Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài tập lớn Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật Đại học Luật Hà nội 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.51 KB, 12 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ
MÔN:
………………………………
ĐỀ BÀI: …
…………………………………..

HỌ TÊN

: NEO

MSSV

: 381XXX

LỚP

: N0…

NHÓM

: 0…

Hà Nội, 2016

MỞ ĐẦU


Xã hội là cả một gia đình lớn, mà đã là một gia đình thì không thể nào


thiếu đi các mối quan hệ giữa người với người. Mỗi cá nhân đều không thể
tự cô lập bản thân mình trong một cái kén nhỏ, mà phải bước ra, hoà nhập
trong các mối quan hệ của cộng đồng. Nếu ví cả xã hội là một cái cây to,
thì các mối quan hệ giống như những cành những nhánh ngày càng vươn
cao và phát triển, rậm rạp, đan xen, phức tạp với nhiều chiều hướng khác
nhau. Bởi vậy, những quan hệ xã hội rất cần được “uốn nắn”, được tác
động, được điều chỉnh trong những khuôn khổ chung để phù hợp với cộng
đồng. Điều chỉnh hành vi con người có nhiều công cụ khác nhau, trong đó,
pháp luật và đạo đức là những công cụ rất quan trọng. Những công cụ này
đã điều chỉnh một cách hợp lí, tích cực các quan hệ xã hội phổ biến.
Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức là một đề tài rộng và phức tạp cần
được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. Nhận thấy được tính cấp thiết của
việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, em chọn đề bài
số 7: “ Thông qua bài viết “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội” của tác giả Hoàng Thị
Kim Quế (Tạp chí Nhà nước và Pháp luât số 7/1999) để làm rõ một số
nội dung...”
Dưới đây là phần trình bày của em về đề tài. Bài làm còn nhiều thiếu
xót nên em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để
hoàn thiện hơn và rút kinh nghiệm cho những bài tập sau. Em xin chân
thành cảm ơn!

THÂN BÀI
I. TÓM TẮT NỘI DUNG BÀI VIẾT
Nghiên cứu đề tài mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, có thể được
xem là một trong những hướng nghiên cứu cơ bản của khoa học pháp lý.


Trong phạm vi bài viết “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội” của tác giả Hoàng Thị Kim Quế

(Tạp chí Nhà nước và Pháp luât số 7/1999) có nêu một số ý kiến sau:
1: Vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức trong hệ thống các
quy điều chỉnh xã hội
Mọi xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển được trên cơ sở của sự trật tự
và ổn định, được hình thành nên nhờ một hệ thống rất phong phú các quy
phạm điều chỉnh xã hội. Hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội ở nước
ta hiện nay bao gồm: quy phạm pháp luật, quy phạm đạo đức tập quán,
phong tục, luật tục, hương ước, quy ước của các cộng đồng dân cư, quy
phạm của các tổ chức xã hội, và các tổ chức tôn giáo. Trong đó, tác giả
định nghĩa:
Tập quán là những thói quen xử sự, những tác phong được lặp đi lặp
lạo trong thời gian ở cá nhân hay ở một cộng đồng hoặc ở toàn xã hội.
Những hành vi vi phạm tập quán sẽ bị áp dụng những chế tài nhất định, đó
là dư luận xã hội.
Phong tục là thói quen lan rộng, đã ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu
đời, được đa số mọi người chấp nhận và làm theo. Phong tục có phạm vi
điều chỉnh rộng. Phong tục cũng là một loại tập quán, nhưng có nhiều điểm
khác với những tập quán thông thường bởi tính chất, mức độ bắt buộc cao
hơn so với tập quán.
Luật tục được hiểu là những tập quán, phong tục tồn tại dưới dạng
truyền khẩu và thành văn, là hệ thống những quy tắc xử sự điều chỉnh mọi
mặt của đời sống cộng đồng. Luật tục chỉ bảo gồm những phong tục, tập
quán, quy lệ tác động đến những hành vi cá nhân trong cộng đồng với nhau
như những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc, gắn với hình thức xử phạt và
khen thưởng.
Hương ước làng cũng là một loại quy tắc xã hội có vai trò rất quan
trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội ở làng, thôn. Nội dung của


hương ước có nhiều điểm phù hợp với pháp luật, đạo đức truyền thống,

thuần phong mỹ tục của dân tộc ta.
Trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội, pháp luật và đạo đức
giữ vị trí trung tâm, có vai trò quan trọng nhất, có phạm vi điều chỉnh rộng,
bao quát tất cả các lĩnh vực quan hệ xã hội.
Mặc dù mỗi loại quy phạm xã hội có vị trí, vai trò, đặc thì điều chỉnh
riêng của mình, song chúng bao giờ cũng phải nằm trong một thể thống
nhất, có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Cần sử dụng linh
hoạt các quy phạm xã hội để phát huy những hiệu quả, ưu thế, đồng thời
những ảnh hưởng tiêu cực của chúng. Pháp luật khi áp dụng, muốn được
công bằng và đầy đủ, cần phải được bổ sung bằng tục lệ, tập quán.
2: Sự thống nhất, sự khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật và
đạo đức
2.1: Sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức
Pháp luật và đạo đức đều có chức năng chung là điều chỉnh hành vi của
con người và các mối quan hệ xã hội. Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ
hữu cơ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Tính thống nhất của pháp luật và đạo đức
cũng được thể hiện trong quy định của chúng đối với cái thiện và cái ác.
Ngoài ra, còn được thể hiện ở thái độ, sự đánh giá, cảm nhận, cách xử lý
đối với những hành vi của con người và ở mối tương quan giữa các hành vi
vi phạm pháp luật và đạo đức
2.2: Sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức
Về phạm vi điều chỉnh, pháp luật và đạo đức không hoàn toàn trùng
hợp nhau. Có những lĩnh vực quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh được
nhưng lại không thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo đức, và ngược lại. Pháp
luật điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng, cơ bản, ít nhiều mang ý
nghĩa quốc gia. Đạo đức điều chỉnh những mối quan hệ xã hội thuộc về các
lĩnh vực liên quan đến tình cảm, được đánh giá từ phương diện đạo đức.
Nếu đứng trên phương diện xem đạo đức là một yếu tố tinh thần không thể



tách rời khỏi hành vi của con người, đạo đức có phạm vi điều chỉnh rộng
hơn pháp luật.
Về hình thức, mức độ thể hiện, pháp luật có mức độ thể hiện cụ thể,
chi tiết hơn đạo đức. Đạo đức được thể hiện một cách đa dạng, phổ quát
hơn và chủ yếu được tồn tại dưới dạng bất thành văn. Về tổng thể, đạo đức
được thể hiện chủ yếu dưới hình thức dư luận xã hội.
Về các phương thức đảm bảo thực hiện, nếu như đạo đức được đảm
bảo thực hiện từ những yêu tố kích thích nội tâm, lương tâm, từ thói quen
xử sự và sức mạnh bên ngoài. Thì pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng
hoạt động tổ chức, thuyết phục và cưỡng chế của Nhà nước, bằng sự tự
giác của con người. Đạo đức và pháp luật đều dựa trên sức mạnh của cưỡng
chế, nhưng tính chất của cưỡng chế, biện pháp thực hiện cưỡng chế lại có
sự khác nhau.
2.3: Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức
Sự tác động qua lại này thể hiện ở vai trò của pháp luật đối với đạo
đức và ngược lại. Pháp luật dựa trên một cơ sở đạo đức nhất định, và là một
tỏng những hình thức khẳng định, ghi nhận, bảo vệ những nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức thống trị trong xã hội, để biến chúng thành thói quen.
Pháp luật không tại ra bản thân các giá trị đạo đức. Pháp luật ghi nhận đạo
đức và là phương tiện đảm bảo cho đạo đức được thực hiện trong cuộc
sống thông qua các biện pháp tác động của Nhà nước.
Đạo đức là cơ sở, là môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và
thực hiện pháp luật. Những quan điểm, những chuẩn mực được sử dụng để
giải thích các quy phạm pháp luật, các vấn đề pháp lý cụ thể nảy sinh trong
đời sống. Đạo đức là phương tiện quan trọng bổ sung, hỗ trợ cho pháp luật.
Vai trò của đạo đức không chỉ thể hiện trong những quan hệ xã hội không
có pháp luật điều chỉnh, mà còn cả trong những quan hệ xã hội có pháp luật
điều chỉnh.



Pháp luật và đạo đức có mối liên hệ mật thiết với nhau, phát huy tác
dụng khi được bổ sung, hỗ trợ nhau. Quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp
với đạo đức là một tất yếu khách quan trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở nước ta.
II. ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU TRONG QUAN ĐIỂM VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA TÁC GIẢ
HOÀNG THỊ KIM QUẾ VỚI TÁC GIẢ NGUYỄN VĂN NAM
TRONG BÀI VIẾT: “ NHẬN THỨC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC” (TẠP CHÍ LUẬT HỌC, SỐ 4/2006)
1. Điểm giống nhau giữa hai bài viết
1.1: Xét trên phương diện về vị trí và sự thống nhất, điểm giống nhau
cơ bản giữa pháp luật và đạo đức
Về vị trí, pháp luật và đạo đức là những phương tiện điều chỉnh giữ vị
trí trung tâm, có vai trò quan trọng bậc nhất đối với các quan hệ xã hội.
Về phạm vi tác động, pháp luật và đạo đúc tác động đến tất cả các cá
nhân, tổ chức trong xã hội, hầu hết các lĩnh vực trong đời sống.
Về mối quan hệ, giữa pháp luật và đạo đức luôn có sự phù hợp nhất
định. Chúng đều là công cụ để tổ chức, quản lý đời sống xã hội, giữ gìn trật
tự xã hội, phù hợp với ý chí và lợi ích chung của toàn xã hội.
1.2: Xét trên phương diện về điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật
và đạo đức
Về hình thức thể hiện, đạo đức được thể hiện một cách đa dạng, phổ
quát hơn và chủ yếu được tồn tại dưới dạng bất thành văn. Pháp luật ngày
nay tồn tại phổ biến dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
Về phạm vi điều chỉnh, có những lĩnh vực quan hệ xã hội mà pháp
luật điều chỉnh được nhưng lại không thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo
đức, và ngược lại. Nếu đứng trên phương diện xem đạo đức là một yếu tố
tinh thần không thể tách rời khỏi hành vi của con người, đạo đức có phạm
vi điều chỉnh rộng hơn pháp luật.



1.3: Xét trên phương diện về sự tác động qua lại giữa pháp luật và
đạo đức
Pháp luật ghi nhận đạo đức và là phương tiện đảm bảo cho đạo đức
được thực hiện trong cuộc sống thông qua các biện pháp tác động của Nhà
nước, loại trừ những quan điểm, chuẩn mực đạo đức tiêu cực. Đạo đức là
cơ sở, là môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp luật.
Pháp luật và đạo đức có mối liên hệ mật thiết với nhau, phát huy tác dụng
khi được bổ sung, hỗ trợ nhau.
2. Điểm khác nhau giữa hai bài viết
2.1:Về cách đặt vấn đề
Trong bài viết “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội” (Tạp chí Nhà nước và Pháp luât số
7/1999), tác giả Hoàng Thị Kim Quế đã đi thẳng vào đề tài mối quan hệ
giữa đạo đức và pháp luật. Còn trong bài viết “ Nhận thức về mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức” (Tạp chí Luật học số 4/2006), tác giả Nguyễn
Văn Năm giải thích khái niệm đạo đức và pháp luật rồi mới đi vào mối
quan hệ giữa chúng.
2.2: Về cách triển khai nội dụng
`

Tác giả Hoàng Thị Kim Quế nêu vị trí, vai trò của pháp luật và đạo

đức trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội, rồi mới phân tích mối
quan hệ giữa đạo đức và pháp luật.
Trong phần phân tích điểm giống nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo
đức, tác giả Nguyễn Văn Năm có đề cập thêm hai nội dung.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
1. Tác động của pháp luật với đạo đức

Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, pháp luật có ảnh hưởng, tác động
to lớn đến đời sống xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Pháp luật là
công cụ để truyền bá những quan điểm, tư tưởng đạo đức phù hợp với ý chí


của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đảng cộng sản Việt
Nam. Pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để ngăn chặn sự băng hoại về mặt
đạo đức. Pháp luật bài trừ những quan điểm trái với lợi ích của toàn xã hội
cũng như lợi ích của giai cấp cầm quyền. Xuất phát từ những lý do trên,
trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta có nhiều văn bản
mà trong đó có các khoản là sự chuyển hóa trực tiếp từ các chuẩn mực đạp
đức.
2. Tác động của đạo đức với pháp luật
Các chuẩn mực đạo đức, đặc biệt là đạo đức truyển thống đã ngấm sâu
vào đời sống của người Việt nam qua các thế hệ, có khả năng chi phối
suy nghĩ và hành động của các cá nhân, cũng như dư luận xã hội. Đạo
đức bổ sung cho pháp luật những trường hợp pháp luật không có. Những
quan điểm đạo đức phù hợp với ý chí của Nhà nước thì được thừa nhận
trong pháp luật. Những quy tắc đạo đức trái với ý chí của Nhà nước sẽ trở
thành tiền đề để hình thành nên những quy phạm thay thế chúng. Tuy
nhiên, đạo đức còn mang tác động tiêu cực đến pháp luật. Những quan
điểm đạo đức đi ngược với ý chí của Nhà nước sẽ cản trở việc thực hiện
pháp luật trong thực tế, khiến các quy phạm pháp luật khó đi vào đời
sống nhân dân.


KẾT LUẬN
Giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ tác động qua lại, cả
hai đều có vai trò trong sự điều chỉnh hành vi của con người trong đời sống
xã hội. Phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, giáo dục tuyên

truyền nâng cao ý thức cho người dân. Đồng thời, đẩy mạnh giáo dục nhận
thức để nâng cao ý thức đạo đức cho mỗi cá nhân để có cách hành xử đúng
với các chuẩn mực, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
giàu mạnh.

MỤC LỤC


TRANG

MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

1

I. TÓM TẮT NỘI DUNG BÀI VIẾT

1

1: Vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức trong hệ thống các quy 1
điều chỉnh xã hội
2: Sự thống nhất, sự khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp 3
luật và đạo đức
2.1: Sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức
2.2: Sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức
2.3: Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức
II. ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU TRONG QUAN ĐIỂM VỀ MỐI


3
3
4
4

QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA TÁC GIẢ
HOÀNG THỊ KIM QUẾ VỚI TÁC GIẢ NGUYỄN VĂN NAM
TRONG BÀI VIẾT: “ NHẬN THỨC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP
LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC” (TẠP CHÍ LUẬT HỌC, SỐ 4/2006)
4
1. Điểm giống nhau giữa hai bài viết
1.1: Xét trên phương diện về vị trí và sự thống nhất, điểm giống nhau 4
cơ bản giữa pháp luật và đạo đức
1.2: Xét trên phương diện về điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật và 5
đạo đức
1.3: Xét trên phương diện về sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo 5
đức
2.Điểm khác nhau giữa hai bài viết

5

2.1:Về cách đặt vấn đề

5

2.2: Về cách triển khai nội dụng

6


III. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM 6
HIỆN NAY
1:Tác động của pháp luật với đạo đức
2: Tác động của đạo đức với pháp luật

6

KẾT LUẬN

7

6



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), “Pháp luật trong hệ thống công cụ
điều chỉnh quan hệ xã hội”, Giáo trình Lí luận chung về Nhà nước và
pháp luật, Nxb. Tư pháp, tr.229-247.
2. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), “Khái quát về
Luật Hiến pháp Việt Nam”, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb.
Hội Luật gia Việt Nam, tr. 8-30.
3. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2004), Giáo trình Lí luận chung về
Nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 15-55.
4. Nguyễn Văn Năm (2006), “Nhận thức về mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức”, Tạp chí Luật học, (4), tr.33-39.
5. Hoàng Thị Kim Quế (1999), “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp

luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, (7), tr. 17.




×