dài trên đất nước này, và trì hoãn các chuyến du lịch
thì Thái Lan vẫn được coi là một điểm đến hấp dẫn với du khách trên thế giới.
Hàng năm Thái Lan dành ngân sách khoảng 52 triệu đô la Mỹ để quảng
bá du lịch, trong đó phần lớn dành cho hoạt động quảng bá bằng truyền thông
với sự tham gia của hàng ngàn công ty tổ chức tour và báo chí quốc tế.
Chỉ tính riêng việc công bố “Năm du lịch Thái Lan 2009”, Tổng cục Du
lịch Thái Lan (TAT - TourismAuthority of Thailand) đã tổ chức thành một chiến
dịch mang tính quảng bá quy mô rộng lớn thông qua việc họp báo công bố kế
hoạch với sự tham gia của “đại diện 1049 các công ty du lịch và báo chí đến từ
49 quốc gia khác nhau”. Mỗi chiến dịch quảng bá đều sử dụng nhiều phương
tiện truyền thông khác nhau.
Ngoài sự sáng tạo và luôn tìm tòi những cái mới mẻ trong tiềm năng về du
lịch, đất nước và con người, Thái Lan luôn biết cách tận dụng truyền thông để
6
tạo “chuyện” quảng bá cho mình. Họ luôn chủ động mời gọi và tiếp xúc với giới
truyền thông. Họ biết đầu tư tiền bạc và ý tưởng quảng bá trên những kênh
truyền thông có khả năng phủ sóng toàn cầu như CNN, BBC…
Ngoài ra Thái Lan còn biết nắm bắt được xu hướng phát triển của các
phương tiện truyền thông, biết tận dụng công cụ Internet, với tốc độ toan truyền
rộng và tiết kiệm chi phí trong thời điểm khủng hoảng kinh tế toàn cầu điều đó
được thể hiện trong chiến dịch “Amazing Thailand”. Điều đó cho thấy việc
quảng bá, giới thiệu không chỉ còn dựa vào những hình thức truyền thống và tốn
kém như trước.
1.3.3. Làn sóng Hàn Quốc
Hàn lưu (Hallyu) là từ tiếng Hán, xuất phát từ Trung Quốc chỉ làn sóng
văn hoá đại chúng Hàn Quốc. Theo tờ The Korea Herald “ngày càng nhiều
người ở Châu Á thích xem phim Hàn Quốc, nghe nhạc Hàn Quốc, làm theo
những bộ phim truyền hình Hàn Quốc và thậm chí còn đi tới Hàn Quốc để được
tận mắt thăm những nơi mà họ đã xem trong những bộ phim yêu thích…Dòng
chảy văn hóa này vào châu Á được gọi là ‘làn sóng Hàn Quốc’”
Hàn Quốc đã chọn cho mình một cách thức truyền bá riêng biệt và độc
đáo, đó là truyền bá văn hóa - Làn sóng Hàn Quốc qua các sản phẩm truyền
thông. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc, quốc gia này đã xuất
khẩu “1.4 triệu đô la” các sản phẩm giải trí năm 2007.
Làn Sóng Hàn Quốc (The Korean Wave – The Hallyu) truyền bá khắp khu
vực châu Á trong những năm gần đây, mà từng được coi như sự lan tràn văn hóa
Mĩ ở nhiều quốc gia trước đó. Đó là một hình ảnh của một Hàn Quốc năng động
(Dynamic Korean), một sự hòa quyện giữa cái cũ và cái mới. Trào lưu văn hóa
Hàn Quốc chính là mũi nhọn trong công tác quảng bá hình ảnh quốc gia Hàn
Quốc.
Trào lưu Hàn Quốc chính là sự du nhập và lan tỏa mạnh mẽ các ản phẩm
của ngành truyền thông văn hóa Hàn Quốc như phim Hàn và truyền hình Hàn
7
Quốc, nhạc Hàn Quốc,….vào một số nước châu Á như Trung Quốc, Hồng
Kông, Đài Loan, Việt Nam…Đôi khi trào lưu này còn vượt qua cả các sản phẩm
văn hóa Châu Âu và Mĩ.
Văn hóa Hàn Quốc ảnh hưởng không những chỉ đời sống tinh thần vả cả
vật chất. giới trẻ châu Á từ ăn mặc, lối sống đều bị ảnh hưởng của văn hóa Hàn
Quốc thông qua các bộ phim Hàn.
Hiểu được tầm quan trọng của truyền bá Làn sóng Hàn Quốc đối với việc
xây dựng hình ảnh quốc gia, chính phủ Hàn Quốc cũng chú trọng tới những
hoàn động PR bên ngoài và tăng cường việc xuất khẩu các sản phẩm văn hóa
truyền thông. Bộ trưởng Bộ Vắn hóa và Du lịch Hàn Quốc, ông Kim Myoung –
Gon nói rằng “Làn sóng Hàn Quốc tác động và mang lại lợi ích kinh tế lớn,
đồng thời cũng tạo dựng hình ảnh quốc gia.
Sự thành công trong cách làm PR cho Làn sóng Hàn Quốc đã làm thay
đổi hỉnh ảnh quốc gia. Thế giới biết đến và yêu thích con người, văn hóa Hàn
Quốc nhiều hơn so với trước đây khi nói tới Hàn Quốc họ chỉ biết đến hai công
ty lớn là Samsung và Huyndai. Chính Làn sóng Hàn Quốc đóng góp vai trò quan
trọng trọng xây dựng thương hiệu quốc gia Hàn Quốc.
8
Chương 2: VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG TRONG
QUẢNG BÁ HÌNH ẢNH VIỆT NAM
Khái quát chung về hình ảnh Việt Nam
2.1.
Việt Nam, một đất nước có lịch sử lâu đời, trải qua nhiều thăng trầm thế
sự, chiến tranh liên miên, lại nhiều sắc tộc chinh phục và đồng hóa, lai tạp nhiều
tôn giáo việc có nhiều di tích vừa là một điều tất nhiên, vừa là một may mắn.
Mỗi di tích được xem là một nhân chứng lịch sử, là “đại sứ” của các thời khắc
khác nhau trên hành trình lịch sử, cũng là thông điệp về bản sắc dân tộc. Không
chỉ những công trình, di tích do con người sáng tạo ra và để lại qua nghìn đời mà
mỗi hình sông,thế núi, hang động … đều có thể thành di tích.
Có di tích vật chất được xếp hạng về mỹ học nhưng cũng nhiều di tích chỉ
đơn thuần về tâm linh, tôn giáo, hoặc tưởng niệm. Tính đến tháng 8/2010, Việt
Nam có hơn 40.000 di tích, thắng cảnh trong đó có hơn 3000 di tích được xếp
hạng di tích quốc gia và hơn 5000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Mật độ và số
lượng di tích nhiều nhất ở 11 tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng với tỷ lệ chiếm
khoảng 70% di tích của Việt Nam.Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học,
di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh (gọi chung là di tích) cũng còn
được chia thành: Di tích cấp tỉnh; Di tích quốc gia; Di tích quốc gia đặc biệt; Di
sản thế giới.
Có thể nói, với một lực lượng hùng hậu hiện nay gồm 838 cơ quan báo in,
67 đài phát thanh, truyền hình, 92 báo, tạp chí điện tử và 01 hãng thông tấn quốc
gia, báo chí nước ta đã và đang có những đóng góp quan trọng vào việc bảo tồn
và phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc.
Thực tế thời gian qua cho thấy, hình ảnh Việt Nam xuất hiện trên các
phương tiện truyền thông quốc tế với tần suất thấp, thời lượng ít. Theo báo cáo
của một trung tâm truyền thông thuộc Đại học Harvard (Mỹ), trong hai năm
2012 và 2013, thời lượng các kênh truyền hình lớn trên thế giới dành cho Việt
Nam chỉ chiếm khoảng 0,03%, thấp hơn nhiều so với một số nước ở châu Á như
9
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Công, Malaysia… Thông
qua công tác điểm dư luận báo chí nước ngoài về Việt Nam và qua chuyên mục
Thế giới với Việt Nam của trang thông tin điện tử đối ngoại www.vietnam.vn,
Cục Thông tin đối ngoại (Bộ Thông tin và Truyền thông) nhận thấy lượng tin bài
tích cực về Việt Nam trên báo chí nước ngoài còn ít.
Sức lan toả của những thông tin tích cực trên báo chí Việt Nam còn hạn
chế, chưa tới được đông đảo đối tượng tiếp nhận trên thế giới, ít được trích dẫn
hoặc đưa lại trên các báo đài lớn của nước ngoài.
Các thông tin tích cực về Việt Nam chưa được phổ biến rộng rãi bằng các
thứ tiếng nước ngoài trên mạng xã hội như Facebook, Youtube.
Vai trò của truyền thông trong quảng bá hình ảnh của Việt Nam
2.2.1. Vai trò của truyền thông đối với quốc gia
2.2.
Quảng bá hình ảnh đất nước là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác
thông tin đối ngoại, nhất là trong bối cảnh đất nước ta hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng trên mọi lĩnh vực.
Việc quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới được tiến hành từ nhiều năm
nay, bằng nhiều con đường, do nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện.
Ngoài những chiến dịch hay chương trình quảng bá mang tính toàn cầu thì “tiếp
thị” hình ảnh đất nước tại từng quốc gia với các nội dung hướng tới đối tượng cụ
thể được coi như kênh quảng bá không kém phần hiệu quả.
Các phương tiện truyền thông đóng một vai trò quan trọng trong đời sống
xã hội không chỉ là kênh chủ yếu cung cấp kiến thức và thông tin mà chúng còn
là một công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải cách xã hội. Chúng đã trở
thành một định chế trong xã hội với những qui tắc và chuẩn mực riêng. Có thể
nói rằng, các phương tiện truyền thông đại chúng đã trở thành một phần không
thể thiếu trong đời sống của mỗi cá nhân và tòan xã hội.
Các phương tiện truyền thông cũng đã có một vị trí vô cùng quan trọng
trong xã hội. Nó là cầu nối giữa Đảng, Nhà nứơc với nhân dân, là vai trò trung
10
gian tạo diễn đàn cho người dân bộc lộ những suy nghĩ, quan điểm của mình về
các chủ trương, chính sách, đừơng lối của Đảng, Nhà nứơc.
Hệ thống các phương tiện truyền thông mà trung tâm là hệ thống báo chí
hiện nay phát triển rất mạnh mẽ, đã trở thành một thành tố rất quan trọng của xã
hội. Hệ thống này vừa là động lực, vừa là công cụ trong hoạt động tổ chức, quản
lí và nâng cao dân trí trong xã hội.Trong hoạt động của mình, hệ thống truyền
thông đại chúng đã thể hiện vai trò cũng như khả năng tạo sự tương tác xã hội,
hướng dẫn, định hướng hành vi hoạt động trong công chúng. Chính vì vậy,
truyền thông đại chúng trở thành một thiết chế xã hội, nó được coi là tác nhân cơ
bản làm hình thành các liên kết xã hội.
2.2.2. Truyền thông - phương tiện thúc đẩy kinh tế
Việt Nam mở cửa hội nhập và trở thành một mắt xích quan trọng trên thế
giới về các lĩnh vực kinh tế, thương mại, giao lưu văn hóa, truyền thông đại
chúng trở thành cầu nối quan trọng trong quá trình hoạt động, giao thương của
công chúng. Có thể nói truyền thông đại chúng và kinh doanh - thương mại là
các lĩnh vực có những điểm giao thoa, tương tác mật thiết, liên hệ qua lại với
nhau, nhất là trong thời kỳ đất nước hội nhập như hiện nay.
Trong xã hội hiện đại, thật khó hình dung sự không có mặt của sách, báo,
đài, Internet, điện ảnh, quảng cáo, quan hệ công chúng (PR). Nhờ có chúng,
thông qua chúng các vấn đề cốt tủy của doanh nhân như quảng cáo sản phẩm,
thông tin thị trường, tìm đối tác, ký hợp đồng thương vụ qua thư điện tử, mua bán hàng qua mạng được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả. Đồng thời, các vấn
đề thông dụng như quảng cáo có văn hóa - không vi phạm thuần phong mỹ tục
dân tộc, nhân cách- bản lĩnh doanh nhân, vấn đề then chốt như vai trò doanh
nhân trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc” xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông, được nhiều tầng lớp
xã hội quan tâm và có tác động nhất định đến quá trình xây dựng, phát triển văn
hóa, kinh tế - xã hội quốc gia…v.v...
11
Mở rộng đường dư luận rộng rãi về việc kế thừa, tiếp nối những yếu tố
tích cực, phát triển những điểm vượt trội của văn hóa dân tộc; loại bỏ những
những yếu tố không còn hợp thời, cản trở sự phát triển của văn hóa và kinh tế xã
hội để từ đó thống nhất quan niệm, nhận thức toàn xã hội, kể cả nhận thức của
giới kinh doanh.
Sự phát triển truyền thông và giao lưu quốc tế giúp công chúng Việt Nam
(gồm cả doanh nghiệp) có nhiều dữ liệu; thông tin phong phú, nhiều chiều, dân
chủ hóa trong quá trình gắn bó; phát triển văn hóa nước nhà - làm phông, nền,
chỗ dựa tinh thần vững chắc cho doanh nhân dân tộc;Truyền thông đại chúng tạo
dư luận rộng rãi, thúc đẩy nhiều đối tượng- không chỉ doanh nhân mà nhà nước,
xã hội cùng có trách nhiệm vun đắp, phát triển văn hóa dân tộc đúng hướng, có
bản sắc riêng, có tầm cao, trường tồn; Ngoài ra, truyền thông đại chúng góp ý,
phê phán sự thờ ơ, tha hóa, vô trách nhiệm của một số doanh nghiệp đối với văn
hóa nước nhà.
Nhờ sự phát triển ngày một hiện đại hơn, mạnh và rộng rãi hơn của các
phương tiện truyền thông đại chúng mà doanh nghiệp có thể quảng bá thương
hiệu của mình đến với người tiêu dùng nhanh hơn, cũng như có thể tiếp cận với
ngươi tiêu dùng dễ dàng hơn, và ngược lại người tiêu dùng cũng có thể đóng
góp hoặc phản ánh những điều không hài lòng của họ đối với doanh nghiệp
2.2.3. Vai trò của truyền thông trong thúc đẩy công tác thông tin đối ngoại
về an nih quốc phòng
Công tác thông tin đối ngoại về quốc phòng có vai trò quan trọng, nhất là
trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, giao lưu quốc tế giữa các quốc
gia là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; trong đó, cuộc đấu tranh về tư
tưởng, quan điểm và văn hóa ngày càng nổi lên, thậm chí gay gắt. Tình hình thế
giới, khu vực, nhất là trên Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, thay đổi nhanh
chóng, khó lường, tác động trực tiếp đến tình hình chính trị, kinh tế, quốc phòng,
12
an ninh của nước ta. Trong khi đó, lợi dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ và toàn cầu hóa thông tin đại chúng, nhất là sự phát triển của intơ-nét và các trang mạng xã hội, các thế lực thù địch xúc tiến mạnh mẽ việc liên
kết các tổ chức, lực lượng phản động trong và ngoài nước thúc đẩy các hoạt
động chống phá ta bằng mọi hình thức, thủ đoạn tinh vi, thâm độc, nguy hiểm.
Họ đã thành lập hàng trăm trang website phản động nhằm vào Việt Nam và cộng
đồng người Việt ở nước ngoài; trong đó, ra sức khai thác thông tin về mặt trái
của đời sống kinh tế - xã hội nước ta để thổi phồng, xuyên tạc, hòng tạo dư luận
trái chiều về Việt Nam, chống phá đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta, làm xấu hình ảnh Việt Nam trên thế giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác thông tin đối ngoại, trong đó có
thông tin đối ngoại về quốc phòng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đẩy
mạnh các hoạt động truyền thông đối ngoại để tuyên truyền chủ trương, chính
sách và những thành tựu trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, cùng những
đóng góp tích cực, có hiệu quả của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế. Qua đó,
khẳng định Việt Nam là “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế,
góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới”1, giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn, đúng hơn về nước ta, đồng tình ủng
hộ quan điểm của Việt Nam trong các vấn đề quốc tế.
Việc quảng bá hình ảnh đất nước hòa bình, ổn định, đang phát triển năng
động, là điểm đến an toàn và tin cậy của các nhà đầu tư cũng như về con người,
lịch sử và nền văn hóa lâu đời, phong phú, giàu bản sắc dân tộc của Việt Nam
được tiến hành thường xuyên thông qua nhiều kênh và bằng nhiều hình thức
khác nhau. Đây cũng là một trong những cách để chúng ta cung cấp thông tin
chính thống, có định hướng và chủ động đấu tranh hiệu quả với những luận điệu
xuyên tạc về Việt Nam, nhất là những vấn đề về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo,
biên giới lãnh thổ.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta trong tình hình mới rất nặng nề, đan xen cả thời cơ, thuận lợi và thách
13
thức, khó khăn. Theo đó, đặt ra những yêu cầu mới cả thuận lợi và thách thức
đối với công tác thông tin đối ngoại về quốc phòng; đòi hỏi cần phải chủ động,
nhạy bén, linh hoạt và sâu rộng hơn nữa trong công tác quan trọng này.
2.2.4.
Vai trò của truyền thông trong quảng bá di sản văn hóa
Nhận thức sâu sắc văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, và nền văn hóa mà
chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, báo chí đã
tích cực, chủ động tuyên truyền, giải thích các quan điểm, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác bảo tồn và phát huy giá trị các
di sản văn hóa dân tộc.
Thông qua việc tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu các di sản văn hóa dân
tộc với bạn bè quốc tế khắp năm châu trên báo chí, đã làm cho bạn bè quốc tế
thấy được những đóng góp to lớn của nền văn hóa Việt Nam vào kho tàng văn
hóa nhân loại, phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc trong giao lưu,
hội nhập về văn hóa với các quốc gia trên thế giới Báo chí cũng tập trung tuyên
truyền, phản ánh việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa,
khuyến khích sự tham gia của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong nước và
ngoài nước đóng góp kinh phí, công sức để tu bổ di tích, hiến tặng hiện vật cho
bảo tàng nhà nước Trong công tác thông tin, tuyên truyền, quảng bá đối với các
di sản văn hóa dân tộc, báo chí cũng đặc biệt quan tâm đến công tác bảo vệ môi
trường xung quanh các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, các lễ hội
truyền thống...
Thực tế những năm qua cho thấy, hầu hết các báo, đài đều xây dựng
chuyên trang, chuyên mục về đề tài văn hoá, trong đó ít nhiều đề cập đến nội
dung bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, đồng thời cũng phê phán, lên án
mạnh mẽ những hành vi xâm hại đến di sản văn hoá như những vụ việc xâm hại
đến di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, hoặc việc đưa các đồ thờ
cúng không rõ nguồn gốc, các linh vật ngoại lai vào các di tích lịch sử - văn
hóa... Sự sống và tương lai các di sản đè nặng trách nhiệm lên xã hội và lên vai
14
các nhà báo. Bởi điều có ý nghĩa quyết định nhất đến tương lai của di sản chính
là sự chăm lo và ủng hộ của cộng đồng. Mà điều có tác động mạnh mẽ, tức thời,
liên tục và rộng khắp tới cộng đồng lại chính là truyền thông và báo chí.
Chính vì vậy, trong những nỗ lực lớn lao của mình, xã hội cần phải đẩy
mạnh hơn nữa sự tham gia của báo chí và các hoạt động truyền thông trong việc
chuyển tải thông tin và giáo dục công chúng, giúp công chúng hiểu biết và tham
gia bảo vệ di sản, bảo vệ môi trường sinh thái của di sản
2.3.
Thành tựu và hạn chế trong việc sử dụng vai trò của truyền thông trong
quảng bá hình ảnh của Việt Nam
2.3.1. Thành tựu
Quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin đối ngoại. Trong những năm
tháng chiến tranh, mặc dù có rất nhiều khó khăn, nhưng ta đã làm rất tốt công
tác thông tin đối ngoại, góp phần tạo nên một mặt trận nhân dân thế giới rộng rãi
ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam. Sau chiến tranh, nhất là từ khi bắt đầu công cuộc
đổi mới đất nước, các hoạt động thông tin tuyên truyền đối ngoại tiếp tục nhận
được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước và tiếp tục có những bước
phát triển mới. Việt Nam được định vị như một quốc gia đang phát triển có tốc
độ tăng trưởng ổn định, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ổn định; thiên nhiên
tươi đẹp, có nhiều di sản văn hóa thế giới, truyền thống văn hóa đặc sắc, con
người Việt Nam yêu hòa bình, thân thiện, nhiều tiềm năng...
Công tác đối ngoại quốc phòng nói chung, thông tin đối ngoại quốc phòng
nói riêng đã được tăng cường, có bước phát triển mới, không những trực tiếp
đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn góp phần giải
quyết tốt các mối quan hệ với các nước, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định,
phát triển trong khu vực và trên thế giới. Trước những diễn biến phức tạp, đa
chiều của quan hệ quốc tế, Việt Nam bày tỏ lập trường, thái độ rõ ràng mang
tính xây dựng vì lợi ích của đất nước và của cộng đồng; đồng thời, không làm
15
ảnh hưởng đến quan hệ giữa nước ta với các nước, đến tiến trình hội nhập quốc
tế, được bạn bè và dư luận quốc tế hoan nghênh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước nhiều lĩnh vực xã hội đã có sự phát
triển rõ rệt. Hoạt động truyền thông đại chúng đã phát triển mạnh mẽ cả về số
lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Trong đường lối đổi mới toàn diện, nổi bật lên là vấn đề dân chủ hoá các
mặt của đời sống xã hội; Thực tế này đã tạo nên những diến biến mới mẻ trong
hoạt động thông tin báo chí ở nước ta. Báo chí hiện nay đã cơ bản hạn chế được
hình thức thông tin một chiều đơn điệu và ngày càng thể hiện được vai trò là cầu
nối giữa Đảng và Dân. Thông tin hai chiều được thực hiện trên báo chí: một mặt
tuyên truyền, giải thích đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
đến với công chúng mặt khác phản ánh những nguyện vọng, ý kiến phản hồi của
công chúng trong quá trình thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
Nói đến báo chí là nói đến các loại hình của nó như : Báo in, báo ảnh,
phát thanh, truyền hình, internet ...Đó là các bộ phận, các kênh thông tin cơ bản
nhất, cốt lõi nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất và xu hướng vận động của
thông tin đại chúng. Trong thực tế, mỗi loại hình báo chí có những thế mạnh và
những hạn chế riêng , chẳng hạn như: báo in có khả năng lưu trữ lâu, đồng thời
đi sâu phân tích chi tiết các sự kiện hiện tượng, công chúng của loại hình báo chí
này có thể tiếp nhận thông tin ở mọi nơi, mọi lúc mọi thời điểm khác nhau. Hạn
chế cơ bản của loại hình báo chí này là khó có khả năng phát hành rộng rãi tới
công chúng ở vùng sâu, vùng xa...Phát thanh, Truyền hình có thế mạnh là
nhanh,đồng thời, rộng khắp, hàng triệu triệu công chúng có thể tiếp nhận thông
tin đồng thời với thời điểm diễn ra sự kiện.
Vai trò của các phương tiện truyền thông hiện nay trong tạo lập dư luận xã
hội không thể phủ nhận được. Với các thiết bị máy móc ngày càng tinh vi, hiện
16
đại, sẽ là điều vô cùng thuận lợi cho các nhà báo tác nghiệp để đưa ra những
thông điệp khơi nguồn dư luận hiệu quả
2.3.2. Hạn chế
Tuy nhiên, trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển vô cùng nhanh
chóng, nhất là internet, một thực tế đang diễn ra là thông tin về Việt Nam vẫn
chỉ chiếm một phần nhỏ của truyền thông quốc tế. Hình ảnh Việt Nam chưa
được quảng bá tương xứng với tầm vóc, vị thế của đất nước, truyền thống văn
hóa, giá trị con người Việt Nam. Thông tin về tiềm năng hợp tác trong các lĩnh
vực kinh tế, thương mại, văn hóa, giáo dục, du lịch của Việt Nam vẫn chưa đến
được nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ. Thậm chí, người dân ở một số nước vẫn còn
chưa biết đến một đất nước Việt Nam đã thống nhất, phát triển, còn nhầm lẫn về
tên nước, quốc kỳ, quốc ca của Việt Nam.
Trong các hạn chế này có cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Trong phạm vi bài viết này, chỉ xin đề cập đến một số hạn chế, nguyên nhân và
giải pháp chủ yếu trong công tác tham mưu nhằm nâng cao chất lượng quảng bá
hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam ra nước ngoài.
Hoạt động quảng bá, giới thiệu đất nước, con người, văn hóa, nghệ thuật
Việt Nam thông qua hoạt động xúc tiến văn hoá, thể thao và du lịch, các hoạt
động giao lưu được tổ chức nhân dịp những ngày lễ lớn và những hoạt động đối
ngoại quan trọng của Việt Nam... tuy đã phát triển nhiều trong những năm gần
đây, với sự tham gia ngày càng rộng rãi của các ban, bộ, ngành, địa phương, tổ
chức xã hội, cá nhân nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả. Việc cung cấp tài liệu, ấn
phẩm ra nước ngoài, thông tin về các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, các lễ hội
của Việt Nam ở nước ngoài nhằm quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn
hóa nghệ thuật Việt Nam cho người nước ngoài, tổ chức quốc tế ở Việt Nam
chưa thật sự thường xuyên, kịp thời.
Công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành, phối hợp các lực lượng thông tin đối
ngoại có lúc còn bị động, chưa bài bản, sáng tạo, nên chưa phát huy được sức
17
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Chất lượng công tác tham mưu còn
hạn chế cả ở Trung ương và địa phương. Cơ chế phối hợp cung cấp thông tin
vẫn chưa thực sự có hiệu quả, đặc biệt là đối với những trường hợp mới nảy
sinh, nhạy cảm, liên quan đến các lĩnh vực như tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân
quyền, chủ quyền biên giới, lãnh thổ.
Nội dung tuyên truyền chưa đa dạng, phong phú, chưa đáp ứng đầy đủ
nhu cầu đa dạng của các nhóm đối tượng ở địa bàn ngoài nước và cả những
người nước ngoài ở Việt Nam. Nhiều thành tựu rất lớn của ta trên các lĩnh vực,
nhất là liên quan đến dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo và tự do báo chí
chưa được phản ánh đầy đủ, kịp thời và thuyết phục trên các phương tiện thông
tin đại chúng. Ấn phẩm tuyên truyền đối ngoại về Việt Nam chưa phong phú,
hấp dẫn. Các sản phẩm thông tin đối ngoại, đặc biệt bằng tiếng nước ngoài, chưa
được quan tâm phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Thông tin đối nội và đối ngoại vẫn chưa gắn kết, phối hợp nhịp nhàng;
thông tin còn chậm, có lúc thiếu nhất quán. Còn có những nội dung không chính
xác, chưa được kiểm chứng, tạo ra những sơ hở để các thế lực xấu lợi dụng.
Nhiều tờ báo trong nước, nhất là báo mạng đăng tải quá nhiều tin tiêu cực, vụ án
làm cho cộng đồng quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có cái
nhìn sai lệch về tình hình trong nước, ảnh hưởng trực tiếp đến hình ảnh đất
nước, uy tín, vị thế của Việt Nam.
Công tác đấu tranh phản bác các thông tin sai sự thật, luận điệu xuyên tạc
của các thế lực cơ hội, thù địch có lúc chưa kịp thời, còn ít về số lượng, chưa có
sức thuyết phục cao về lý luận và thực tiễn.
Tuy công tác thông tin đối ngoại về quốc phòng trong thời gian qua đã đạt được
những kết quả quan trọng, có nhiều đổi mới, nhưng vẫn chưa phát huy và khai
thác hết tiềm năng, nội dung chưa thật phong phú, thiếu hấp dẫn, sức thuyết
phục chưa cao.
18
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TRUYỀN THÔNG TRONG QUẢNG BÁ HÌNH ẢNH
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Để khắc phục những hạn chế nói trên, nhằm tiếp tục đẩy mạnh hoạt động
quảng bá hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài, cần phải tiến hành các giải pháp một
cách đồng bộ theo tinh thần Kết luận số 16 của Bộ Chính trị ngày 14-12-2012
về “Chiến lược phát triển công tác thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020” và
Chỉ thị số 26 ngày 10-9-2008 của Ban Bí thư về “Tiếp tục đổi mới và nâng cao
hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới". Theo đó, cần tập
trung làm tốt những việc sau đây:
3.1. Tích cực đổi mới về nội dung, phương thức truyền thông trong hoạt
động quảng bá hình ảnh Việt Nam
Để hình ảnh của Việt Nam được quảng bá tương xứng với tầm vóc, vị thế
của đất nước, cần đổi mới về cả nội dung và hình thức quảng bá hình ảnh quốc
gia thông qua các phương tiện truyền thông; tăng cường số lượng và chất lượng
các hoạt động quảng bá đất nước; nâng cao tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt và
tận dụng lợi thế của các phương tiện truyền thông trong hoạt động quảng bá hình
ảnh quốc gia; đồng thời tăng cường phối hợp giữa các cấp, ngành, địa phương.
Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020 của Bộ
Chính trị xác định cần sử dụng tối đa các lực lượng thông tin truyền thông trong
hoạt động thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh đất nước.
Nội dung của công tác quảng bá hình ảnh quốc gia thông qua các phương
tiện truyền thông bao gồm: Thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước; hình
ảnh đất nước, con người, lịch sử và văn hoá Việt Nam; tiềm năng, thế mạnh của
19
Việt Nam; khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa; đấu tranh, phản bác thông tin xuyên tạc, nhận định sai lệch về
Việt Nam.
Để nâng cao hình ảnh Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, các bộ, ngành,
địa phương cần đa dạng hoá các hình thức quảng bá, trong đó cần coi trọng các
phương thức và hoạt động sau:
Thực hiện tốt trách nhiệm phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí; tổ
chức các hoạt động truyền thông phục vụ các sự kiện chính trị - xã hội quan
trọng và các sự kiện đối ngoại lớn; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, bằng tiếng
Việt và các thứ tiếng nước ngoài, phục vụ tra cứu, tìm hiểu, nghiên cứu về Việt
Nam; đẩy mạnh công tác xuất bản phục vụ thông tin đối ngoại và phổ biến xuất
bản phẩm Việt Nam ra nước ngoài.
Đẩy mạnh tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam; xây dựng
các cụm thông tin tại khu vực cửa khẩu biên giới phục vụ nhiệm vụ thông tin đối
ngoại; tổ chức và tham gia các hoạt động quảng bá tại các hội nghị, hội thảo, hội
chợ, triển lãm quốc tế; tăng cường hợp tác, với các cơ quan thông tấn, báo chí có
uy tín trong khu vực và thế giới; tạo điều kiện thuận lợi để phóng viên nước
ngoài đến thăm và làm phim, viết bài, đưa tin về Việt Nam; hỗ trợ kiều bào trong
các hoạt động quảng bá hình ảnh đất nước; quảng bá Việt Nam trên các phương
tiện truyền thông nước ngoài.
3.2. Cần xác định rõ những giá trị nổi bật của nền văn hóa và con người Việt
Nam trong công tác quảng bá hình ảnh Việt Nam
Tránh tuyên truyền chung chung, thiếu sức thu hút với người nước ngoài.
Ví dụ: Hiện nay người nước ngoài rất quan tâm đến du lịch ẩm thực, du lịch sinh
thái tại Việt Nam, vì vậy cần có biện pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền về
khía cạnh này.
Xác định những địa bàn và nhóm đối tượng cần tập trung tuyên truyền.
Cần chú trọng những nước có quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, những
20
địa bàn có nhiều tiềm năng, các nước có nhiều người Việt Nam sinh sống, học
tập và làm việc... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược với nhiều
nước lớn trên thế giới, đây là điều kiện rất thuận lợi để đẩy mạnh hoạt động
quảng bá về đất nước và con người Việt Nam đến các quốc gia này.
Tiến hành rà soát hệ thống các cơ quan báo chí, kênh truyền thông đối
ngoại, xác định các phương tiện chủ lực tham gia công tác tuyên truyền, quảng
bá hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài, ưu tiên đầu tư cho những đơn vị có nhiều
ưu thế, tiềm lực và kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực thông tin đối ngoại
như: Thông tấn xã Việt Nam, kênh VTV4 Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng
nói Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC... Phát huy hơn nữa vai trò của
các cơ quan đại diện Việt Nam, văn phòng thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền
hình, các Nhà Văn hóa Việt Nam ở nước ngoài.
3.3. Tăng cường sự liên kết giữa các cơ quan trong công tác quảng bá hình ảnh
Tăng cường hiệu quả công tác chỉ đạo, phối hợp giữa Ban Chỉ đạo Công
tác thông tin đối ngoại, Ban Tuyên giáo Trung ương với các ban, bộ, ngành, đơn
vị, địa phương, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài trong các mặt
hoạt động cụ thể, bao gồm: triển khai các hoạt động thông tin, tuyên truyền đối
ngoại nhằm quảng bá về Việt Nam nhân các sự kiện lớn của đất nước cũng như
khu vực và quốc tế tổ chức tại Việt Nam; các hoạt động kỷ niệm năm chẵn, năm
tròn thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước; các hoạt động đối
ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân; các hoạt động quảng bá
tại nước ngoài như hội chợ, triển lãm, giao lưu; xúc tiến du lịch, hợp tác văn
hóa, thể thao; vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.
Trong thời gian vừa qua, Ban Chỉ đạo Công tác thông tin đối ngoại đã
phối hợp tốt với Bộ Ngoại giao, Bộ Thông tin và Truyền thông, Liên hiệp các tổ
chức hữu nghị Việt Nam, Ban Chỉ đạo Nhân quyền của Chính phủ... đẩy mạnh
công tác tuyên truyền về các chuyến thăm của lãnh đạo Việt Nam ra nước ngoài,
lãnh đạo các nước đến Việt Nam và một số sự kiện quan trọng khác, qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả công tác quảng bá đất nước. Thông qua các buổi giao
21
ban thông tin đối ngoại thứ sáu hằng tuần, Thường trực Ban Chỉ đạo đã kịp thời
chỉ đạo định hướng thông tin tuyên truyền đối với nhiều vấn đề, vụ việc quan
trọng, nhạy cảm, mới nảy sinh thu hút sự chú ý của dư luận, qua đó góp phần
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đối với dư luận.
3.4.
Khắc phục hạn chế các thông tin tiêu cực về hình ảnh Việt Nam
Một vấn đề rất quan trọng cần quan tâm giải quyết là nhanh chóng hạn
chế số lượng các thông tin tiêu cực trên các báo trong nước, nhất là các trang
điện tử, cân đối với các thông tin mang tính tích cực, làm cho cộng đồng quốc
tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có cái nhìn khách quan, chính xác
về tình hình trong nước, về các vụ việc cụ thể và hình ảnh của đất nước Việt
Nam nói chung. Cần phát huy vai trò quan trọng của các đồng chí Tổng biên tập,
tinh thần trách nhiệm, trình độ và đạo đức nghề nghiệp của phóng viên báo chí.
Chủ động và tích cực tham mưu định hướng và cung cấp thông tin về tình
hình trong nước, về các vụ việc mới nảy sinh trong nước, nhất là liên quan đến
các vấn đề quan trọng, nhạy cảm, qua đó hạn chế những thông tin không có lợi
đối với hình ảnh, uy tín của đất nước.
Tận dụng tốt hơn nữa vai trò rất quan trọng của báo chí nước ngoài, các
đoàn đại biểu, du khách nước ngoài đến Việt Nam, vai trò của cộng đồng người
ViệtNam ở nước ngoài. Tăng cường trao đổi các đoàn phóng viên báo chí trong
nước với nước ngoài để viết bài quảng bá về Việt Nam.
3.5.
Bố trí kinh phí hợp lý cho các hoạt động quảng bá hình ảnh Việt Nam ra
nước ngoài, tránh dàn trải, kém hiệu quả
Để tạo dựng hình ảnh một đất nước Việt Nam tích cực trong dư luận quốc
tế, tương xứng với uy tín, vị thế ngày càng tăng của đất nước, cần chủ động, tích
cực trong công tác chỉ đạo, phối hợp tham mưu định hướng giữa các cơ quan
Trung ương với địa phương, giữa các cơ quan trong nước với cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài, giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại
nhân dân, giữa thông tin đối ngoại với thông tin đối nội, nhằm phát huy sức
22
mạnh tổng hợp của cả hệ thống, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
KẾT LUẬN
Không có một công thức chung cho tất cả các quốc gia trong việc xây
dựng và quảng bá hình ảnh đất nước. Điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải tự tìm
hướng đi riêng cho mình để hội nhập và phát triển. Phong trào “Toàn cầu hoá”
các mặt đời sống kinh tế, chính trị - xã hội đã và đang tạo ra những cơ hội và
thách thức cho mỗi quốc gia nhất là những nước có nền kinh tế chậm phát triển,
đang phát triển phải đối mặt, và chịu ảnh hưởng rõ nét nhất; điều đó buộc các
quốc gia này hoặc tận dụng cơ hội để phát triển hoặc bị chìm ngập, hoà tan trong
cơn bão đó.
Điều quan trọng là mỗi quốc gia cần tìm ra và phát huy lợi thế so sánh của
mình với các quốc gia khác để tìm được con đường đi đúng đắn và phù hợp
nhất. Bên cạnh đó, cần quan tâm đánh giá đúng tầm quan trọng của hoạt động
“Xây dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia”, coi đây như là “một ngành công
nghiệp không khói”, phải được nghiên cứu kỹ và đầu tư đúng mức từ đó tạo
thành chiến dịch co quy mô rộng lớn.
Song song với hoạt động quảng bá dưới nhiều hình thức, chúng ta cũng
cần nghiên cứu đánh giá đúng mức ảnh hưởng của lĩnh vực truyền thông đại
chúng đối với “Xây dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia”. Truyền thông trong
nước và quốc tế phải được đầu tư một cách hệ thống cả về hình thức, nội dung,
về bề rộng cũng như bề sâu coi đây như là phương tiện then chốt để đạt được
mục tiêu đưa hình ảnh quốc gia đến với thế giới. Thắng lợi trên lĩnh vực truyền
thông sẽ góp phần lớn trong công cuộc đó.
Tuy quan tâm đến việc quảng bá hình ảnh, các quốc gia cũng không thể
coi đây là hoạt động duy nhất, là con đường “độc đạo” để thành công, mà bên
cạnh đó cần phải quan tâm phát triển lĩnh vực cần quảng bá trở thành lĩnh vực
thực sự nổi bật, độc đáo hơn đáp ứng ngày càng tốt hơn đòi hỏi của “toàn cầu
23
hoá” bởi trong cuộc “chiến” này người có sản phẩm độc đáo nhất sẽ là người
thắng cuộc vì “Sản phẩm hay dịch vụ tốt nhất phụ thuộc vào chính nhu cầu của
người sử dụng. Câu trả lời là không phải có cái tốt nhất mà là cái độc đáo nhất”
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Lê Thanh Bình, Quản lý và phát triển báo chí xuất bản, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
2. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại , từ hàn lâm đến
đời thường, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Trần Bích Hạnh, Để tạo nên độ tin cậy trên báo chí trực tuyến, Tạp chí
Người làm báo số tháng 4/2003, tr25.
4. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001.
5. Đinh Văn Hường, Về cơ chế người phát ngôn báo chí, Tạp chí Người làm
báo số tháng 9/2002.
6. Đinh Văn Hường và tập thể tác giả, Báo chí: Những vấn đề lí luận và
thực tiễn (5 tập), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1994, 1996, 1997, 2001, 2005.
7. Đinh Văn Hường và tập thể tác giả, Nghề báo, NXB Kim Đồng, 2006.
8. Trần Quang, Các thể loại báo chí chính luận, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2000.
9. Trần Hữu Quang (2009), Xã hội học về truyền thông đại chúng, NXB Đại
học Mở Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, Cơ sở lý luận báo chí
Truyền thông, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2004.
11. Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001.
12. Tập thể tác giả khoa Báo chí, Trường ĐH KHXH & NV, Thể loại báo chí,
NXB Đại học Quốc gia TP. HCM, 2005.
13. Tạp chí Thông tin Công tác tư tưởng, số 11/2001, Thúc đẩy quá trình đổi
mới, phát triển báo chí, xuất bản, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam.
14. TS Phạm Thắng, TS Hoàng Hải (Chủ biên), Vai trò của báo chí trong
phát triển doanh nghiệp, NXB Lao động, Hà Nội, 2005.
15. Nguyễn Uyển, Xử lý thông tin - việc của nhà báo, Nxb Văn hoá, thông
tin, Hà Nội, 2001.
24
Một số webbsai
16. Công ty nghiên cứu và đầu tư Quốc Việt, Vai trò của truyền thông -
truyền thông quan trọng như thế nào?, truy cập
ngày 9 tháng 11 năm 2016.
17. Công ty nghiên cứu và đầu tư Quốc Việt, Con đường khởi nghiệp - Chiến
lược
truyền
thông
cho
các
doanh
nghiệp
vừa
&
nhỏ,
truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2016.
18. Phạm Hải Chung, Sức mạnh của truyền thông trong tạo dựng hình ảnh
quốc gia, , truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2016.
19. PGS.TSKH Hoàng Ngọc Hà, Nâng cao chất lượng công tác tham mưu
trong quảng bá hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài, Tạp chí Tuyên giáo số
12, truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2016.
20. Mạng thông tin văn hóa, Bộ văn hóa,thể thao và du lịch, Vai trò của
truyền thông trong hoạt động bảo vệ di sản ở Việt nam, ,
truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2016.
21. ThS. Phạm Huy Thông, Bàn về vai trò của truyền thông và truyền thông
đại chúng với việc quảng bá thương hiệu các trường đại học ,
truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2016.
22.
23.
24.
25