Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SU DUNG PHƯƠNG PHÁP TRỰC QUAN TRONG dạy học TIN học 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.16 KB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
“Trong vài thập kỷ gần đây, đã có sự bùng nổ về thông tin hay gọi là thời
đại thông tin. Cùng với việc sáng tạo ra hệ thống công cụ mới, con người cũng
đã tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học tương ứng để đáp ứng
những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối cảnh đó, ngành Tin học
được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học độc lập với các nội
dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều ứng dụng
trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người”[1].
Đưa Tin học vào nhà trường là một việc làm cần thiết để các em làm quen
và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến. Để đáp ứng được các yêu cầu
trên, môn tin học đã được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông với vai
trò là môn học tự chọn. Môn học tự chọn tin học ở trường phổ thông hiện
hành có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về công nghệ
thông tin và vai trò của nó trong xã hội hiện đại.
Môn học này giúp học sinh bước đầu làm quen với phương pháp giải quyết
vấn đề theo quy trình công nghệ và kĩ năng sử dụng máy tính phục vụ học tập và
cuộc sống. Từ thực tế trên, trong quá trình dạy học tôi luôn băn khoăn trăn trở làm
thế nào truyền thụ cho học sinh kiến thức cơ bản, cách tiếp cận kiến thức một cách
nhanh nhất có thể trong quá trình giảng dạy tôi luôn chú trọng đến việc hướng dẫn,
chia nhóm thực hành sao cho các đối tượng học sinh đều có thời gian tiếp xúc, sử
dụng máy nhiều giúp các em có thể tự khám phá và tự học.
Xuất phát từ đó nên tôi muốn đóng góp nhỏ của bản thân trong dạy học
tin học ở trường THCS với tên đề tài sau: “Sử dụng phương pháp trực quan
trong dạy tự chọn Tin học 6 ở trường THCS Thành Mỹ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
“Từ dạy và học thụ động sang dạy học tích cực, giáo viên không còn đóng
vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết
kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung
học tập, chủ động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chương
trình”[2]. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng khi soạn giáo án, giáo


viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động
mới có thể thực hiện trên lớp với vai trò là người gợi mở, động viên, cố vấn,
trọng tài trong các hoạt động học tập của học sinh. Để làm được điều này thì đòi
hỏi người giáo viên phải có tâm huyết, có trình độ chuyên môn sâu rộng, có
nghiệp vụ sư phạm mới tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà
nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên. Để áp dụng phương pháp
này vào dạy tin học thì cần phải có máy chiếu, phần mềm quản lí phòng máy
NetShooll, mạng lan, máy vi tính.
Qua bài viết này tôi muốn chia sẻ với các giáo viên đang dạy môn tin học
trong trường THCS một vài suy nghĩ, mong rằng nó giải đáp phần nào trăn trở
của giáo viên khi dạy môn tin học. Điều xuyên suốt mà tôi muốn nói đến là sự
1


khác biệt khi giảng dạy tin học so với các môn học khác là sự linh hoạt, năng
động của giáo viên sẽ quyết định phần lớn đến thành công của bài giảng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh khối 6 Trường THCS Thành Mỹ năm học 2016-2017 và học kì 1 năm
học 2017-2018
- Qua phân tích và trực tiếp giảng dạy, tham khảo ý kiến đồng nghiệp bản thân
thấy cần thiết phải áp dụng phương pháp trực quan vào trong giảng dạy bộ môn
tin học lớp 6 tại trường THCS Thành Mỹ.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát thực tế việc giảng dạy môn tin học lớp 6 đề ra một số biện pháp giúp
học sinh học tốt môn tin học 6.
- Dự giờ thăm lớp, tham khảo ý kiến các thầy cô giáo trong tổ và các thầy cô
giáo dạy môn tin học trong huyện.
- Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới, các bài kiểm tra lí thuyết
và thực hành)
- Sử dụng bảng biểu đối chiếu kết quả trước và sau khi tiến hành nghiên cứu

- Tổng kết rút kinh nghiệm
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Hiện nay tin học được ứng dụng trong tất cả các lĩnh vực trong đời sống
xã hội từ việc: soạn thảo văn bản hay tính toán bằng bảng tính, thiết kế trong các
văn phòng cho đến việc điều khiển các thiết bị phức tạp như tên lửa, vũ trụ từ
đáp ứng những nhu cầu của cá nhân đến việc kinh doanh và quản lí điều hành xã
hội. Từ thực tế đó để đáp ứng được những yêu cầu của xã hội hiện nay thì đòi
hỏi con người phải có những kiến thức và kĩ năng về tin học, vì vậy hiện nay
môn tin học đã và đang được đưa vào các cấp học. Việc dạy tin học trong nhà
trường hiện nay đối với nước ta không phải là dễ, vì Tin học nó gắn liền với một
công cụ riêng của môn học là máy tính. “Tin học là ngành khoa học nghiên cứu
các quá trình có tính chất thuật toán nhằm mô tả biến đổi thông tin. Là khoa học
dựa trên máy tính điện tử nghiên cứu cấu trúc, các tính chất chung của thông tin,
các quy luật và phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm thông tin, xử lý thông
tin một cách tự động chính xác qua công cụ là máy tính điện tử”[3]. Vậy làm thế
nào để cho học sinh dễ hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kỹ năng thực
hành là một nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên dạy Tin học hiện nay.
Để giảng dạy tốt bộ môn Tin học có chất lượng, đạt kết cao thì người thầy
giáo ngoài tinh thông về bộ môn Tin học, cần nắm chắc phương pháp dạy học
trực quan. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học mà từ các
hình ảnh, hoạt động trực quan đến tư duy trừu tượng hay còn gọi trực quan hoá
thông tin thông qua các công cụ trực quan.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Vận dụng phương pháp dạy học tích cực là giáo viên không còn đóng vai
trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ
chức hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự lĩnh hội kiến thức, chủ
động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chương trình. Trong
tiết dạy, học sinh là trung tâm giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn, tuy nhiên về
2



công việc chuẩn bị của giáo viên thì cần phải đầu tư trong soạn giảng. Để làm
được điều này thì đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng,
có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học
sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Hiện nay số lượng máy tính còn ít, còn có máy 3 em chung một máy,
phòng học lí thuyết chưa có máy chiếu. Các em lớp 6 vừa mới tiếp xúc với bộ
môn mới đầu tiên mặc dù các em rất thích máy tính nhưng là để chơi các trò
chơi trên máy chứ chưa ý thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng
học tập còn hạn chế. Bên cạnh đó Thành Mỹ là xã “đặc biệt khó khăn” phần đa
các gia đình học sinh đều có điều kiện kinh tế khó khăn, gia đình không có điều
kiện để mua máy tính cho con em học. Một thực tế khác là ý thức học tập của
một số học sinh không cao, không hứng thú trong học tập, lười hoạt động, chưa
tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện chưa cao.
Kết quả điều tra khảo sát đầu năm học 2016-2017
Về tiếp thu lí thuyết:
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Tổng
Lớp
số
SL TL% SL
TL% SL TL% SL
TL% SL
TL%
6A

30
2
6,7
4
13,3 5 16,7 19 63,3
0
0
6B
30
1
3,3
6
20,0 9 30,0 14 46,7
0
0
Cộng
60
3
5,0
10 16,7 14 23,3 33 55,0
0
0
Về thao tác thực hành:
Tự thao tác
Thao tác cần có
Tổng
sau khi có
hướng dẫn thường
Chưa biết thao tác
Lớp

số
hướng dẫn
xuyên
6A
6B
Cộng

30
30
60

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

7
6
13

23,3
20,0
1,7


5
9
14

16,7
30,0
23,3

18
15
33

60,0
50,0
55,0

Qua kết quả trên thì đa phần các em nắm kiến thức lí thuyết còn yếu, các
em hay quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn
của giáo viên. Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin
học luôn suy nghĩa phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lí
thuyết chắc hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời
gian suy nghĩ tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả rất tốt sau
đây tôi xin đề ra một số giải pháp sử dụng các dụng cụ trực quan trong dạy học
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1. Dạy học khái niệm bằng phương pháp trực quan
“Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học
tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô
hình, vật thật,... với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan. Dụng cụ trực quan được sử

dụng trong môi trường học tập như trong dạy học, giáo dục qua vệ tinh dựa trên
cơ sở máy tính,... dụng cụ trực quan có thể được sử dụng hiệu quả để giảng dạy
các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và các khái niệm trừu tượng mà chúng
3


thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy học có thể thực hiện tốt nếu biết
phát huy thông qua công cụ trực quan”[4].
Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học
bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong
cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một
khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan hoặc
chiếu trực tiếp các bước các thao tác đối với máy tính thông qua phần mềm quản
lí phòng máy NetShooll làm tăng sự nhớ trong học tập đây là một trong những
mục tiêu hàng đầu của giáo dục.
Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng
cụ trực quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng.... vào dạy tin học có hiệu quả
rất cao. Trước khi sử dụng dụng cụ trực quan cho một bài học thì trước hết giáo
viên cần xác định bài nào cần dụng cụ trực quan và những dụng cụ trực quan đó
là gì phục vụ cho những đơn vị kiến thức nào trong bài học.Tiếp đến là công tác
chuẩn bị với dụng cụ trực quan.
Khi dạy bài: “Máy tính và phần mềm máy tính” cần chuẩn bị những đồ dùng
trực quan khi giới thiệu cấu trúc chung của máy tính điển tử như:

Thiết bị lưu trữ

CPU

RAM


bộ xử lí trung tâm CPU, RAM, các ổ đĩa các thiết bị lưu trữ thông tin như USB,
đĩa CD, DVD...hay hình ảnh của một số loại máy vi tính trong thực tế bằng cách
chụp bởi tranh ảnh hoặc các dụng cụ trực quan thiết thực như thế học sinh mới
nhớ lâu và thấy trong thực tế có thể gọi tên dụng cụ trực quan chính xác.
Máy chiếu tương đối dễ sử dụng và việc chuẩn bị cho việc dạy học với
đèn chiếu tương đối dễ dàng, ít tốn thời gian. Tuy nhiên để sử dụng máy chiếu
thì phải có sự chuẩn bị kiến thức và các nội dung kiến thức cần trình chiếu, nội
dung đưa lên máy chiếu phải rõ ràng chính xác và phải có máy tính. Khi nói đến
máy tính hoặc máy in thì ta đưa hình ảnh minh họa, bằng quan sát trực quan như
thế học sinh sẽ ghi nhớ kiết thức tốt nhất.

Máy tính

Máy in

4


2.3.2. Lựa chọn loại hình trực quan phù hợp với nội dung bài học
Sử dụng phương pháp dạy học trực quan thành công thì việc đầu tiên
người thầy phải làm là thiết kế giáo án các hình ảnh hoặc một thông điệp trực
quan nào đó đòi hỏi tốn nhiều công sức nhưng lại là công việc đem lại nhiều lợi
ích. Việc thiết kế các tài liệu dạy học trực quan mới có thể tạo nên sự thay đổi.
Giáo viên phải quan tâm tới việc giảng dạy, tính trực giác và đặc biệt quan tâm
tới những kĩ năng học tập của học sinh tiếp thu lí thuyết và thực hành. Giáo viên
phải biết phân tích chọn lựa các loại hình trực quan sao cho phù hợp với nội
dung bài học.
a. Dạy lí thuyết bằng máy chiếu hoặc sử dụng phần mềm NetShooll .
Giáo viên có thể tóm tắt phần lí thuyết chỉ ra các bước thực hiện một vấn
đề nào đó dưới dạng bảng hoặc liệt kê giải thích ngôn ngữ từ tiếng Anh ra tiếng

Việt sau đó trình chiếu cho học sinh bằng máy chiếu hoặc dùng mạng lan sử
dụng phần mềm NetShooll để chiếu cho các máy trạm nếu như học trên phòng
máy

Quan sát học sinh thực hành thông qua phần mềm NetShooll

Ví dụ 1: Khi dạy bài “Tổ chức thông tin trong máy tính” ở phần đường dẫn sau
khi chiếu sơ đồ đường dẫn cho học sinh quan sát.
? Nhìn vào hình trên em hãy viết đường dẫn tới tệp tin chỉnh sửa văn bản?
Sau khi học trình bày giáo viên nhận xét đánh dấu từng bước
? Vậy đường dẫn là gì (Hs rút ra kết luận)
Từ đó học khắc sâu về đường dẫn trong máy tính

5


Đường dẫn tới tệp “Chinh_sua_van_ban”
E:\GIAO_AN\BAI_CHUAN_CAC KHOI\TIN_6\
Chinh_sua_van_ban

Ví dụ 2: Dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” chiếu sơ đồ cấu trúc chung
của máy tính điện tử lên màn hình rồi yêu cầu học sinh quan sát và cho biết:
? Máy tính điện tự gồm
những phần nào? Sau đó
giáo viên chỉ vào từng đối
tượng trên sơ đồ và giới
thiệu lần lượt các khái niệm
của các thành phần trong
cấu trúc máy tính.
Học sinh quan sát hình ảnh

dễ nhận biết hơn về các đối
tượng phần cứng cấu thành
máy tính, Từ đó các em dễ
hình dung cấu trúc máy tính.
Sau đó giáo viên chiếu sơ đồ cụ thể một máy tính như sau:

6


Ví dụ 3: Khi dạy bài “Định dạng văn bản”, thì đưa lên màn hình các bước thực
hiện định dạng Font như sau:
Bước 1. Chọn phần văn bản cần định dạng
Bước 2. Format \ Font
Bước 3. Hộp thoại Font xuất hiện chọn Font
+ Font:
chọn phông chữ
+ Font Style:
kiểu chữ
+ Size :
cỡ chữ
+ Font color:
màu chữ
+ Underline Style: đường gạch chân
+ Underline Color:
màu đường gạch
chân
+ Effects:
các hiệu ứng
+ Preview:
khung hiển thị

Bước 4. OK
Yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi liên quan:
? Nêu các bước để định dạng văn bản phông chữ, kiểu chữ, cỡ chữ bằng các nút
lệnh (HS chỉ cần quan sát màn hình và nêu được các bước cần định dạng phông
chữ…)
? Thao tác quan trọng nhất trong định dạng văn bản là gì (HS chọn phần văn bản
cần định dạng)

b. Dạy học mô phỏng nút lệnh, khái niệm bằng hình ảnh
Dạy học bằng hình ảnh mô phỏng các nút lệnh, các khái niệm .. giúp học
sinh có thể thao tác nhanh các bước thực hành. Đây là yêu cầu cần đạt của bộ
môn tin học, dựa vào các hình ảnh đồ hoạ này học sinh có thể phát hiện ra khái
niệm, ý nghĩa của nó. ..
Chẳng hạn khi dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản” giáo viên cần
cho học sinh làm quen với việc sao chép, di chuyển, cắt (xoá)... nhanh qua các

7


biểu tượng. Giáo viên đưa các biểu tượng

Cut (di chuyển văn bản)

Copy (sao chép văn bản)
Paste (dán văn bản)
Đối với bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên đưa các biểu tượng
? Em hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng trên
Khi dạy bài “Định dạng văn bản” ngoài việc định dạng văn bản bằng bảng
chọn giáo viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu tượng sau.


Học sinh nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó
các em nắm chắc hơn kiến thức lí thuyết để vận dụng vào làm thực hành tốt hơn.
Đối với bài “Trình bày trang văn bản và in” ngoài việc dùng lệnh in, xem văn
bản bằng bảng chọn thì có thể in, xem văn bản thông qua các biểu tượng sau.

c. Dạy học bằng hình ảnh trực quan
Hình ảnh được tạo ra như ảnh chụp, tranh minh hoạ, tranh vẽ. Tất cả đều
phản ánh sự vật và ý nghĩa dưới dạng các biểu trưng cụ thể và mang tính hiện
thực cao, người học có khả năng phiên dịch các biểu trưng hình ảnh thành các
vật tương tự trong thế giới hiện thực.
Khi dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” ta có thể sử dụng một số
ảnh minh hoạ về máy tính, một số thiết bị của máy tính như đĩa mềm, USB ổ
cứng, … để học sinh quan sát và phân biệt.

Hoặc khi dạy bài “Hệ điều hành Windows” để giúp học sinh sớm hình
thành kỹ năng làm việc với máy tính như khởi động máy tính, tắt máy tính hay
8


phân biệt các đối tượng trên màn hình máy tính ta tiến hành đưa một số hình ảnh
liên quan.

C¸c biÓu t
îng ch¬ng
tr×nh

Thanh c«ng
viÖc

d. Kết hợp các loại hình trực quan.

Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng từ
ngôn ngữ, hình ảnh, đồ hoạ với nhau. Đối với hầu hết học sinh ba loại này bao
gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập.
Ví dụ: Khi dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” ta có thể sử dụng kết hợp
giữa hình ảnh và ngôn ngữ.

Giáo viên yêu cầu:
? Quan sát hình ảnh và cho biết ở hình trên đâu là thiết bị xuất, nhập,. ..
Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, “Định dạng văn bản”... ta có
thể sử dụng kết hợp các hình thức trực quan

9


Dạy bài “Định dạng văn bản” ta chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho học
sinh thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ... trên máy tính thì học
sinh để tiếp thu bài và ghi nhớ lâu hơn.

2.3.3. Rèn luyện kĩ năng thực hành
a. Biết sử dụng nút lệnh và phím tắt thao tác với văn bản.
Sau một tiết học tôi thường củng cố lại cho học sinh những cái vừa học
bằng các dạng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nắm lại bài, học sinh có thể
phân biệt được lệnh, các biểu tượng và nắm ý nghĩa của các biểu tượng.
Ví dụ: Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”:
? Dựa vào bảng trên em cho thầy biết muốn đóng tệp tin văn bản ta có máy
cách?(Alt+F4 hoặc File\Exit hoặc nháy vào nút
góc phải cửa sổ Word)
Có thể học sinh trả lời không đầy đủ sau đó giáo viên chiếu bảng sau và yêu cầu
nối các ý của cột A, B, C, D sao cho hợp lý.
10



Cột A

Cột B

Cột C

Cột D

Ctrl + O

File \ Open

Tạo tập tin văn bản mới

Ctrl + N

File \ Save

Đóng tập tin văn bản

Ctrl + S

File \ Exit

Mở văn bản đã có

Alt + F4


File \ New

Lưu văn bản

Sau khi học sinh nối các ý với nhau giáo viên nói rõ đây là các cách để mở văn
bản đã có, tạo mới văn bản, lưu văn bản, đóng tệp tin văn bản.
* Khi dạy bài “Chỉnh sửa văn bản”: Dùng các từ, cụm từ điền vào chổ trống cho
phù hợp.
(1) Edit \ Copy
(5) Ctrl + V
(8)
(2) Edit \ Cut

(6) Ctrl + C

(9)

(3) Edit \ Paste
(7) Ctrl + X
(10)
(4) Delete
Các bước sao chép văn bản:
Bước 1. Chọn phần văn bản cần sao chép
Bước 2. Click vào. ......... (hay bấm tổ hợp phím...... hoặc Click biểu tượng........)
Bước 3. Đưa con trỏ đến vị trí cần sao chép.
Bước 4. Click vào........... (hay bấm tổ hợp phím...... hoặc Click biểu tượng........)
Các bước di chuyển văn bản:
Bước 1. Chọn phần văn bản cần di chuyển
Bước 2. Click vào. ......... (hay bấm tổ hợp phím...... hoặc Click biểu tượng.......)
Bước 3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.

Bước 4. Click vào. .......... (hay bấm tổ hợp phím...... hoặc Click biểu tượng......)
Các bước xoá văn bản:
Bước 1. Chọn khối văn bản cần xóa
Bước 2. Click vào. ........... (hay bấm phím...... hoặc Click biểu tượng..........)
b. Kết hợp lí thuyêt và thực hành
Để việc học Tin học của học sinh đạt kết quả tốt, chất lượng cao, học sinh
nắm chắc bài, biết thao tác trên máy tính cần cho học sinh học tại phòng máy,
học sinh vừa nghe giáo viên giảng bài vừa ghi bài và thực hiện trên máy tính
theo từng bước một. Với cách tổ chức học như thế này kết quả cho thấy học sinh
nắm chắc bài học, đa số các em đều thực hiện được các thao tác thực hành.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Vận dụng sáng kiến sử dụng các dụng cụ trực quan vào trong dạy học thời
gian qua tại lớp 6 tôi thấy học sinh hào hứng hơn, năng nổ hơn và ghi sâu kiến
thức, nhất là học sinh có thể không nhớ các lệnh bằng tiếng anh nhưng nhờ có
dụng cụ trực quan như các biểu tượng giáo viên cho học sinh quan sát bằng
nhiều hình thức như máy chiếu, tranh ảnh hay sử dụng phần mềm NetShooll,
học sinh nhìn trực giác nhận biết được các biểu tượng từ đó học sinh thực hành
một cách dễ dàng, do đó đầu tiên học sinh nhớ các lệnh bằng các biểu tượng sau
đó thực hành nhiều và các em sẽ nhớ được các lệnh bằng tiếng anh vì tiếng anh
11


là rào cản duy nhất của các em học sinh nhất là học sinh vùng đặc biệt khó khăn.
Trên lớp giáo viên truyền thụ kiến thức một cách dễ dàng hơn nhanh hơn tiết
kiệm được thời gian học sinh được thực hành nhiều hơn.
Đối với đồng nghiệp sau khi dự giờ thăm lớp cũng nhận xét thấy cách
giảng dạy sử dụng đồ dùng trực quan để truyền tải kiến thứ cho học sinh, không
những tiết thực hành và lí thuyết hiệu quả hơn cách dạy thông thường vì vậy
đồng nghiệp cũng đã áp dụng vào giảng dạy các môn khác trong nhà trường và
đều cho kết quả khả quan hơn.

Sau khi học sinh được tiếp thu kiến thức bài học dưới dạng các dụng cụ
trực quan mà thầy giáo đã vận dụng các em rất hào hứng chăm chú quan sát theo
dõi vận dụng vào thực hành một cách linh hoạt và hiệu quả thời gian các em
thao tác thực hành rất nhanh vì các em không phải suy đoán nhiều mà chủ yếu
vận dụng những bước những thao thác, những biểu tượng đường dẫn mà giáo
viên đã hướng dẫn. Hôm nào mất điện học sinh không được quan sát cụ thể cũng
như thực hành trực tiếp thì các tiếp thu bài của các em giảm hẳn.
Sau khi giảng dạy học sinh khối 6 năm học 2016-2017 và học kì 1 năm
học 2017-2018 thông qua kiểm tra kết quả học tập của học sinh như sau:
Về mức độ tiếp thu lý thuyết:
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Tổng
Lớp
số
SL
%
SL
% SL
% SL % SL %
6A
30
6
20,0
13 43,3 11 36,7 0 0,0 0
0
6B

30
7
23,3
8
26,7 15 50,0 0 0,0 0
0
Cộng
60
13
21,7
21 35,0 26 43,3 0 0,0 0
0
* Về kĩ năng thực hành:
Tự thao tác
Thao tác cần có
Chưa biết thao
sau khi có
hướng dẫn thường
Tổng
tác
Lớp
hướng dẫn
xuyên
số
SL
%
SL
%
SL
%

6A
30
21
70,0
9
30,0
0
0,0
6B
30
19
63,3
11
36,7
0
0,0
Cộng
60
40
66,7
20
33,3
0
0,0
So với kết quả kiểm tra phần thực hành cuối năm học 2016-2017 của học
sinh, số học khá, giỏi tăng lên rõ rệt, học sinh yếu không còn.
Ngoài ra bản thân còn sử dụng phần mềm quản lí phòng máy NetShooll
để quản lí máy tính học sinh, có thể trình chiếu bài giảng hoặc tranh ảnh đồ họa,
các bước thao tác...đến máy tính học sinh. Kết nối giữa máy tính học sinh và
máy tính giáo viên một cách dễ dàng giáo viên có thể hướng dẫn hoặc sửa trực

tiếp trên máy học sinh mà giáo viên không cần đi xuống bàn học sinh. Do đó đa
số các em sau khi được học bằng phương pháp trực quan có sử dụng máy chiếu,
máy tính có mạng lan, phần mềm NetShooll thì đều tiếp thu và làm thành thạo
nội dung bài học.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
12


3.1. Kết luận
Qua một thời gian thực hiện vận dụng phương pháp sử dụng các dụng cụ
trực quan vào dạy học tin học lớp 6 tôi nhận thấy:
Việc vận dụng phương pháp trực quan vào giảng dạy, giúp giáo viên
truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách tích cực và chủ động, tiết kiệm thời
gian truyền tải kiến thức khi dạy lí thuyết từ đó học sinh có thời gian thực hành
nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ kiến thức lâu hơn. Đối với
học sinh học tập tích cực hơn, hào hứng hơn, chú ý hơn, tham gia xây dựng bài
sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ kiến thức lâu hơn, chất lượng đi lên rõ rệt.
Trong quá trình thực hiện đề tài “Sử dụng phương pháp trực quan trong dạy
tự chọn Tin học 6 ở trường THCS Thành Mỹ”. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một
số bài học kinh nghiệm sau:
Một là: Lập kế hoạch dạy học chi tiết cho từng tiết; khảo sát, kiểm tra
trang thiết bị dạy học cho môn học; đề xuất với tổ chuyên môn, nhà trường để có
kế hoạch sửa chữa, mua sắm bổ sung trang thiết bị của phòng máy.
Hai là: Thiết kế bài dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh là nội dung
quan trọng thứ hai cần lưu ý, bởi việc này sẽ giúp giáo viên chuẩn bị chu đáo
hơn về kiến thức, kỹ năng, phương pháp, tiến trình một tiết dạy.
Ba là: Xác định được mục tiêu trọng tâm của bài học về kiến thức, kỹ
năng; tìm ra được những kỹ năng cơ bản dành cho học sinh yếu kém và những
kiến thức kỹ năng dành cho học sinh khá giỏi; tham khảo thêm tài liệu để mở
rộng, đi sâu hơn vào bài giảng, giúp giáo viên nắm tổng thể, giải thích cho học

sinh khi cần thiết.
Bốn là: Chia nhóm, học sinh có điều kiện hỗ trợ lẫn nhau, bài học trở
thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không chỉ thụ động tiếp thu từ giáo viên.
Học sinh hỗ trợ lẫn nhau là phương pháp thu hút sự tham gia của học sinh, phù
hợp với đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay là “dạy ít, học nhiều”.
3.2. Kiến nghị
Cần cung cấp thêm thiết bị máy chiếu tại các phòng học bộ môn cho tất cả các
giáo viên đều có thể sử dụng phục vụ giảng dạy.
Bổ sung thêm máy tính ở phòng thực hành đủ cơ sở để cho học sinh học và thực hành.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học. Rất
mong đây là bài học để các đồng chí tham khảo. Tuy nhiên bài viết cũng còn
nhiều khiếm khuyết, rất mong được sự đóng góp chỉ bảo của các đồng chí để tôi
hoàn chỉnh thêm về phương pháp.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân, không sao chép nội dung của người
khác.
Thành Mỹ, ngày 20 tháng 04 năm 2018
Người viết

ĐINH VĂN CẨM

TRƯƠNG ĐỨC TÙNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO
13



STT

Tên tác giả

Tài liệu tham khảo

1
2

Phạm Thế Long
Ts.Trần Doãn Vinh

Sách giáo khoa tin học quyển 1.
Thiết kế bài giảng tin học quyển 1

Phạm Thế Long

(dành cho THCS).
Sách giáo viên.

3

Nhà xuất
bản
NXB GD
NXB Đại
học quốc gia
Hà Nội
NXB GD


Sách hướng dẫn thực hiện chuẩn
kiến thức kĩ năng môn tin học
THCS

14


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trương Đức Tùng
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THCS Thành Mỹ, Thạch Thành, Thanh
Hóa
TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá xếp
loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

Năm học

đánh giá
xếp loại

1.
2.
3.
4.
5.
...

15



×