NGHÊ THUẬT KỂ CHUYỆN CỦA TÔ HOÀI TRONG TRUYỆN NGẮN
VỢ CHỒNG A PHỦ
DẪN NHẬP
1.Lý do chọn đề tài
2.Lịch sử vấn đề
3.Đối tượng nghiên cứu
4.Phạm vi nghiên cứu
5.Phương pháp nghiên cứu
6.Cấu trúc đề tài
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1. Nghệ thuật kể chuyện trong văn học
1.2. Tác giả Tô Hoài
1.2.1. Cuộc đời
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
1.3. Tác phẩm
1.3.1. Hoàn cảnh sáng tác
1.3.2.Cốt truyện và chủ đề
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN CỦA TÔ HOÀI TRONG TRUYỆN
NGẮN VỢ CHỒNG A PHỦ.
2.1. Người kể chuyện trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
2.1.1. Khái niệm người kể chuyện
2.1.2. Điểm nhìn trần thuật
2.1.3. Vai trò của người kể chuyện
2.2. Cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu kể chuyện trong truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ” của Tô Hoài.
2.2.1. Cốt truyện tự sự
2.2.2. Ngôn ngữ kể chuyện
2.2.3. Giọng điệu kể chuyện
2.3. Thời gian và không gian trần thuật trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của
Tô Hoài.
2.3.1. Thời gian trần thuật
2.3.2. Không gian trần thuật
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DẪN NHẬP
1.Lý do chọn đề tài
Tô Hoài là một nhà văn có sức viết dồi dào, sung mãn, đã ghi tên mình
vào làng tự sự Việt Nam với một phong cách thuần hậu, thủ thỉ, gần gũi trìu
mến. Truyện ngắn sau 1945 được Tô Hoài sáng tác trong một bầu không khí
mới của lịch sử, với sự biến chuyển trong nhận thức và đây là kết quả của
những chuyến thâm nhập thực tế. Với 33 truyện ngắn, có thành công và cũng
có điều dở nhưng phải thừa nhận rằng Tô Hoài đã góp thêm một tiếng nói, một
lối tự sự vào văn học Việt Nam hiện đại.
Một trong những tác phẩm thành công nhất là tập Truyện Tây Bắc, đây
là kết tinh tình cảm nồng nàn của nhà văn Tô Hoài đối với con người và cuộc
sống ở biên giới miền Tây Bắc đất nước, là kết tinh quá trình tích lũy sự hiểu
biết của nhà văn về con người và cuộc sống ở đây trước Cách mạng và khi tiếp
xúc với cách mạng mà trước kia có thể là chưa ai mô tả. Nổi bật lên trong tập
Truyện Tây Bắc là thiên truyện Vợ chồng A Phủ. Ở tác phẩm này, Tô Hoài đã
kết hợp được sở trường mô tả thiên nhiên, phong tục với khả năng thể hiện đời
sống nội tâm nhân vật, đánh dấu một bước phát triển của nhà văn về tư tưởng
và nghệ thuật.
Khi nghiên cứu phê bình tác phẩm văn học chúng ta không thể không
nhắc đến nghệ thuật kể chuyện hay còn gọi là nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật
tự sự. Đó là phương diện thi pháp quan trọng, là linh hồn, là cốt lõi của một tác
phẩm, đồng thời cũng là dụng công, tâm huyết của nhà văn khi sản sinh ra đứa
con tinh thần của mình. Vì thế, để tìm hiểu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của
Tô Hoài, tôi đã lựa chọn đề tài “Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài trong
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ” để thấy được nét đặc sắc và tinh tế trong thiên
truyện này.
2.Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện hay chính là nghiên cứu cấu trúc tự sự
học trong văn học được giới nghiên cứu và phê bình đặc biệt quan tâm. Ra đời
từ năm 1969, thuật ngữ “tự sự học” là danh xưng do nhà nghiên cứu Tezvetan
Todorov đưa ra khởi đầu cho một ngành nghệ thuật nghiên cứu tự sự. Đây là sự
tiếp nối cho công trình nghiên cứu Thi pháp học của Aristote. Trong công trình
này đã chỉ ra cấu trúc cơ bản của một văn bản tự sự.
Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử có công trình nghiên cứu Tự
sự học và Lại Nguyên Ân có công trình Về việc mở ra môn trần thuật học trong
ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam là những bước đầu ghi dấu ấn nghiên cứu
tự sự trong văn học.
Riêng về nhà văn Tô Hoài, có một số bài nghiên cứu, thảo luận đi sâu
vào những phương thức, kĩ thuật viết truyện ngắn như ngôn ngữ, cấu trúc thời
gian; kết cấu, bố cục: Ngôn ngữ một vùng quê trong các tác phẩm đầu tay của
Tô Hoài
(Võ Xuân Quế) ; Truyện viết về loài vật của Tô Hoài
(GS. Hà
Minh Đức); Tô Hoài qua tự truyện (Vân Thanh) ; Nhà văn và những con chữ
(Định Hải); Cảm nhận thời gian của Tô Hoài (Nguyễn Long); Tiểu thuyết
của Tô Hoài
(Niculin); Tô Hoài: truyện phong tục, thôn quê và loài vật
(Thế Phong) … Tuy chưa có một bài nghiên cứu nào đi sâu vào nghệ thuật kể
chuyện trong truyện ngắn của Tô Hoài song, các bài nghiên cứu đều chỉ ra và
có phát hiện về cách kể, cách kết cấu riêng trong truyện ngắn của ông. Nhìn
chung vẫn chưa có bài nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề nghệ thuật kể chuyện
trong truyện ngắn nói chung, cũng như trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ nói
riêng.
3.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm các lý thuyết về Tự sự học để làm rõ
nghệ thuật kể chuyện; và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
4.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu ở đề tài này bao gồm một số khía cạnh của nghệ
thuật kể chuyện: người kể chuyện, cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu, thời gian
và không gian trần thuật.
5.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng kết hợp một số phương
pháp nghiên cứu cơ bản sau:
-
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
-
Phương pháp phân tích tổng hợp
-
Phương pháp thống kê
6.Cấu trúc đề tài
Đề tài “Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài trong truyện ngắn Vợ chồng
A Phủ” ngoài phần mở đầu và kết luận còn bao gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn lien quan đến đề tài.
Chương 2: Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài trong truyện ngắn Vợ
chồng A Phủ.
Trong Chương 2 này tôi tìm hiểu về người kể chuyện, cốt truyện, ngôn
ngữ, giọng điệu, thời gian và không gian trần thuật trong truyện ngắn Vợ
chồng A Phủ.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Nghệ thuật kể chuyện trong văn học
Khi nghiên cứu phê bình tác phẩm văn học chúng ta không thể không
nhắc đến nghệ thuật kể chuyện hay còn gọi là nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật
tự sự. Đó là phương diện thi pháp quan trọng, là linh hồn, là cốt lõi của một tác
phẩm, đồng thời cũng là dụng công, tâm huyết của nhà văn khi sản sinh ra đứa
con tinh thần của mình. Khi chúng ta tiếp xúc với một tác phẩm văn học:
truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch,… là chúng ta đang tiếp cận với một câu chuyện,
người đọc cứ dần dần đắm mình vào thế giới của câu chuyện đó. Để có một tác
phẩm lay động được tâm hồn của người đọc, mỗi nhà văn không chỉ sáng tạo
ra một câu chuyện cảm động mà còn là cách đưa câu chuyện đến với độc giả.
Có thể thấy, vấn đề nghệ thuật kể chuyện chiếm vị trí khá quan trọng trong việc
tạo nên thành công cho tác phẩm. Ngày nay, người ta không quá quan tâm đến
nội dung câu chuyện mà họ quan tâm nhiều hơn cả là cách nhà văn kể câu
chuyện đó.
Khái niệm Narratology (tiếng Anh) Narratologie (tiếng Pháp) được
dịch là nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật tự sự. Đây là
khái niệm thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn
học. Nghệ thuật kể chuyện hay nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật tự sự
cũng đều là phương thức tái hiện đời sống.
Khi bàn đến các phương tiện cơ bản của miêu tả tự sự, G.N.Pospelov
trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học xác định: “Đóng vai trò quyết định
trong loại văn học tự sự… là sự trần thuật học, tức là một câu chuyện về các sự
kiện xảy ra được kể từ phía người khác” [7; 66]. Bên cạnh đó, ông còn chỉ ra
các thành phần cơ bản của nghệ thuật kể chuyện: “Với sự trợ giúp của trần
thuật, miêu tả, bình luận, lời nói nhân vật trong các tác phẩm tự sự, cuộc sống
được nắm bắt một cách tự do và sâu rộng” [7; 68].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Tự sự là một phương thức tái hiện
đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó, tác phẩm tự sự bao giờ cũng có
cốt truyện, gắn với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được khắc hoạ đầy đủ,
nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình, kịch”.
Có thể nói, nghệ thuật kể chuyện có một vai trò hết sức quan trọng trong
tác phẩm văn học bởi thông qua cấu trúc trần thuật đó người đọc không chỉ
biết được điều nhà văn muốn nói mà còn biết cách nhà văn nói ra điều đó. Để
làm được điều đó một tác phẩm văn học cần có sự đóng góp của nhiều thành
tố: vai trò của người kể chuyện, sự chuyển đổi phương thức trần thuật, điểm
nhìn trần thuật, kết cấu, giọng điệu, không gian,thời gian,… Kết cấu trần thuật
gắn liền với sự phát triển của cốt truyện. Nhà văn đã sử dụng những thủ pháp,
phương thức này để mang câu chuyện đến với độc giả, bộc lộ cách lý giải cuộc
sống từ cách nhìn riêng và cá tính sáng tạo của tác giả.
Yếu tố đầu tiên làm nên thành công cho tác phẩm văn học chính là
cốt truyện (plot), có vai trò quan trọng bậc nhất không thể thiếu. Loại bỏ cốt
truyện, tác phẩm văn học sẽ chuyển sang một dạng văn bản khác. Cốt truyện là
toàn bộ những sự kiện mà nhà văn đã kể lại trong văn bản tự sự mà người đọc
có thể kể lại được. G.N.Pospelov trong công trình Dẫn luận nghiên cứu văn
học cho rằng: “cốt truyện là tiến trình của các sự kiện” [7; 63]. Nhà nghiên cứu
V.B.Shklovsky cũng đề xuất cách hiểu: “cốt truyện là cách sắp xếp các sự kiện,
sự việc, tình tiết của chúng trong văn bản nghệ thuật”. Trong cuốn 150 thuật
ngữ văn học, Lại Nguyên Ân cho rằng: “cốt truyện là sự phát triển hành động,
tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong
các tác phẩm trữ tình”. Tuy mỗi nhà nghiên cứu có những định nghĩa khác
nhau nhưng đều nhấn mạnh đến vai trò quan trọng không thể thiếu của hệ
thống sự kiện. Cốt truyện trong tác phẩm văn học đã giúp bộc lộ tính cách nhân
vật, thể hiện xung đột xã hội, và bộc lộ phong cách, tài năng của nhà văn.
Vấn đề người kể chuyện cũng đóng vai trò không kém trong mỗi tác
phẩm văn học, đó là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi
hiện đại. Tác giả không thể trần thuật nếu thiếu người kể chuyện. Theo Từ điển
thuật ngữ văn học thì : “Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần
thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể với
một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả (
ví dụ “tôi” trong “Đôi mắt” của Nam Cao ), dĩ nhiên không nên đồng nhất
hoàn toàn với tác giả ngoài đời ; đó có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả
sáng tạo ra ( ví dụ “Người điên” trong Nhật ký người điên của Lỗ Tấn ); cũng
có thể là người viết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một hoặc
nhiều người kể chuyện. Hình tượng người kể chuyện đem lại cho tác phẩm một
cái nhìn và một sự đánh giá, bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập
trường xã hội cho cái nhìn của tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con người
và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều phối cảnh…”.
Yếu tố không gian, thời gian cũng là một trong những mối quan tâm
của nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình trong việc tìm ra ý nghĩa của câu
chuyện. Không gian trong tác phẩm văn học, chịu sự chi phối một cách chủ
quan của người sáng tác hay người kể chuyện, đó là môi trường để nhân vật
xuất hiện và hoạt động. Nó thuộc về cấu trúc nội tại của tác phẩm, góp phần
xây dựng hình tượng trong tác phẩm văn học. Với tư cách là một “mã nghệ
thuật”, không gian được xem xét như một quan niệm về thế giới và con người,
như một phương thức chiếm lĩnh hiện thực đời sống một cách đặc thù, là một
hình thức thể hiện tư tưởng thẩm mĩ, tình cảm, cảm xúc của con người. Mỗi
loại hình chiếm lĩnh không gian bằng cách thức của riêng mình. Nhà văn sáng
tạo không gian từ câu chữ, từ cách kết cấu câu văn.
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê đã cắt nghĩa, lí giải về không
gian như sau: “Không gian là khoảng không bao la trùm lên tất cả sự vật hiện
tượng xung quanh đời sống con người” [12; 633]. Còn định nghĩa về không
gian nghệ thuật trong văn học, Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn
học: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật
thể hiện tính chỉnh thể của nó” . Trần Đình Sử lí giải thêm: “không gian nghệ
thuật là hình thức tồn tại cùng thế giới nghệ thuật”. Ông còn khẳng định một
cách hết sức chắc chắn: “không có hình tượng nghệ thuật nào không có không
gian, không có một nhân vật nào không nào không có một nền cảnh nào đó”,
và “không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện
con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống”. Như vậy, không
gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống, “mang ý
nghĩa biểu tượng nghệ thuật”. Và sự miêu tả, trần thuật bên trong tác phẩm văn
học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, ta xác định được vị trí của chủ
thể trong không - thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn, diễn ra trong một
trường nhìn nhất định.
Trong nghệ thuật kể chuyện, giọng điệu (voice) cũng là một yếu tố cơ
bản. Phản ánh quan điểm, thị hiếu thẩm mĩ của người sáng tạo, giọng điệu có
vai trò quan trọng trong việc thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả (gián tiếp qua
hình tượng người kể chuyện). Giọng điệu được thiết lập từ mối quan hệ giữa
người kể với người nghe từ thế giới sự kiện được miêu tả và tạo thành giọng
điệu trần thuật. Giọng điệu chính là một trong những “chìa khoá” quan trọng
để giải mã bức thông điệp thẩm mĩ của nhà văn. Nó là một yếu tố nghệ thuật
nhưng lại mang tính nội dung rất rõ. Do đó, trong quá trình đọc hiểu tác phẩm
không thể không nghiên cứu giọng điệu, không thể không chú ý khai thác hiệu
quả thẩm mĩ mà giọng điệu đem lại cho độc giả, đặc biệt với những tác phẩm
văn học.
Một phương diện không thể thiếu trong nghệ thuật kể chuyện đó là
ngôn ngữ kể chuyện hay còn gọi là ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ tự tự. Ngôn
ngữ trần thuật giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống phương thức tự
sự, nó là sự thể hiện trên nền hiện thực toàn bộ tư tưởng, tình cảm của nhà văn,
giọng điệu tác phẩm, cấu trúc tác phẩm. Qua ngôn ngữ trần thuật, người đọc
nhận ra phong cách, cá tính của tác giả. Đối với nhà văn, ngôn ngữ trong tác
phẩm văn học là sự khúc xạ của ngôn ngữ đời sống. Song đây là thứ ngôn ngữ
đã được lựa chọn, được sắp xếp và được cách điệu hóa theo ý muốn chủ quan
của nhà văn. Ngôn ngữ trần thuật (lời người kể chuyện) là phần lời độc thoại
thể hiện quan điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện (sản phẩm sang tạo
của tác giả) đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất
trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu tượng ngôn
ngữ. Chẳng hạn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, bên cạnh việc sử dụng các
từ ngữ tả thực sắc sảo, vẽ ra thần sắc của từng nhân vật, tình huống, nhiều lúc
nhà thơ còn sử dụng các từ tao nhã, quý phái theo nguyên tắc hoán dụ để miêu
tả như: “thu thủy, xuân sơn”, “hoa cời ngọc thốt”, “trong ngọc trắng ngà”,
“mai cốt cách, tuyết tinh thần” đồng thời xây dựng lời trần thuật, cô đúc dưới
hình thức tiểu đối, đối xứng, trùng điệp, hài hòa, có khả năng gây ấn tượng
cảm xúc mạnh: “Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”, “ Hoa trôi giạt
thắm, liễu xơ xác vàng”. Những đặc điểm này cho thấy tác giả không chỉ tái
hiện chân thực cuộc sống, mà còn muốn miêu tả một cách thẫm mĩ, trang
trọng, cổ điển.
Ngôn ngữ trần thuật có thể có một giọng (chỉ nhằm gọi ra sự vật) hoặc
có hai giọng (mỉa mai, lời nửa trực tiếp) thể hiện sự đối thoại với ý thức khác
về cùng một đối tượng miêu tả. Ngôn ngữ trần thuật dưới hình thức lới người
kể chuyện ngoài đặc điểm như trên còn mang thêm các sắc thái, quan điểm bổ
sung do lập trường, đặc điểm tâm lí, cá tính của nhân vật – người kể chuyện
mang lại.
Qua đây, có thể thấy nghệ thuật kể chuyện là những thủ pháp, phương
thức mà nhà văn sử dụng để kể chuyện. Nó góp phần lớn trong việc xem xét
đánh giá nhân vật, sự kiện cũng như tái tạo câu chuyện. Mỗi yếu tố của nghệ
thuật kể chuyện đều có vai trò, ý nghĩa làm nên sức hấp dẫn khác nhau của
nghệ thuật kể chuyện, tạo nên sức hấp dẫn của câu chuyện với người đọc và
phong cách sáng tạo độc đáo của nhà văn.
1.2. Tác giả Tô Hoài
1.2.1. Cuộc đời
Tô Hoài (27/9/1920 – 6/7/2014). Tên thật là Nguyễn Sen. Ông có các
bút danh khác như: Mắt Biển, Mai Trang, Duy Phương, Hồng Hoa (dùng cho
viết báo). Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài
Đức.
Quê nội ông ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Tuy
nhiên, Tô Hoài sinh ra và lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, Từ Liêm, phủ
Hoài Đức (nay thuộc phường Nghĩa Đô, Hà Nội).
Ông xuất thân trong một gia đình làm nghề thủ công: dệt lụa. Học hết
bậc tiểu học, sau đó Tô Hoài vừa tự học, vừa làm đủ các nghề để kiếm sống:
thợ thủ công, dạy học tư, bán hàng, kế toán hiệu buôn… Những tác phẩm đầu
tiên của ông được in trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy vào cuối
những năm 30 của thế kỉ XX.
Năm 1938, ông tham gia Hội Ái hữu công nhân rồi tham gia phong trào
Thanh niên phản đế. Năm 1943, gia nhập tổ Văn hóa cứu quốc đầu tiên tại Hà
Nội.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài tham gia phong trào Nam tiến, rồi
lên Việt Bắc làm báo Cứu Quốc, chủ nhiệm tờ Cứu quốc Việt Bắc, chủ bút Tạp
chí cứu quốc.
Từ năm 1951 về công tác ở hội Văn nghệ Việt Nam. Năm 1957 được
bầu làm Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1958 – 1980 tiếp tục tham gia
Ban chấp hành, Phó tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1966 – 1996: chủ
tịch Hội Văn nghệ Hà Nội.
Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
1.2.2.1. Những chặng đường sáng tác
Trước Cách mạng tháng Tám:
Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười bảy, mười tám. Những sáng tác
đầu tay của ông được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy. Tuy
xuất hiện ở giai đoạn cuối của thời kì 1930 - 1945 nhưng Tô Hoài đã sớm
khẳng định được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kì này bằng một
loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc như : Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người
(1941), O chuột (1942), Trăng thề (1943) Nhà nghèo (1944 ). Từ các tác phẩm
này, người đọc dễ nhận thấy sức sung mãn dồi dào trong lao động nghệ thuật
của ông. Sau này, Tô Hoài đã bộc bạch chân thành qua Tự truyện về việc ông
đến với nghề văn, ông viết : “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước
Cách mạng tháng Tám, 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài,
truyện vừa, ba tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi nhưDế mèn thì mấy chục
truyện, cái in, cái chưa in, vương vãi lung tung tôi không nhớ hết. Cũng chẳng
có gì lạ. Viết để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc khỏe như vậy đấy”.
Tác phẩm của Tô Hoài trước cách mạng có thể phân thành hai loại
chính là : truyện về loài vật và truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo.
Qua những truyện về loài vật tiêu biểu như : O chuột, Gã chuột bạch,
Tuổi trẻ, Đôi ghi đá, Một cuộc bể dâu, Mụ ngan, Đực..., người đọc nhận thấy,
nhà văn thường viết về cái tốt đẹp, khẳng định cái thiện trong cuộc sống, bày tỏ
mong muốn một cuộc sống hạnh phúc, bình yên trong xã hội, một cuộc sống
tốt đẹp mang tính không tưởng.
Trước hết, với Dế Mèn phiêu lưu kí, tài năng nghệ thuật của Tô Hoài
được bộc lộ ở nhiều phương diện. Bằng cách quan sát, cái nhìn tinh tế về loài
vật, kết hợp với những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã lôi cuốn các
em vào thế giới loài vật bé nhỏ gần gũi, hấp dẫn và kì thú qua hình ảnh của: Dế
Mèn, Dế Trũi như anh em kết nghĩa vườn đào, sẵn sàng quên mình vì bạn, vì
nghĩa lớn. Xiến Tóc trầm lặng, vừa yêu đời vừa chán đời. Chị Cào Cào ồn ào
và duyên dáng. Bọ Ngựa kiêu căng, ngạo mạn. Cóc huênh hoang, dở hơi. Ếch
thông thái giả. Anh chàng Kỉm Kìm Kim hèn đớn. Cậu công tử bột Chim Chả
Non có mẽ mà đầu óc lại rỗng tuếch,... Từ đời sống và tích cách của từng con
vật, nhà văn nhằm bày tỏ quan niệm của mình về nhân sinh, về khát vọng
chính đáng của người lao động, về một cuộc sống hòa bình, yên vui, về tình
thương, lòng chân thành và sự đoàn kết. Bởi thế câu chuyện về chú Dế Mèn
không chỉ có ý nghĩa dành cho trẻ em, mà còn cả cho người lớn và cho cả xã
hội. Nó thực sự mang giá trị lâu bền trong đời sống tinh thần của con người,
cũng vì thế, dù ở đâu và ở thời kì nào, người đọc vẫn tìm thấy bao điều thú vị,
bao bài học ý nghĩa từ tác phẩm này. Sau này, Tô Hoài tâm sự: “Cách hiểu thế
giới đại đồng của Dế Mèn, Dế Trũi, Xiến Tóc… là cách hiểu chủ nghĩa cộng
sản của tôi với vẻ đẹp và cả cái trống rỗng thiếu sót trong suy nghĩ của tôi”.
Viết về loài vật, Tô Hoài đã dành khá nhiều trang để thể hiện chân thật,
sinh động họ nhà chuột. Các chủng loại chuột như : chuột nhắt, chuột cống,
chuột cộc, chuột bạch, chuột xù..., xuất hiện trong các tác phẩm của ông với
những đặc điểm, thói quen riêng và cả những mối quan hệ của chúng. Trong số
những truyện viết về chuột thì truyện Gã chuột bạch đã để lại cho người đọc
bao điều suy nghĩ. Cuộc sống của vợ chồng chuột bạch là “vẩn vơ tìm những
hạt gạo tẻ mà người ta rắc vào một cái đĩa ở đáy lồng”, là “đánh vòng”, dựa
vào lồng “ngủ đứng”. Ngay cả khi có dịp ra khỏi lồng chúng vẫn không lấy gì
làm thích thú mà “ngơ ngác nhìn quanh quẩn. Như là họ hít phải cái không khí
lạ. Như là họ hít phải cái không khí lạ. Như là họ chẳng quen bò giữa nơi
khoáng đãng. Và họ lại nối đuôi nhau , tha thẩn, từ từ bò vào, cũng như lúc bò
ra”. Có thể nói, qua cảnh sống của vợ chồng chuột bạch, Tô Hoài đã phê phán
cách sống nhàm chán, buồn tẻ và vô vị, cũng như tâm lí chấp nhận, lệ thuộc
của một lớp người trong xã hội, đồng thời muốn thức tỉnh những ai đang lâm
vào cảnh sống đó.
Nhiều loài vật khác qua cách miêu tả của Tô Hoài tạo cho người đọc
dấu ấn lâu bền. Đó là gã mèo mướp “lừ đừ nghiêm nghị tựa một thầy dòng,
trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quý phái và trưởng giả.
Lúc nào cũng nghĩ ngợi như sắp mưu toan một việc gì ghê gớm lắm”. Đó là
cậu gà trống gi “bé nhỏ sống côi cút một thân, một mình” thuở nhỏ, nhưng khi
lớn lại có “bộ mặt khinh khỉnh ta đây” và cũng rất đa tình, “có tật mê gái, như
cái tính chung của loài gà - cả của loài người - khi mới lớn lên”, bỏ nhà ra đi vì
ái tình, hay dễ quên đi ái tình cũ để “lần mò đi tìm một vài ái tình khác”. Với
chàng gà chọi “nhất sinh chỉ có một nghề đi đánh lẫn nhau cho người ta xem”,
“lúc nào cũng chỉ ngứa ngáy chân tay”, quả không đủ chữ nghĩa để “tả cái oai
lẫm liệt của chàng”. Chàng ta không thiết gì đến con cái, trong đầu “chỉ đen
những ý tình ma chuột”, hay “đi ve gái”, thế mà khi Một cuộc bể dâu xuất
hiện, họ nhà gà chết dần, chết mòn, chàng gà chọi dù anh hùng, lẫm liệt nhưng
rồi cũng “tắc thở” để lại “một mình chị mái già, ra lại vào, ngẩn ngơ”. Với vợ
chồng Đôi gi đá “tựa vợ chồng quê mới rủ nhau lên tỉnh. Họ lờ khờ, ngẩn ngơ,
xấu xí - nghĩa là đặc nhà quê”. Chúng cần mẫn xây tổ ấm, sống hạnh phúc,
“bình lặng, chịu khó, ít ồn ã”, chờ ngày đẻ trứng, chờ ngày trứng nở, chờ
những đứa con lớn lên từng ngày... Thế rồi, Tết đến, tiếng pháo nổ đón xuân về
vô tình đã làm tan tác gia đình chúng. Nghe tiếng pháo “kinh khủng nổ vang
động trong cây, cả nhà cuống cuồng bay đi”. Cuộc sống của đôi vợ chồng chim
gi đá rồi sẽ như thế nào trong cảnh tan tác đó đã khiến cho người đọc phải
ngậm ngùi, xót xa. Còn Mụ ngan với “cái tính ngu tối, chậm chạp” đến mức
những đứa con của mình gặp nạn, hay bị chết vẫn vô tình, thản nhiên. Kể cả
khi bị đá, bị đuổi đánh,“bị bỏ tù” thì “chúng vẫn không hiểu chi”. Hơn thế nữa
khi “chồng mụ” bị làm thịt, mụ vẫn “thản nhiên”, mụ ngan chỉ nhớ rõ “khi có
hạt ngô đo đỏ, hạt thóc vàng vàng, tàu lá xanh xanh thì xô đến mà khởi sự ăn”.
Cùng với hình ảnh của những loài vật trên là của chú chó Đực ham vui,
“la cà” với “hàng tá nhân tình” nên bị người ta thiến. Đực “buồn thỉu, buồn
thiu, đi lừ khừ quên cả ăn uống”. Tuổi xuân của Đực qua nhanh, nó trở nên
“lạnh lùng với cuộc đời và lạnh lùng với tháng ngày”, nó “lặng lẽ sống cái
cuộc đời tàn cục buồn thiu”, “héo hắt dần”. Tác phẩm kết thúc với sự xuất hiện
của một con chó khác cũng “khỏe và béo lẳn” nhưng rồi thân phận của nó chắc
gì đã khác với con Đực.
Tóm lại, thế giới loài vật trong tác phẩm của Tô Hoài thật độc đáo. Thế
giới ấy gợi lên ở người đọc sự liên tưởng về nhiều vấn đề trong đời sống xã
hội. Có lẽ, từ trước cho đến nay, trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào
viết về loài vật nhiều và đặc sắc như Tô Hoài.
Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh sống đói
nghèo cũng được nhà văn đã miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng
quẫn bế tắc của những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu bạt nơi đất
khách quê người, những người thợ thủ công bị phá sản xuất hiện dần qua từng
trang sách với tất cả niềm cảm thông chân thành của nhà văn. Đó là thân phận
của bà lão Vối trong truyện Mẹ già buộc lòng nhẫn nhục sống nương nhờ vào
con. Chỉ vì một con lợn sổng chuồng mà bà bị chính con gái mình chửi rủa chì
chiết đủ điều. Với cách nghĩ của con gái bà thì bà chẳng khác gì người đi ở
mướn, chị ta đã quát : “Thế tôi nuôi bà để làm gì mà bà lại không trông được
con lợn?”, thậm chí, không cho bà ngủ ở nhà trên mà đuổi bà xuống bếp nằm
ngủ ở đống rơm. Sáng ngày hôm sau cả nhà ăn uống nhưng hình như họ đã
quên là có bà hiện diện trong cuộc sống của gia đình mình. Đó là số phận của
chị Hối trong truyện Ông cúm bà co, bị ốm nhưng không có thuốc men chữa
chạy, rồi bệnh nặng dần vì kém hiểu biết, mê tín, kết cục phải “ra đồng” bỏ lại
mấy đứa con thơ dại. Đó còn là tấn bi kịch của anh Gà Gáy trong truyện ngắn
cùng tên. Từ đâu lưu lạc tới không ai rõ, chịu khó làm ăn cho đến khi có một
“gia đình nho nhỏ, đề huề sống yên vui” ... Thế nhưng, vì cơn ghen vô cớ của
anh khiến người vợ bỏ đi biệt tích. Đứa con, niềm an ủi duy nhất đối với anh
ngã bệnh, hết tiền chạy chữa, trong lúc khốn cùng đành liều đi ăn trộm để rồi bị
bắt, cùng lúc đó đứa con cũng chết. Từ đó “Gà Gáy sống còm cõi một mình”.
Cay đắng hơn là số phận của bé Gái trong cảnh Nhà nghèo. Nó sinh ra trong
gia đình nghèo khổ, túng thiếu và nhiều lần chứng kiến cảnh cha mẹ cãi nhau.
Nó bị rắn cắn chết trong khi cùng với cha mẹ cố tìm miếng ăn cho gia đình,
“người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết ra cả”. Cảnh đó thật xót xa, thê
thảm.
Còn biết bao những cảnh đời khác như cảnh Hương Cay trốn nợ
trong Khách nợ, cảnh xung đột của gia đình anh Hối trong Buổi chiều ở trong
nhà, cảnh tình duyên của cô Lụa trong Lụa,... Tất cả cảnh đời của họ đều gợi
cho người đọc bao điều suy ngẫm và nỗi trăn trở về hiện thực cuộc sống nhiều
bất hạnh đó.
Đáng chú ý ở thời kì này, Tô Hoài cũng có những khát vọng thoát khỏi
bế tắc, thoát khỏi cuộc sống nhàm chán buồn tẻ và vô vị, hay ước mơ của môt
chàng trai về “một trận mưa rào cho lòng người hả hê và cho trời quang
đãng” và hãy cất bước vào một buổi mai, nhắm về phía “chân trời mới đỏ thắm
màu hi vọng”, mặc dù vì nghèo nên anh không lấy được người mình yêu. “Sự
nghiệp anh không có”, “nhà anh thanh bạch quá”, “bấy nay anh chỉ có một tấm
lòng”(Xóm Giếng ngày xưa).
Tóm lại, trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã có khi bế tắc trước
cuộc đời nhưng cuối cùng nhà văn vẫn đứng vững ở vị trí của một nhà văn hiện
thực. Tâm hồn của Tô Hoài bao giờ cũng có được vẻ đẹp trong sáng, đáng trân
trọng trong cảnh đời đen tối thời kì này. Ở đề tài nào và đối tượng khám phá
nào, thế giới nghệ thuật của Tô Hoài trước cách mạng đều thấm đượm tính
nhân văn và mang dấu ấn khá sâu đậm về một quãng đời của ông. Ông quan
niệm :“ Những sáng tác của tôi đều miêu tả tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi,
mọi cái của mình quanh mình. Những nghèo đói, cùng túng, đau đớn. Phần nào
nhẹ nhàng hay xót xa, hay ngịch ngợm và đá chút khinh bạc là phần nào con
người và tư tưởng tiểu tư sản của tôi”(Một quãng đường).
Sau Cách mạng tháng Tám:
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư
tưởng và sáng tác. Tâm trạng trăn trở, phân vân định hướng không dừng lại quá
lâu ở Tô Hoài. Ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và sáng
tạo thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể loại loại khác nhau. Trong
đó, tiểu thuyếtMiền Tây của ông đạt giải thưởng Bông sen vàng của Hội Nhà
văn Á Phi vào năm 1970.
Bước chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được thể hiện rõ ở cả chủ đề
và đề tài. Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ảnh trong phạm vi
của một vùng dân nghèo ngoại thành Hà Nội nơi ông từng gắn bó, mà ông còn
hướng đến một không gian rộng lớn, đến với cuộc sống của nhiều lớp người,
nhiều vùng đất khác nhau, nổi bật nhất là miền núi Tây Bắc. Tây Bắc không
còn là miền đất xa lạ, nó đã trở thành quê hương thứ hai của Tô Hoài. Ông viết
về Tây Bắc không chỉ bằng tài năng nghệ thuật, vốn sống phong phú, mà còn
bằng cả tình yêu đằm thắm thiết tha như chính quê hương mình. Bởi lẽ, với Tô
Hoài: “Đất nước và người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”,
hình ảnh Tây Bắc “lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm
trí tôi”, nó có sức ám ảnh mạnh mẽ khơi dậy nguồn cảm hứng sáng tạo và thúc
đẩy nhà văn viết thành công nhiều tác phẩm về miền đất này. Trên cơ sở đó, có
thể xem ông là nhà văn của miền núi Tây Bắc, là một trong những người đặt
nền móng cho nền văn học viết về đề tài Tây Bắc.
Tác phẩm đầu tiên của Tô Hoài viết về miền núi là tập truyện Núi
Cứu quốc(1948). Ở tác phẩm này ông đã thể hiện được cảnh sống vất vả, thiếu
thốn, nhưng giàu nghĩa tình đối với cách mạng, cũng như ý chí quyết tâm chiến
đấu của đồng bào miền núi. Tuy nhiên, tác phẩm này còn nặng về thể hiện,
miêu tả các tài liệu, bề mặt của vấn đề mà ít đi vào khám phá chiều sâu, bản
chất của nó để rồi “chết chìm trong tài liệu” như nhà văn đã tâm sự trong Một
số kinh nghiệm viết văn của tôi. Vì thế, tác phẩm trên còn thiếu sự sinh động,
thiếu sức hấp dẫn đối với người đọc.
Phải đến Truyện Tây Bắc, Tô Hoài mới có được sự thành công đặc sắc ở
mảng đề tài về miền núi Tây Bắc. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống phong
phú về Tây Bắc, ông đã thể hiện được một cách chân thật, sinh động những nỗi
đau thương, khổ nhục của họ dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù thực dân
phong kiến.
Tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, Cứu đất cứu
mường, Vợ chồng A Phủ. Hình ảnh người lao động miền núi Tây Bắc nghèo
khổ, mà nhất là người phụ nữ trong tập truyện này được Tô Hoài miêu tả với
tất cả niềm cảm thông sâu sắc. Cảnh đời của Mị, một cô dâu gạt nợ chết dần,
chết mòn trong địa ngục trần gian của nhà thống lí Pá Tra, hay thân phận của
cô Aûng, từ cô gái có vẻ đẹp nổi tiếng ở Mường Cơi bị xem như món đồ chơi
qua tay nhiều quan châu, quan lang, chúa đất cho đến khi tàn tạ trở thành bà
lão Ảng ăn mày..., đã để lại cho người đọc biết bao điều suy nghĩ về cuộc sống
đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ Tây Bắc dưới sự đè nén áp bức nặng nề
của thực dân và phong kiến ở miền núi. Mặt khác, qua tập truyện trên, Tô Hoài
đã khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người miền núi Tây Bắc,
cũng như lí giải thành công về con đường tất yếu họ phải tìm đến để thoát khỏi
cuộc sống bị đọa đày áp bức đó là con đường cách mạng.
Có thể nói, Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên
con đường sáng tạo nghệ thuật, và bộc lộ sự nhận thức đúng đắn của Tô Hoài
về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cách mạng.
Tài năng nghệ thuật của Tô Hoài khi viết về miền núi càng về sau
càng được phát huy và khẳng định qua nhiều tác phẩm khác từ sau 1955
như : Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Họ Giàng ở Phìn Sa, Nhớ Mai
Châu,... Nhà văn tiếp tục ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của các dân tộc ở miền núi
Tây Bắc trong đời sống kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua
những hình ảnh thực như : Hoàng Văn Thụ (dân tộc Tày), Kim Đồng (dân tộc
Nùng), Giàng A Thào, Vừ A Dính (dân tộc Hmông)... Tất cả họ đều thủy
chung, gắn bó son sắt với cách mạng và cuộc đời mới. Nhiều người đã ngã
xuống vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho quê hương đất nước. Chủ nghĩa
anh hùng cách mạng
Trong số tác phẩm viết về miền núi Tây Bắc sau 1955 của Tô Hoài, tiểu
thuyết Miền Tây là tác phẩm nổi bật nhất. Miền Tây có cốt truyện xoay quanh
sự đổi đời của gia đình bà Giàng Súa nhờ cách mạng. Cách mạng đã đem lại
cho gia đình bà nhiều niềm vui giản dị trong cuộc sống đời thường. Các con bà
như Thào Khay, Thào Mị đã trở thành cán bộ gương mẫu góp phần làm nên sự
đổi thay trong cuộc sống cho quê hương Tây Bắc. Bên cạnh đó, với Miền Tây,
Tô Hoài đã có thêm những nét mới về nghệ thuật trong cách triển khai cốt
truyện, dựng cảnh, cách khai thác các chi tiết nghệ thuật, và nhất là việc xây
dựng thành công một số nhân vật mang tính điển hình tạo nên ở người đọc dấu
ấn sâu bền như : Giàng Súa, Thào Khay, Vừ Sóa Tỏa. Đặc biệt, nhà văn có sự
kết hợp hài hòa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn trong quá trình sáng
tạo. Chính điều này đã góp phần làm nên vẻ đẹp rất chân thật mà cũng rất giàu
chất thơ mộng lãng mạn cho Miền Tây.
Sống trong cuộc đời mới, nhà văn Tô Hoài cũng “ôn chuyện cũ”, ngòi
bút của ông hướng về xã hội trước Cách mạng tháng Tám từ cách nhìn, sự suy
ngẫm sâu sắc hơn theo thời gian và những trải nghiệm trong cuộc sống. Ở tiểu
thuyết Mười năm, với tầm nhận thức mới và từ chỗ đứng của cuộc sống hiện
tại nhiều đổi thay mang ý nghĩa lớn trong đời sống dân tộc, Tô Hoài đã phản
ảnh chân thật và sinh động hơn cảnh sống bi thảm, đói nghèo, cùng quẫn ở một
vùng quê ven đô, nơi mà nhà văn đã chứng kiến và trải qua cùng với bao số
phận khác. Đồng thời, qua Mười năm, nhà văn cũng thể hiện được quá trình
giác ngộ cách mạng của quần chúng cũng như sức mạnh của họ trong các
phong trào đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân phong
kiến. Đi đầu trong phong trào đấu tranh là lớp thanh niên như Lạp, Trung, Lê,
Ba,... Họ tiếp thu ánh sáng lí tưởng mới, và hăng hái nhiệt tình tham gia các
hoạt động để đem lại sự đổi thay cho cuộc sống.
Ở Mười năm, còn một số chi tiết có thể gạt bỏ để tác phẩm có thể hoàn
thiện hơn, nhưng điều cần nhận thấy, ở tác phẩm này Tô Hoài với tầm nhận
thức mới đã phát huy được sự sắc sảo trong cách quan sát và bút pháp thể hiện.
Sau tiểu thuyết Mười năm, Tô Hoài còn viết nhiều tác phẩm khác về
ngoại thành Hà Nội như : Quê người, Quê nhà, Những ngõ phố, người đường
phố, và gần đây là Chuyện cũ Hà Nội (hai tập). Điều đó cho thấy vốn sống,
nguồn tư liệu, cũng như nguồn cảm hứng sáng tác của Tô Hoài về Hà Nội vô
cùng phong phú đa dạng. Từ các tác phẩm viết về Hà Nội của ông, người đọc
có điều kiện hiểu hơn về phong tục, nếp sinh hoạt, tên gọi phố phường, con
người Hà Nội trải dài suốt cả thế kỉ XX trong cuộc sống đời thường và cả trong
chiến tranh.
Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài còn
đạt được thành tựu đặc sắc ở thể kí. Nhiều tác phẩm kí của ông xuất hiện sau
những chuyến đi lên Tây Bắc như Nhật kí vùng cao, Lên Sùng Đô, hay đi thăm
nước bạn như Tôi thăm Cămpuchia, Thành phố Lênin, Hoa hồng vàng song
cửa,... Đặc biệt, Tô Hoài có các tập hồi kí gắn liền với bao nỗi vui buồn và mơ
ước của tuổi thơ, bao kỉ niệm về những bạn văn, đời văn của ông như Tự
truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều. Từ các tập hồi kí này, người đọc có điều
kiện để hiểu thêm về phong cách nghệ thuật, thân phận, nhân cách nhà văn
trong hành trình văn chương của ông và một số nhà văn khác. Cách viết hồi kí
của Tô Hoài rất linh hoạt biến hóa, các sự kiện được khai thác theo mạch liên
tưởng và đan xen lẫn nhau nên luôn tạo được sức hấp dẫn đối với người đọc
không thua kém gì so với thể loại khác.
Bên cạnh những mảng sáng tác trên, Tô Hoài còn tiếp tục viết khá nhiều
tác phẩm cho thiếu nhi như : Con mèo lười, Vừ A Dính,Đảo hoang, Chuyện nỏ
thần, Nhà Chử,… Ở mảng sáng tác này, ngay cả khi tuổi tác không còn trẻ Tô
Hoài vẫn có được cách cảm nhận và thể hiện đời sống qua trang văn phù hợp
với tâm hồn, nhận thức của tuổi thơ, để cùng các em đến với một thế giới biết
bao điều kì thú. Trên cơ sở đó góp phần bồi đắp vẻ đẹp và sự trong sáng, cao cả
cho tâm hồn trẻ thơ.
Tóm lại: Những sáng tác của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám đã
khẳng định được vị trí và tài năng nghệ thuật của ông trước hiện thực của cuộc
đời mới. Ông xứng đáng là một tấm gương trong sáng trong lao động nghệ
thuật để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2.2. Một số tác phẩm chính:
* Tác phẩm của Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám :
Dế
mèn
phiêu
lưu
kí (1941), Quê
người (1941), Ổ
chuột (1942), Giăng
thề (1943), Nhà nghèo (1944), Xóm Giếng ngày xưa (1944), Cỏ dại (1944).
* Tác phẩm chính của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám :
- Truyện ngắn : Núi cứu quốc (1948), Xuống làng (1950), Truyện Tây
Bắc (1953, Giải nhất tiểu thuyết năm 1956 của Hội Văn nghệ Việt Nam), Khác
trước(1957), Vỡ tỉnh (1962), Người ven thành (1972).
- Tiểu thuyết : Mười năm (1957), Miền Tây (1967, Giải thưởng Bông sen
vàng năm 1970 của Hội Nhà văn Á Phi), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Tự
truyện(1978), Những ngõ phố, người đường phố (1980), Quê nhà (1980, Giải A
năm 1980 của giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội), Nhớ Mai Châu (1988).
- Kí: Đại đội Thắng Bình (1950), Thành phố Lênin (1961), Tôi thăm
Cămphuchia (1964), Nhật kí vùng cao (1969), Trái đất tên người (1978), Hoa
hồng vàng song cửa (1981). Cát bụi chân ai (1992).
- Truyện thiếu nhi : Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999)
- Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác : Một số kinh nghiệm viết văn của
tôi (1959), Người bạn đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và
phươngpháp viết văn (1997).
Tô Hoài có nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đặc biệt Dế mèn
phiêu lưu kí được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất.
Nhìn chung, Tô Hoài là một nhà văn sớm bước vào đời, vào nghề văn và cũng
sớm tham gia hoạt động cách mạng. Ông viết ở nhiều thể loại và thể loại nào ông cũng
đạt được những thành công đặc sắc. Đặc biệt là ở những tác phẩm viết về loài vật và
miền núi Tây Bắc. Tô Hoài luôn có những cố gắng tìm tòi, khám phá trong sáng tạo nghệ
thuật, đó là một trong những yếu tố góp phần làm nên sức hấp dẫn, sức sống và ý nghĩa
lâu bền ở tác phẩm của ông đối với đời sống tinh thần của người đọc nhiều thế hệ.
1.3. Tác phẩm
1.3.1. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện Tây Bắc được sáng tác năm 1953. Cuối năm 1952, nhà văn Tô
Hoài tham gia chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Sau đó Tô Hoài đi sâu vào
những khi du kích của đồng bào dân tộc thiểu số trên vùng núi cao như:
Mường La, Tú Lệ, Thuận Châu (Sơn La), Phú Nhung, Tuần Giáo, Điện Biên
(Lai Châu). Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại trong tác giả những ấn
tượng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp về một “Tây Bắc đau thương và dũng cảm”.
Tô Hoài kể lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng
ấy là đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi
không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ
tiễn tôi ra khỏi dốc núi làng Tà Sua, đưa rồi cùng vẫy tay gọi theo “Chéo lù!,
Chéo lù!” (Trở lại! Trở lại!)… Hai tiếng “Trở lại! Trở lại!” chẳng những nhắc
tôi có ngày trở lại, phải đem trở lại cho những người thương ấy của tôi một kỉ
niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cả cuộc đời người HMông
trung thực, chí tình, dù gian nan đến thế nào; bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ
đội, bao giờ cũng mong an hem trở lại.” (Một số kinh nghiệm viết văn của tôi
– Tô Hoài. 1959). Chính vì vậy mà tới mùa thu 1953 Tô Hoài viết xong tập
Truyện Tây Bắc. Trong đó Tô Hoài tập trung và làm nổi bật lên hình ảnh con
người các dân tộc Tây Bắc đã chịu đựng cực khổ trong những năm giặc chiếm
nhưng lòng luôn hướng về kháng chiến, quật cường và bất khuất chiến đấu cho
tới ngày hoàn toàn giải phóng. Tác phẩm in rõ dấu ấn phong cách nghệ thuật
độc đáo của Tô Hoài, màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ, chất trữ tình thấm
đượm, ngôn ngữ và lời văn giàu giá trị tạo hình. Tập Truyện Tây Bắc là một
thành quả mới, một bước phát triển mới về tư tưởng và nghệ thuật trong cuộc
đời sáng tác văn chương của ông.
Tác phẩm được tặng giải nhất về truyện, kí (đồng hạng với Đất nước
đứng lên – Nguyên Ngọc) giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 –
1955.
Truyện Tây Bắc gồm ba truyện:
Cứu đất cứu mường: Truyện diễn tả quang cảnh một khu du kích
người Dao tổ chức như thế nào, chống càn như thế nào, và lồng vào đó câu
chuyện thương tâm của mẹ con bà Ảng.
Mường Giơn: Viết về dân tộc Thái, nhưng trong đó tác giả có nhắc
đến người Dao, ông nói nhiều đến tinh thần kháng chiến của người Dao và mối
quan hệ tốt đẹp của người Thái và Dao, Kinh và Dao.
Vợ chồng A Phủ: Viết về hai chặng đường đời của Mị và A Phủ:
những ngày ở Hồng Ngài trong nhà thống lí Pá Tra và khi chạy sang Phiềng Sa
– nên vợ nên chồng, gặp gỡ cách mạng và trở thành du kích. Vợ chồng A Phủ
là đứa con tinh thần sau nhiều suy nghĩ suy nghĩ trăn trở của tác giả về đời
sống và tâm hồn người miền núi. Truyện ngắn được xem là món quà ân tình
mà tác giả dành cho đồng bào dân tộc vùng cao phía tây bắc của tổ quốc.
Tóm tắt truyện “Vợ chồng A Phủ”:
Truyện Vợ chồng A Phủ có cốt truyện khá đơn giản, bám sát theo diễn
biến cuộc đời hai nhân vật chính và được trình bày theo trình tự thời gian.
Truyện kể về cuộc đời hai thanh niên dân tộc Mèo ở vùng Tây Bắc. Mị
vốn là cô gái trẻ đẹp nhưng bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra ở
Hồng Ngài. Mị bị bóc lột và sống cuộc đời đọa đày, tủi nhục, sống lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa. Mị sống mà chẳng khác nào như đã chết. Trong
cảnh sống tăm tối đó Mị vẫn khao khát hạnh phúc. Vào đêm tình mùa xuân,
tiếng sáo của thanh niên nam nữ đã đánh thức trong Mị niềm khát khao tự do
và hạnh phúc. Mị muốn đi chơi nhưng A Sử đã trói đứng Mị vào cột nhà.
Còn A Phủ là một thanh niên nghèo, mồ côi có tài săn bắn và siêng năng
lao động. Vì đánh A Sử nên A Phủ bị phạt nợ trở thành người ở trừ nợ. Một lần
A Phủ để mất một con bò, A Phủ bị quật hình trói đứng suốt mấy ngày đêm.
Cảm thương người cùng cảnh ngộ, Mị cắt dây trói cho A Phủ, cả hai chạy khỏi
nhà thống lí.
Đến Phiềng Sa, họ trở thành vợ chồng, cùng nhau xây dựng cuộc sống
mới. Nhưng giặc Tây đến bắt lợn của A Phủ, bắt anh về đồn và hành hạ, A Phủ
trốn thoát, nhưng cuộc sống bị bế tắc. Vào lúc đó, cán bộ kháng chiến A Châu
đã đến và giác ngộ cách mạng cho vợ chồng A Phủ, họ kết nghĩa anh em, cùng
nhau kháng chiến chống thực dân Pháp và tay sai. A Phủ trở thành đội viên du
kích tham gia đánh giặc giải phóng bản mường.
1.3.2. Chủ đề
Con đường đi và số phận của hai người thanh niên Mèo – Mỵ và A Phủ,
khá tiêu biểu cho vận mệnh lịch sử của nhân dân các dân tộc thiểu số miền núi
trong cách mạng. Đấy là con đường từ tự phát đến tự giác đấu tranh chống đế
quốc và phong kiến, từ trong đau khổ tăm tối vươn ra ánh sáng, dưới sự dìu dắt
của cán bộ Đảng. Trong quá trình ấy, những người nông dân lao động nghèo
khổ ở miền núi đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp và trở thành những quần
chúng cách mạng, những con người mới.
Có thể xem nhận định trên là chủ đề truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Cùng
với hai truyện nữa trong tập Truyện Tây Bắc, Vợ chồng A Phủ là tác phẩm
thành công xuất sắc đầu tiên về đề tài miền núi trong trong nền văn xuôi cách
mạng hiện đại. Có thể nói, Tô Hoài đã góp phần đổi mới đề tài miền núi trong
nền văn học ta từ trước cho đến lúc đó. Với Truyện Tây Bắc, hình ảnh chân
thực của các dân tộc miền núi trong quá trình phát triển cách mạng đã được
phản ánh vào văn học, với hai vấn đề cơ bản là đấu tranh chống đề quốc và
phong kiến.
Ở truyện Vợ chồng A Phủ, trong khi tập trung diễn tả quá trình đến với
Cách mạng của các nhân vật, tác giả cũng đồng thời đề cập đến những vấn đề
có ý nghĩa trong cuộc sống của nhân dân miền núi: vấn đề giải phóng phụ nữ,
vấn đề tình yêu và hạnh phúc của thanh niên… Những vấn đề ấy làm sâu sắc
và phong phú thêm ý trung tâm của tác phẩm.
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN CỦA TÔ HOÀI TRONG
TRUYỆN NGẮN VỢ CHỒNG A PHỦ.
2.1. Người kể chuyện trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô
Hoài.