Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận truyền thông đại chúng, diễn biến hòa bình trên các phương tiện truyền thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.61 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”.....4
1.1. Một số khái niệm........................................................................................4
1.1.1. “Diễn biến hòa bình”..............................................................................4
1.1.2. Bạo loạn lật đô........................................................................................4
1.1.3. Gây rối.....................................................................................................4
1.2 Quá trình hình thành và phát triển của chiến lược “Diễn biến hòa bình”...4
1.3 Bản chất và mục tiêu...................................................................................5
Chương 2: DIỄN BIÊN HÒA BÌNH TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN
THÔNG ĐẠI CHÚNG HIỆN NAY........................................................7
2.1. Cách thức truyền thông trên các phương tiện về phòng chống hoạt động
chống phá nước ta của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “Diễn
biến hòa bình”.........................................................................................7
2.2. Vai trò của truyền thông đại chúng trong việc phòng chống âm mưu diễn
biến hòa bình hiện nay..........................................................................18
KẾT LUẬN.....................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................23


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn 20 năm qua
đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa lại cho nước ta
một sự thay đổi cơ bản và toàn diện, làm cho thế lực và uy tín của nước ta
được nâng cao trên trường quốc tế. Để giữ vững và tiếp tục đưa sự nghiệp đổi
mới đất nước đạt được những thành tựu lơn hơn, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta phải tận dụng tốt thời cơ vận hội, đồng thời phải đẩy lùi nguy cơ,
thách thức, nêu cao tinh thầ cảnh giác cách mạng, chủ dộng và kiên quyết đấu
tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và


phi chính hóa quân đội” của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực trong nước đang có nguy cơ
diễn biến phức tạp; sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ngoài những thời cơ, thuận lợi cũng đang gặp không ít những khó
khăn, thánh thức. các thế lực thù địch ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thực hiện “phi chính trị hóa quân đội” với nhiều
thủ đoạn tinh vi, thâm độc và xảo quyệt nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
Về chính trị, chúng cố tình xuyên tạc đi đến hạ bệ chủ nghĩa MácLêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị và thể chế chính trị do
Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo…; từ đó gây tự diễn biến hòng tạo ra sự
khủng hỏng về chính trị, làm chệch hướng và sụp dổ chế độ chính trị xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Về kinh tế , chúng chống phá đường lối, chính sách kinh
tế; thúc đẩy chuyển hóa cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế; thúc đẩy, chuyển
hóa nền kinh tế của nước ta sang quĩ dạo tư bản chủ nghĩa. Về văn hóa- xã
họi chúng chống phá đường lối, chính sách văn há xã hội; thúc đẩy sự biến
đổi chệch hướng giá trị văn hóa, đạo đức; lợi dụng các mâu thuẫn các vấn đề
dân tộc tôn giáo, nhân quyền và dân quyền… để chống phá đảng và Nhà nước
1


ta; từ đó thúc đẩy sự thoái hóa về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ
Đảng viên và nhân dân ta. Về quốc phòng, an ninh, chúng chống phá về
đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta,
thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội và công an …tạo bước
chuyển hóa lực lượng vũ trang, can thiệp quân sự và xâm lược nước ta khi
điều kiện chín muồi.
Bản chất của chiến lược diễn biến hòa bình là không hề thay đổi, song
phương thức, thủ đoạn, âm mưu thì biến hóa khôn lường và ngày càng tinh vi,
xảo quyệt. Đấu tranh phòng, chống “ diễn biến hòa bình”, tự “ diễn biến”

không chỉ là vấn đề có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam mà còn là
nhiện vụ cấp thiết trước mắt và cơ bản laau dài của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta. Do vậy , vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn “ diễn biến hòa
bình là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta trong tình hình hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên và tính cấp thiết của diễn biến hòa bình
và trong bối cảnh báo chí đối ngoại và các mối quan hệ truyền thông quốc tế
mà người viết chọn đề tài “diễn biến hòa bình trên các phương tiện truyền
thông đại chúng” để nghiên cứu.

2


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. “Diễn biến hòa bình”
- “Diễn biến hòa bình” là chiến tranh trong hòa bình, hay chiến tranh
dưới cái tên gọi hòa bình.
- Là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm tấn công, tiến tới xóa bỏ
chế độ xã hội chủ nghĩa bằng con đường hòa bình.
- Các nước đế quốc thực hiện thường xuyên lâu dài và trên qui mô toàn
thế giới.
1.1.2. Bạo loạn lật đô
“Bạo loạn lật đổ” là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức của
lực lượng phản đông, gây rối loạn trật tự an ninh xã hội, nhằm lật đổ chính
quyền tiến bộ (cách mạng) thiết lập chính quyền phản cách mạng.
1.1.3. Gây rối
Gây rối là hành động quá khích của một số người làm mất ổn định trật
tư, an toàn xã hội ở một khu vực ( thường là địa bàn nhỏ, hẹp) trong một thời

gian nhất định (thường là thời gian ngắn)
1.2 Quá trình hình thành và phát triển của chiến lược “Diễn biến hòa
bình”
Ngay từ khi còn thực hiện cuộc Chiến tranh lạnh, đối đầu về quân sự,
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội đã sử dụng các
biện pháp “diễn biến hòa bình” hỗ trợ cho phương thức vũ trang chống các
nước xã hội chủ nghĩa. Điều đó không phải do chúng ta gán ghép hay suy
diễn mà thể hiện rõ trong các âm mưu chiến lược của chủ nghĩa đế quốc từ
những năm 50 của thế kỷ XX. Chiến lược “phản ứng linh hoạt” với chính
sách “mũi tên và cành ô liu” những năm 60, chiến lược “răn đe thực tế” với
chính sách “cây gậy và củ cà rốt” những năm 70 của chủ nghĩa đế quốc, đã
được triển khai liên tục, ráo riết chống các nước xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng
3


hòa bình chủ nghĩa, mất cảnh giác với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch xuất hiện khá phổ biến ở các nước Đông Âu và Liên Xô thời kỳ này đã
lấn át tư tưởng, ý chí cách mạng, quan điểm đấu tranh dân tộc và đấu tranh
giai cấp, từ đó, ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản ngày càng mở rộng trong
lòng các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Bước vào những năm 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản, sau những
năm điều chỉnh, đã đạt được sự ổn định và có bước phát triển. Trong khi đó,
do sai lầm kéo dài về nhiều phương diện, nhiều nước xã hội chủ nghĩa bắt đầu
lâm vào khủng hoảng, và khi thực hiện đường lối cải cách, cải tổ sai lầm,
càng dẫn tới khủng hoảng trầm trọng hơn. Lợi dụng cơ hội này, chủ nghĩa đế
quốc hoàn thiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, coi đó là chiến lược cơ bản
để giành thắng lợi cuối cùng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Đến năm 1989, 1990,
khi nội tình các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã bộc lộ toàn
diện sự khủng hoảng trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội, chủ nghĩa đế quốc đã dùng các thủ đoạn “diễn biến hòa bình”,

bạo loạn lật đổ đánh đòn quyết định làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở các nước
này.
1.3 Bản chất và mục tiêu
* Bản chất
Về bản chất, so với các chiến lược và mục tiêu trong thời kỳ Chiến
tranh lạnh, chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống đến cùng chủ nghĩa
xã hội là không thay đổi. Trong tình hình và thời cơ mới, chiến lược này chỉ
thay đổi phương thức và thủ đoạn, đó là “chiến thắng không cần chiến tranh”,
“không đánh mà thắng” hoặc “một cuộc cách mạng nhung”, “cách mạng sắc
màu”, có nghĩa là, về bản chất sâu xa, họ vẫn tiến hành một cuộc chiến tranh,
nhưng như họ đã từng tuyên bố, đó là “một cuộc chiến tranh không có khói
súng”. Điều đó có nghĩa là mục đích cuối cùng của chiến lược “diễn biến hòa
bình” là xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa.
* Mục tiêu
4


Một là, xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin để thay thế bằng hệ tư tưởng tư
sản trong các nước xã hội chủ nghĩa. Các nhà lý luận của chiến lược “diễn
biến hòa bình” cho rằng, tư tưởng là lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu, vì
vậy, mục tiêu phải đạt tới là tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương và coi đó
là khâu đột phá của chiến lược “diễn biến hòa bình”.
Hai là, xóa bỏ sự lãnh đạo của đảng cộng sản, thực hiện đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập trong các nước xã hội chủ nghĩa. Luận điệu được sử
dụng thường xuyên là đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo là “độc tài”, là “bóp
nghẹt dân chủ”, vì thế phải thay thế bằng chế độ chính trị đa đảng! Từ đó, tìm
mọi cách nhen nhóm các lực lượng phản động chống đối, cơ hội chính trị
trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Ba là, gây mất ổn định về chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Thủ đoạn thường xuyên được sử dụng là lợi dụng, kích động những vấn đề

“dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để gây mâu thuẫn nội bộ, phá
vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ lôi kéo một bộ phận quần chúng
vào các cuộc bạo loạn chính trị. Các thế lực thù địch bỏ ra nhiều công sức và
cả tiền bạc để lôi kéo, tập hợp “những người bất đồng chính kiến”, thực chất
là những phần tử chống chủ nghĩa xã hội, phủ nhận sự lãnh đạo của đảng
cộng sản, dùng họ làm “cơ sở”, “nội ứng” cho việc thực hiện âm mưu “diễn
biến hòa bình”.
Bốn là, làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới chi
phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế.
Năm là, chuyển hóa văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo
quỹ đạo và các giá trị phương Tây, từ đó làm biến đổi theo chiều hướng tiêu
cực và tha hóa con người, dẫn tới biến chất cả một xã hội.
Sáu là, “phi chính trị hóa” để vô hiệu hóa quân đội và công an

5


Chương 2
DIỄN BIÊN HÒA BÌNH TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN
TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG HIỆN NAY
2.1. Cách thức truyền thông trên các phương tiện về phòng chống
hoạt động chống phá nước ta của các thế lực thù địch thông qua chiến
lược “Diễn biến hòa bình”
Bản chất và âm mưu thâm độc của chiến lược diễn biến hoà bình do các thế
lực thù địch sử dụng ở nước ta là: núp dưới những hình thức, thủ đoạn “hoà
bình”. Đây là cuộc chiến tranh không có biên giới, vì nó diễn ra trong mọi
mặt đời sống xã hội, từ từ thẩm thấu qua các chiêu bài chủ yếu như: lợi dụng
phương tiện thông tin đại chúng, tình báo, thư, tiền, hàng..... lợi dụng tôn
giáo, dân tộc để kích động gây bạo loạn lật đổ... Những thủ đoạn, nội dung
diễn biến hoà bình mà các thế lực thù địch đã sử dụng ở nước ta thường là:

thực hiện tổng hợp các biện pháp, chống phá trên mọi mặt của đời sống xã hội
từ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đến quốc phòng, an ninh và sẵn sàng gây
bạo loạn lật đổ.
Cụ thể như:
- Truyền thông về chính trị tư tưởng: các thế lực thù địch coi đây là
mặt trận hàng đầu để tập trung chống phá. Chúng chống phá về hệ tư tưởng,
quan điểm đường lối của Đảng, xuyên tạc đi đến hạ bệ chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị và thể chế chính trị do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo... từ đó gây “tự diễn biến”, khủng hoảng
về chính trị, làm chệch hướng và sụp đổ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở
nước ta; chống phá, đánh vào tổ chức, nhân sự nội bộ của ta; kích động vấn
đề dân chủ, nhân quyền, bôi xấu chế độ; chúng tiến hành xuyên tạc, phủ nhận
thành tựu cách mạng, thành tựu đổi mới của dân tộc ta.
Ví dụ như:
Thông tin đối ngoại về vấn đề Biển Đông cho học sinh, sinh
viên Việt Nam ở nước ngoài
6


Trong bối cảnh tình hình thế giới ngày càng diễn ra phức tạp, nhiệm vụ
đặt ra cho công tác thông tin đối ngoại là hết sức to lớn. Ngoài những thành
công đã đạt được trong thời gian vừa qua, công tác thông tin đối ngoại cần phải
được đẩy mạnh trong thời gian tới đây nhằm cung cấp nhiều thông tin chi tiết,
cụ thể hơn cho du học sinh Việt Nam ở nước ngoài. Trên cơ sở một số thông tin
bước đầu nêu trên, người viết nêu một vài khuyến nghị sau:
1- Cần xác định, du học sinh Việt Nam ở nước ngoài là một đối tượng
quan trọng, có tính riêng biệt của công tác thông tin đối ngoại.
2- Cần nghiên cứu sâu về xu hướng tìm kiếm thông tin của du học sinh,
nhằm có được những thay đổi, định hướng thông tin kịp thời, tránh hiện tượng
du học sinh Việt Nam thiếu thông tin hoặc hiểu sai về đất nước, mất niềm tin
vào chế độ và tương lai của đất nước.

3- Cần sớm khảo sát, nghiên cứu về phương tiện thông tin và số lượng du
học sinh theo dõi, thu thập thông tin qua các kênh đối ngoại của ta ở các khu
vực trên thế giới, trên cơ sở đó lựa chọn đầu tư, xây dựng loại hình truyền
thông phục vụ thông tin đối ngoại phù hợp. Theo người viết thì nên tập trung
xây dựng một vài báo điện tử đang được du học sinh hay truy cập, cung cấp
các thông tin về cơ sở pháp lý, tài liệu lịch sử khẳng định chủ quyền biển đảo
của Việt Nam. Các trang báo điện tử cũng cần phải thay đổi, quan tâm đổi mới
cả hình thức và nội dung cho phù hợp với độc giả trẻ là du học sinh.
4- Sử dụng du học sinh Việt Nam là một nguồn cung cấp thông tin cho
bạn bè quốc tế nhờ vào khả năng ngoại ngữ của nhóm đối tượng này, tận dụng
mọi nguồn lực thực hiện công tác tuyên truyền, trong đó có hội sinh viên các
trường Đại học trên thế giới, đặc biệt là các trường đại học ở Trung Quốc.
5- Tăng cường tổ chức các sự kiện, mở lớp tập huấnvề các chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về vấn đề Biển Đông cho học sinh, sinh viên Việt Nam ở
nước ngoài.
6- Lưu học sinh Việt nam sống và học tập chung trong môi trường quốc
tế, hàng ngày tiếp xúc, giao lưu và đối mặt với những câu hỏi từ bạn bè quốc tế
không chỉ về biển đảo mà các vấn đề lịch sử khác nên cần trang bị kiến thức

7


lịch sử vững vàng. Do khoảng cách xa xôi về địa lý, các phương tiện truyền
thông là phương tiện duy nhất giúp lưu học sinh Việt nam tìm hiểu và tiếp nhận
thông tin từ nước nhà. Thông qua các kênh truyền thông này, công tác thông tin
đối ngoại sẽ tiếp cận gần hơn với lưu học sinh Việt Nam, cung cấp những kiến
thức mà họ cần phải được trang bị như cơ sở pháp lý, công ước về luật biển, tài
liệu lịch sử về biển đảo. Bên cạnh đó, lưu học sinh Việt Nam cần được cung
cấp thông tin thời sự thường xuyên tránh lạc hậu, giúp họ có tư tưởng và lập
trường vững chắc.


- Truyền thông về các hoạt động phá hoại về kinh tế, tài chính của
thế lực thù địch: trong các thủ đoạn diễn biến hoà bình, kẻ địch xác định mặt
trận kinh tế là mũi nhọn. Chúng chống phá đường lối, chính sách kinh tế; thúc
đẩy chuyển hoá cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế, xâm nhập, chiếm lĩnh các
địa bàn, các lĩnh vực kinh tế quan trọng...; từ đó thúc đẩy, chuyển hóa nền
kinh tế của nước ta sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Mục đích là làm chuyển
hoá chế độ kinh tế, qua đó làm thay đổi về chế độ chính trị của chúng ta theo
con đuờng tư bản chủ nghĩa. Lợi dụng cơ chế thị trường và chính sách mở
cửa, bằng mọi phương tiện, hình thức trong quan hệ với ta như: đầu tư, hội
thảo, thăm quan, giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm để tuyên truyền, kích động
tư nhân hoá nhằm xoá bỏ ranh giới kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta và kinh tế thị trường TBCN, qua đó dần lái nền kinh tế của ta theo
hướng TBCN.
- Truyền thông về sự chống phá trên mặt trận văn hoá - xã hội: đây
là lĩnh vực gần gũi nhất trong đời sống xã hội. Kẻ địch xác định đây là mảnh
đất thuận lợi cho chúng thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình. Chúng chống
phá đường lối, chính sách văn hoá - xã hội; thúc đẩy sự biến đổi chệch hướng
giá trị văn hoá, đạo đức; biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp; lợi dụng các mâu
thuẫn, khiếu kiện, các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền và dân chủ…
để chống phá Đảng, Nhà nước ta; từ đó thúc đẩy sự suy thoái về tư tưởng, đạo
đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Trên mặt trận này chúng
8


tập chung tuyên tuyền, kích động, khuyến khích lối sống thực dụng chạy theo
đồng tiền, dần dần làm suy thoái đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục, bản
sắc văn hóa dân tộc.... làm cho chúng ta hoang mang, xa rời lý tưởng, gây rối
loạn chính trị, xã hội. Âm mưu này chúng tập trung vào những đối tượng là
thanh niên, học sinh, sinh viên và giới văn nghệ sỹ hoạt động trên lĩnh vực

văn hoá nghệ thuật. Lợi dụng những phương tiện liên lạc hiện đại như điện
thoại di động, mạng Internet, sách báo, băng hình... để tuyên truyền văn hoá
phẩm đồi trụy. Gần đây, tệ nạn ma tuý học đường, thuốc lắc phát triển cũng
không nằm ngoài thủ đoạn diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
Ví dụ như:
Bảo đảm an ninh văn hóa - tư tưởng trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế
Bùi Quảng Bạ
Thiếu tướng, GS, TS, Phó Tổng cục trưởng, Viện trưởng Viện Chiến lược
và Khoa học Công an
TCCSĐT - Một trong những đặc điểm nổi bật của thế giới ngày nay là
tiến trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Từ sự toàn cầu hóa về kinh
tế đang lan tỏa sang tất cả các lĩnh vực khác và có tác động sâu sắc đến mọi
mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc, thậm chí đến cuộc sống, sinh hoạt của
từng cá nhân. Hệ quả tất yếu của quá trình này là sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng chặt chẽ.
Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cũng đang chịu những tác
động hết sức to lớn từ tiến trình toàn cầu hóa. Chúng ta có nhiều thời cơ, vận
hội mới để phát triển đất nước, nhưng cũng gặp không ít nguy cơ, thách thức
lớn, đặc biệt đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Toàn cầu hóa đang tác
động sâu sắc, tạo nên những thay đổi ở các cấp độ khác nhau trên tất cả các
lĩnh cực của đời sống xã hội ở nước ta, trong đó, bên cạnh những tác động tích
cực là những tác động tiêu cực, đe dọa sự ổn định chính trị - xã hội. Tham gia
vào tiến trình toàn cầu hóa, là thành viên của các định chế kinh tế, tài chính thế
giới, Việt Nam phải tuân thủ những quy định ràng buộc của các tổ chức này,
cùng với áp lực cạnh tranh kinh tế, yêu cầu cải cách hệ thống pháp luật. Đây là

9



điều kiện để các thế lực thù địch gia tăng hoạt động tác động nhằm thay đổi
bản chất nền kinh tế và thể chế chính trị ở nước ta. Mặt khác, tham gia toàn cầu
hóa với xuất phát điểm của một nền kinh tế còn chậm phát triển, tiềm lực chưa
mạnh, năng lực và sức cạnh tranh thấp, trình độ quản lý còn nhiều hạn chế, đặt
ra nguy cơ nhiều vấn đề dễ bị lệ thuộc vào nước ngoài, khả năng phải đối phó
với những biến động của nền kinh tế thế giới cùng những hoạt động phá hoại
của các thế lực thù địch trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội là rất lớn.
Trong bối cảnh chung đó, về mặt tích cực, nhờ mở rộng không gian giao
lưu quốc tế, chúng ta có khả năng, điều kiện nâng cao tầm nhìn, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, nâng cao sự hiểu biết về nền văn hóa thế giới, làm
phong phú thêm đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc Việt Nam. Song, về
mặt tiêu cực, văn hóa là một trong những lĩnh vực chịu nhiều tác động, ảnh
hưởng nhất từ tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, bởi đây là lĩnh vực
nhạy cảm. Thực tiễn công tác bảo vệ an ninh quốc gia cho thấy, trong lĩnh vực
an ninh văn hóa - tư tưởng đang có những diễn biến rất phức tạp:
Thứ nhất , sự gia tăng âm mưu, hoạt động lợi dụng tiến trình hội nhập
quốc tế chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch. Âm mưu cơ bản và lâu
dài của chúng là từng bước thâm nhập, tác động, chuyển hóa, đẩy lùi hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa ra khỏi đời sống chính trị - xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm phai nhạt bản sắc và truyền thống văn
hóa dân tộc, tạo thuận lợi cho các hoạt động chống đối, lật đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Để thực hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch đã và đang
đẩy mạnh các hoạt động chủ yếu như:
- Tăng cường tuyên truyền phá hoại tư tưởng bằng nhiều hình thức, thủ
đoạn khác nhau. Trong đó, các thế lực thù địch đặc biệt chú ý sử dụng các
phương tiện truyền thông đại chúng để tuyên truyền các luận điệu phản động,
phản bác chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận thành quả cách mạng của nhân dân ta;
truyền bá hệ tư tưởng tư sản, cổ súy cho các “giá trị” của “văn minh”, “văn
hóa” phương Tây và đề cao các vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”..., từ

đó cổ vũ, kích động các tổ chức phản động người Việt lưu vong và các phần tử
trong nước hoạt động chống đối chế độ.

10


- Bằng nhiều con đường khác nhau, các sản phẩm văn hóa được dùng để
phát tán, tuyên truyền những quan điểm phản động, sai trái; tìm cách chuyển
trái phép vào nước ta các loại đĩa, sách báo, tranh ảnh, ấn phẩm văn hóa có nội
dung phản động, trái với thuần phong mỹ tục, phong tục, tập quán, bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam nhằm làm tha hóa lớp trẻ, băng hoại đạo đức xã hội.
- Thâm nhập nội bộ các cơ quan văn hóa, tác động phá hoại, hướng lái
các hoạt động văn hóa theo hướng li tâm, tách dần khỏi sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước. Thông qua hoạt động đối ngoại tìm cách tài trợ cho
các cơ quan, tổ chức hoạt động và dịch vụ văn hóa văn nghệ, các cơ quan
thông tin, báo chí, xuất bản, giáo dục - đào tạo của Việt Nam để có điều kiện
tác động tư tưởng, trước hết nhằm vào đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, những
người làm công tác tham mưu, hoạch định chính sách để lôi kéo, âm mưu tạo
dựng các “nhân tố” trong nội bộ các cơ quan văn hóa phục vụ hoạt động chống
phá ta về lâu dài.
- Được các thế lực thù địch và bọn phản động bên ngoài khích lệ, chỉ
đạo, số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị tìm cách tụ tập, hình thành các hội,
nhóm dưới danh nghĩa hoạt động văn hóa, văn nghệ để cho ra đời tổ chức
chính trị đối lập, lợi dụng các vấn đề tự do, dân chủ để tuyên truyền, lôi kéo
người tham gia.
Thứ hai , trong quá trình mở cửa, hội nhập, các trào lưu tư tưởng tư sản
đã và đang thâm nhập vào nước ta thông qua nhiều con đường khác nhau, trong
khi hệ thống lý luận của chúng ta đang có những khoảng trống, nhiều vấn đề
mới đặt ra chưa được nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện. Trước tình hình đó,
nếu chúng ta không chủ động có giải pháp, ngăn ngừa thì tác động của hệ tư

tưởng tư sản đối với các giai tầng xã hội không phải là nhỏ. Các “giá trị” văn
hóa, lối sống tư sản cũng có điều kiện thâm nhập, thẩm thấu, phát triển, làm
phai nhạt, mất dần bản sắc văn hóa dân tộc, thậm chí có thể làm đảo lộn các giá
trị văn hóa, lối sống xã hội chủ nghĩa. Các khuynh hướng này cùng với sự tác
động hằng ngày của các hình thức, các sản phẩm văn hóa nước ngoài đã khiến
một bộ phận cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân mất phương hướng; các
chuẩn mực giá trị có nguy cơ xuống cấp, dẫn đến sự suy thoái, biến chất về văn
hóa, lối sống.

11


Thứ ba , trong bối cảnh toàn cầu hóa, những biến động về chính trị, kinh
tế ở các nước luôn tác động và lan tỏa nhanh, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh
quốc gia của Việt Nam, trước hết là đến lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Cuộc
khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội kéo theo sự khủng hoảng về lý luận đã tác
động tiêu cực đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, làm cho
một bộ phận dao động, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, tư tưởng hướng ngoại, sùng bái các “giá trị” văn
hóa, lối sống tư sản phương Tây nảy sinh. Biến động chính trị ở các nước trên
thế giới đã cổ vũ và cung cấp kinh nghiệm cho các phần tử phản động, cơ hội
chính trị tiến hành các hoạt động phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.
Thứ tư , mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động tiêu cực tới lĩnh vực
văn hóa, làm xuất hiện trong xã hội xu hướng thương mại hóa, tư nhân hóa, xa
rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động văn hóa, văn nghệ. Trong khi đó, công
tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ và hoạt động văn hóa cũng còn nhiều bất
cập, yếu kém, ảnh hưởng tới an ninh trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng. Xuất
hiện một số tác phẩm văn hóa, các bài báo, những ấn phẩm văn hóa có nội
dung nhạy cảm về chính trị, thậm chí trái với quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng; nhiều tác phẩm có nội dung khiêu dâm, đồi trụy, kích động bạo

lực, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Công tác đấu tranh chống các
quan điểm sai trái còn thụ động và thiếu sắc bén, công tác nghiên cứu lý luận
chưa theo kịp với thực tiễn - đó là điều kiện để các quan điểm, tư tưởng sai trái,
thù địch nảy sinh và lan truyền, tác động đến các giai tầng xã hội, nhất là lớp
trẻ.
Trước tình hình trên, để chủ động trong công tác bảo đảm an ninh trên
lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, góp phần hạn chế những nguy cơ, thách thức và
tranh thủ thời cơ do tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mang lại, phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần thực
hiện tốt một số chủ trương và giải pháp sau:
Một là , cần thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
về công tác bảo vệ an ninh văn hóa - tư tưởng. Phải xác định rằng công tác bảo
vệ an ninh văn hóa - tư tưởng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, dưới sự lãnh đạo
trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước,
phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, với sự tham gia

12


tích cực, có hiệu quả của các cơ quan, ban, ngành chức năng, các tổ chức xã
hội, đoàn thể quần chúng. Trọng tâm của công tác bảo vệ an ninh văn hóa - tư
tưởng hiện nay là phải làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền về đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để toàn Đảng, toàn dân, các
ngành, các cấp quán triệt thực hiện đúng. Phải bảo vệ và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; thúc đẩy giao lưu và hợp tác hóa
trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; góp phần ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng
cao đời sống của nhân dân lao động. Đặc biệt, cần quán triệt phương châm cơ
bản trong bảo vệ an ninh văn hóa - tư tưởng là phải coi trọng chủ động phòng
ngừa, giữ vững bên trong là chính. Mặt khác, phải đấu tranh, ngăn ngừa kịp

thời các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch và các phần tử chống đối
chế độ một cách quyết liệt và sắc bén.
Hai là , quan tâm chỉ đạo và tổ chức thường xuyên công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, truyền thống; khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc, đề cao các
giá trị văn hóa dân tộc, đạo đức, lối sống lành mạnh của người Việt Nam. Các
cấp, các ngành cần tăng cường các hình thức tuyên truyền giáo dục trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam, niềm tự hào dân tộc; nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh kịp
thời, kiên quyết làm thất bại âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù
địch. Đẩy mạnh học tập, thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng về văn
hóa, văn nghệ. Cần làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ trách nhiệm phải
kiên quyết đấu tranh với tư tưởng sùng bái cái gọi là các “giá trị” của phương
Tây, xem nhẹ các giá trị văn hóa dân tộc, tâm lý hoài nghi vào cách mạng, lối
sống vị kỷ; lên án những quan điểm trọng vật chất - nhẹ tinh thần, trọng cá
nhân - nhẹ tập thể; trọng trước mặt - nhẹ lâu dài, các biểu hiện suy đồi đạo đức.
Chú trọng bảo vệ môi trường văn hóa văn minh, trong sáng, lành mạnh ở mỗi
gia đình, cơ quan và trong toàn thể tập thể.
Ba là , đầu tư phát triển, tăng cường sự chỉ đạo, quản lý, nâng cao hiệu
quả hoạt động của các cơ quan phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản, văn
hóa, nghệ thuật, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, xây dựng nếp sống văn
minh, văn hóa trong xã hội; xây dựng con người Việt Nam mới xã hội chủ
nghĩa có lập trường, tư tưởng vững vàng, có tri thức, giàu tình cảm, có đạo đức

13


cách mạng trong sáng và lối sống lành mạnh. Không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân; ngăn ngừa các khuynh hướng “thương mại
hóa”, “tư nhân hóa” hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ. Nâng cao
hiệu quả công tác quản lý các hoạt động hợp tác quốc tế về văn hóa, nghệ

thuật, giáo dục - đào tạo. Chấn chỉnh những lỏng lẻo, sơ hở, không để các đối
tác, các thế lực thù địch lợi dụng tác động, hướng lái, chuyển hóa, phá hoại,
gây phức tạp về an ninh - trật tự. Chọn lọc nhập khẩu những sản phẩm văn hóa
có nội dung tốt, có giá trị về nghệ thuật; đồng thời không để báo chí, phim ảnh
và các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy thâm nhập vào nước ta, phá hoại
bản sắc văn hóa dân tộc.
Bốn là , tăng cường công tác lãnh đạo các hoạt động báo chí, xuất bản
phát thanh, truyền hình, nhất là trong việc định hướng chính trị - tư tưởng;
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Trước
mắt, cần rà soát, sửa đổi, ban hành mới các văn bản pháp luật, tạo hành lang
pháp lý nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý trong các hoạt động văn hóa, văn
nghệ. Các ngành, các cấp chủ động phát hiện, kiến nghị chấn chỉnh những vi
phạm, sơ hở, lỏng lẻo trong quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng trên
các lĩnh vực này. Tổ chức tốt công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp
luật và các quy định của Nhà nước về hoạt động và dịch vụ văn hóa, nhất là
thực hiện pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước của các cơ quan, ban, ngành ở
trung ương và các địa phương. Chú trọng làm tốt công tác nhân sự các cơ quan
văn hóa ở trung ương và địa phương để củng cố nội bộ thật sự trong sạch, vững
mạnh.
Năm là , các cơ quan chức năng cần phát huy vai trò nòng cốt trong việc
tham mưu cho Đảng, Nhà nước đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, đề ra
các chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh trên lĩnh vực văn hóa - tư
tưởng. Phối hợp tổ chức tốt cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - văn hóa,
thực hiện phương châm tư tưởng phải đi trước một bước, không để bị động đối
phó. Chủ động phát hiện các vấn đề phức tạp nảy sinh trong hoạt động và dịch
vụ văn hóa ảnh hưởng đến an ninh trật tự để tham mưu cho Đảng, Nhà nước;
kiến nghị các ngành, các cấp có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời nhằm bịt
kín những sơ hở, thiếu sót, ngăn chặn các nguy cơ tiềm ẩn xâm phạm an ninh
quốc gia nói chung, an ninh trong lĩnh vực văn hóa - tư tưởng nói riêng. Bảo vệ


14


vững chắc an ninh chính trị nội bộ, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
các cơ quan văn hóa, văn nghệ; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ
chức cơ sở đảng trong cơ quan văn hóa, văn nghệ; tổ chức tốt công tác phòng
ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tiến trình hội nhập quốc
tế của Việt Nam và xu hướng toàn cầu hóa thâm nhập, phá hoại, tác động,
chuyển hóa từ bên trong, tiến hành các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia
trong lĩnh vực văn hóa - tư tưởng.

- Truyền thông về cách thức của thế lực thù đich chống phá trên
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, xã hội: chúng chống phá đường lối, chính
sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, thực hiện mưu
đồ “phi chính trị hóa” quân đội và công an nhân dân,… tạo bước chuyển hóa
lực lượng vũ trang, sẵn sàng tạo cớ răn đe, can thiệp quân sự và xâm lược
nước ta khi điều kiện chín muồi. Thủ đoạn của chúng là tranh thủ mọi thời cơ
tạo ra sự biến động, mất ổn định về mặt an ninh xã hội, cấu kết với những
phần tử phản động trong nước để chống phá ta, lợi dụng những vấn đề tôn
giáo để gây mất ổn định và chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.
Có thể nói, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn mọi lúc, mọi nơi
tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta, âm mưu của chúng ngày càng
tinh vi và thâm độc. Chính vì vậy, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Diễn
biến hoà bình”, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều biện pháp toàn diện trên mọi
mặt đời sống xã hội, phù hợp với từng điều kiện cụ thể.
Viêc tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức tự
cường dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người công dân trong việc
bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH. Công tác tuyên truyền, giáo dục phải giúp
nâng cao nhận thức đúng đắn của toàn xã hội nói chung, trong lực lượng
CAND nói riêng về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, ANQG, TTATXH trong xu

thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng với sự đan xen giữa
các mặt hợp tác, đấu tranh và cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia dân tộc;
các âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn, lật đổ, tội phạm khủng bố, tội

15


phạm sử dụng công nghệ cao… xuất hiện với những biến thái khó lường, trở
thành những nguy cơ đe dọa ANTT cả ở bên trong và bên ngoài đất nước.
Kết hợp chặt chẽ an ninh với quốc phòng; an ninh - quốc phòng với kinh
tế ngay từ khi hoạch định từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ, dự án
phát triển phải đặc biệt quan tâm phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, hải đảo của Tổ quốc… nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chăm lo xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại; tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện nghiệp
vụ cho CAND phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, trước hết tập trung
vào các lực lượng nghiệp vụ mũi nhọn trong bảo đảm ANQG, giữ gìn
TTATXH. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ trong toàn lực lượng theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và nhanh chóng kiện toàn bộ máy, tổ
chức Công an các cấp theo tinh thần tinh gọn, hiệu quả cao. Để lực lượng
CAND thực sự vững mạnh, cần đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo, đào tạo
mới, đào tạo lại, rèn luyện nâng cao năng lực, trình độ, nhận thức cả về chính
trị tư tưởng, chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức cách mạng gắn với cuộc vận
động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - CAND vì nước
quên thân, vì dân phục vụ"; tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ,
chiến sĩ luôn gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ, trong thực thi, chấp hành
pháp luật và trong sinh hoạt, đời sống.
Thường xuyên, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm, làm

tốt công tác dự báo tình hình, kịp thời phát hiện những diễn biến mới về âm
mưu, hoạt động của các thế lực thù địch và các đối tượng xâm phạm ANQG,
từ đó thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu
tranh làm thất bại các âm mưu, hoạt động xâm phạm ANQG, TTATXH trong
giai đoạn mới của cách mạng. Qua đó bổ sung và phát triển lý luận, khoa học
về ANQG và TTATXH trong tình hình mới.
16


2.2. Vai trò của truyền thông đại chúng trong việc phòng chống âm
mưu diễn biến hòa bình hiện nay
Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, các phương tiện thông tin
đại chúng ngày càng hiện đại và nhanh nhạy, từ đó góp phần đưa các quốc gia
xích lại gần nhau thông qua mạng Internet và các vệ tinh viễn thông…
Tận dụng lợi thế này, Việt Nam đang là một trong các quốc gia hội
nhập rất nhanh chóng trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, từng bước hiện đại
hóa trang thiết bị nhằm thực hiện thắng lợi tiến trình hội nhập quốc tế. Điều
này là một lợi thế để các cơ quan báo chí Việt Nam thực hiện nhiệm vụ của
mình, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước thành công.
Hiện nay, thế giới và các nước trong khu vực đang trải qua nhiều diễn
biến phức tạp và nhanh chóng. Các cuộc chiến tranh nổ ra liên tục, những
cuốc tranh chấp và xung đột giữa các quốc gia dân tộc diễn ra ngấm ngầm và
công khai. Những mưu toan gây bạo loạn, lật đổ cộng với vô vàn những sự cố
bất thường về thiên tai dịch bệnh đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế, an
ninh chính trị trên toàn thế giới và khu vực, trong đó có Việt Nam.
Để nhân dân có nhân thức đúng đắn về tình hình thế giới và quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, hơn lúc nào hết, Báo chí
cách mạng Việt Nam phải là công cụ tuyên truyền hữu hiệu nhất góp phần bảo
vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và bảo vệ chế độ Xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

Chúng ta còn nhớ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, những bài xã luận có lời lẽ đanh thép, những bài hát mang đầy khí thế
tiến công, những bài thơ mang đậm tình hậu phương đối với tiền tuyến đã góp
phần động viên khích lệ bộ đội hăng say diệt giặc. Còn trong giai đoạn xây
dựng lại đất nước, những bộ phim, những bài nói, những bài báo đã kịp thời
vạch trần tội tham nhũng, tham ô, sự quan liêu của nhiều cấp, nhiều ngành.
Đồng thời những người làm báo đã kịp thời có những tác phẩm ca ngợi những
tấm gương điển hình tiên tiến, ca ngợi tuổi trẻ sáng tạo, tinh thần cảnh giác
17


cách mạng, khơi dậy tình yêu Tổ Quốc. Đặc biệt báo chí Cách mạng đã góp
phần quan trọng trong việc tuyên truyền cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong những năm gần đây đã góp phần
động viên tinh thần và tạo lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
Đối với việc phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” báo chí luôn
giữ một vai trò quan trọng nhằm phản bác lại những luận điệu vu cáo, bôi nhọ
của các lực lượng chống phá Cách mạng Việt Nam. Theo con số thống kê gần
đây, với khoảng 40 đài phát thanh và truyền hình có chương trình tiếng Việt,
gần 500 tờ báo in bằng tiếng Việt từ nhiều tổ chức phản động trong nhiều
nước trên thế giới có nội dung chống phá, kích động, bôi nhọ lãnh tụ, Đảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Chính vì lẽ đó mà báo chí của ta phải có
trách nhiệm tiên phong trong việc phản bác lại âm mưu “Diễn biến hòa bình”
của các lực lượng thù địch.
Báo chí thực sự là một công cụ sắc bén trong cuộc đấu tranh tư tưởng,
thường xuyên có những bài viết chống lại các quan điểm thù địch, uốn nắn
những tư tưởng lệch lạc nảy sinh trong đội ngũ cán bộ Đảng viên, quần chúng
và đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam. Để làm tốt công tác tuyên truyền, báo chí
của ta đã chủ động làm tốt các việc sau:
Một là: Nhanh nhạy, kịp thời phản bác lại những luận điểm bóp méo và

vu cáo của kẻ địch, vạch trần động cơ, ý đồ xấu xa đằng sau các sự kiện. Các
bài viết luôn bám chắc đường lối quan điểm của Đảng, luật pháp của Nhà
nước, thể hiện được tính chiến đấu cao.
Hai là: Các bài viết luôn có sự chủ động, tích cực, sáng tạo, lý luận sắc
bén, dễ hiểu và dễ đi vào lòng người.
Ba là: Báo chí của ta đã chủ động và tích cực phòng chống âm mưu
“Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch ở các mực độ khác nhau. Từ thế
bị động chúng ta chuyển sang giành thế chủ động. Đặc biệt, chúng ta đã thể
hiện được những vấn đề lớn như: Tự do, dân chủ, nhân quyền, sở hữu, nền
kinh tế nhiều thành phần và định hướng Xã hội chủ nghĩa.
18


Bốn là: Kết hợp tốt giữa chống và xây với mục tiêu chống quyết liệt và
xây tích cực. Các bài tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng đã
góp phần phản bác các luận điệu xuyên tạc, bóp méo, vu cáo, bịa đặt của các
thế lực thù địch đồng thời thể hiện được tính đúng đắn, đường lối quan điểm
của Đảng và Nhà nước. Báo chí còn xây dựng cách nhìn nhận đúng đắn cho
quần chúng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ Đảng viên - Đây cũng chính là đối
tượng chủ chốt mà kẻ địch muốn nhằm vào để kích động, dụ dỗ, lôi kéo nhằm
đánh phá ta từ bên trong.

19


KẾT LUẬN
Trong mọi lúc, mọi nơi và mọi thời điểm, công tác tuyên truyền của báo
chí luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Nó thể hiện được ý chí của Nhà
nước, thể hiện được tính dân tộc, tính nhân văn của một quốc gia yêu chuộng
hòa bình và luôn tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương của Liên hợp

quốc.
Tuy nhiên báo chí của ta trong thời điểm hiện nay cũng mắc không ít
những sai phạm, thiếu sót, từ đó gây không ít dư luận trong đời sống xã hội
đồng thời tạo kẽ hở để kẻ địch lợi dụng thực hiện âm mưu “Diễn biễn hòa
bình”.
Trước tình hình đó, công tác quản lý báo chí trong giai đoạn hiện nay
thật sự là cấp bách vì theo con số thống kê với khoảng 680 tờ báo và tạp chí,
750 ấn phẩm mỗi năm tương đương 700 triệu bản. Như vậy tính trung bình
mỗi người dân Việt Nam được đọc 8 tờ báo trong một năm. Tuy nhiên, số
người ở các đô thị lớn chiếm khoảng 75% còn các vùng xa chỉ đạt 25%. Hệ
thống phát thanh và truyền hình đã phủ sóng rộng khắp trên toàn quốc. Ngoài
ra còn có thêm truyền hình kỹ thuật số, báo điện tử, báo mạng…
Như vậy, hệ thống báo chí và tuyên truyền của ta đã và đang thật sự
mạnh. Nhưng làm thế nào để quản lý được tốt hệ thống truyền thông này đòi
hỏi cơ quan quản lý báo chí phải đủ mạnh, phải định hướng được đối tượng
quản lý, nội dung quản lý và phương pháp quản lý. Có kế hoạch bồi dưỡng
đội ngũ nhà báo về nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị, tình yêu đất nước, yêu
nhân dân.
Trên thực tế đội ngũ nhà báo đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý báo chí
của ta còn thiếu và còn yếu, chưa theo kịp bước chuyển biến của đất nước
trong thời kỳ hội nhập. Một số ít tờ báo có xu hướng chạy theo lợi nhuận.
Nhiều bài viết thiếu tôn trọng độc giả, coi tờ báo như của nhà mình, muốn
viết gì cũng được. Đặc biệt việc định hướng tuyên truyền nhiều lúc còn chậm,
thiếu nhạy cảm, thiếu chủ động sáng tạo và tính thường xuyên liên tục. Để
20


thực sự là một công cụ tuyên truyền của Đảng và Nhà nước trong việc đấu
tranh chống âm mưu “Diễn biến hòa bình”, báo chí của ta hơn lúc nào hết
phải tự đổi mới mình, luôn đi đầu trong công tác đấu tranh chống lại mọi thế

lực thù địch của Đảng và Nhà nước, định hướng quần chúng có nhận thức
đúng đắn, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

“Diễn Biến Hòa Bình – Nhận Diện Và Đấu Tranh” – NXB Quân Đội

Nhân Dân Năm 2011.
2.

“Phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam – Những vấn đề lý

luận và thực tiễn” – NXB Chính trị quốc gia năm 2009.
3.

– Đảng cộng sản Việt Nam.

4.

– Cổng thông tin Chính phủ.

5.

– Báo Nhân Dân Điện tử.

6.


– Báo Quân Đội Nhân Dân Điện tử.

7.

– Tạp chí Tuyên giáo.

8.

– Tạp chí quốc phòng toàn dân.

9.

– Trang web cá nhân của đồng chí Nguyễn

Phú Trọng – Tổng bí thư ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
10.

Nghị quyết TRUNG ƯƠNG 5 “Về công tác tư tưởng, lí luận, báo chí

trước yêu cầu mới”.
11.

Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường đấu tranh chống

âm mưu, hoạt động “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh
vực tư tưởng, văn hoá” ban hành ngày 24/4/2009.
12.

Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 14/10/2006 về tăng cường


lãnh đạo công tác bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới.
13.

Kết luận số 94-CT/TW Ban Bí thư ngày 30/12/2002 về “nhiệm vụ tăng

cường cuộc đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư
tưởng - văn hoá”.

22



×