Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận cao học, vai trò của truyền thông đại chúng trong thực thi quyền lực chính trị ở việt nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.45 KB, 32 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi giành được chính quyền, quyền lực chính trị thuộc về tay
nhân dân. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước Việtt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang từ bước xây dựng và phát triển đời
sống văn hóa mới, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường, từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với những chuyển đổi mạnh mẽ trong nền kinh tế, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, hệ thống chính trị từ khi đổi mới đến nay đã có nhiều biến
chuyển tích cực. Tuy vậy, trước tình mới, hệ thống chính trị Việt Nam đang
bộc lộ những khuyết điểm, bao trùm cả bộ máy Đảng, Nhà nước và các đoàn
thể nhân dân chưa thực hiện đúng và trọn vẹn nhiệm vụ, trách nhiệm của tổ
chức mình. Vì vậy, việc đảm bảo thực thi quyền lực chính trị trong nhân dân
là một yêu cầu cấp bách.
Thực hiện tốt yêu cầu này cần có sự hợp tác của các tổ chức dưới sự
lãnh đạo của Đảng, trong đó, các phương tiện truyền thông đại chúng có vai
trò đặc biệt quan trọng nhằm truyền đạt thông tin đến toàn Đảng, toàn dân. Là
cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, đồng thời là các diễn đàn của quần
chúng nhân dân, truyền thông đại chúng chính là cầu nối giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân. Mặt khác, trong thời đại bùng nổ thông tin, không có lĩnh
vực nào không có sự tham gia của quần chúng nhân dân.
Trong thời kỳ mới, truyền thông đại chúng đang nhận được sự quan
tâm lớn trong mọi lĩnh vực. Việc truyền thông thực hiện quyền lực chính trị
góp phần quan trọng trong xây dựng chính sách và thực hiện quyền lực chính
trị của nhân dân. Chính vì vậy, em chọn đề tài: “Vai trò của truyền thông đại
chúng trong thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam” làm tiểu luận kết thúc
học phần môn quyền lực chính trị và cầm quyền.


2


2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình tham khảo, nghiên cứu thực hiện đề tài tiểu luận, một
số tác phẩm đã được nghiên cứu liên quan đến đề tài như:
- Lê Hữu Nghĩa, Sự quá độ của hệ thống chính trị nước ta từ chế độ dân
chủ lên xã hội chủ nghĩa.
- Tạ Ngọc Tấn, Mặt sau bức tranh toàn cầu hóa thông tin đại chúng.
Các tác phẩm nghiên cứu về quyền lực chính trị và truyền thông đại
chúng ở những góc độ và khía cạnh khác nhau. Tuy vậy, vai trò của truyền
thông đại chúng trong quyền lực chính trị cần được nghiên cứu và làm rõ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là phân tích, luận chứng về hệ thống các phương
tiện truyền thông đại chúng trong việc đảm bảo quyền lực chính trị ở Việt
Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ các khái niệm, phạm trù liên quan đến truyền thông đại
chúng và quyền lực chính trị ở Việt Nam. Vai trò của truyền thông đại chúng
trong đảm bảo thực thi quyền lực chính trị.
- Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc sử dụng các
phương tiện truyền thông đại chúng nhằm đảm bảo quyền lực chính trị. Từ
đó, đề xuất một số giải pháp phát huy sức mạnh của truyền thông đại chúng ở
Việt Nam hiện nay.
4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm 2 chương 6 tiết.

3



NỘI DUNG
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
TRONG THỰC THI QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm truyền thông đại chúng
Dưới sự tác động của khoa học công nghệ và sự bùng nổ thông tin, hiện
nay truyền thông đại chúng trở thành một hiện tượng đặc biệt phổ biến, tác
động từng ngày, từng giờ vào các mối quan hệ xã hội. Các thành tựu công
nghệ vượt bậc, sự phát triển ngày càng cao của đời sống vật chất và tinh thần
đã kéo theo nhu cầu mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động của các phương tiện
truyền thông đại chúng. Như vậy, tiện truyền thông đại chúng đang trở thành
một phương tiện có sức mạnh, khả năng thu hút sự quan tâm của đại bộ phận
xã hội và tác động thường xuyên tới ý chí, tình cảm và hành động của mọi
thành viên trong xã hội. Ngày nay, các phương tiện truyền thông đại chúng
được sử dụng ngày càng nhiều vào các mục đích kinh tế, chính trị, xã hội
khác nhau. Trong xã hội hiện đại, không một tổ chức nào không sử dụng tiện
truyền thông đại chúng như một phương tiện để thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ của mình.
Như vậy, tiện truyền thông đại chúng là hoạt động chuyển giao các
thông điệp có tính phổ biến giữa nguồn phát với công chúng rộng rãi trong xã
hội. Phân tích khái niệm này ta thấy:
Nguồn phát hay chủ thể của quá trình chuyển giao các thông điệp là
người giữ vai trò chủ động song cũng bị chi phối bởi một loạt yếu tố về hình
thức, điều kiện, phương pháp và khả năng trong thu nhận, khai thác, xử lý, mã
hóa và truyền thông tin đi. Đó là các nhà báo, các cán bộ biên tập, các tòa
soạn thông tấn, báo in, báo phát thanh, báo truyền hình. Nguồn phát là yếu tố
đầu tiên chi phối tính chất, khuynh hướng chính trị xã hội của các thông điệp.

4


Công chúng tiếp nhận hay đối tượng tác động của tiện truyền thông đại
chúng là số đông. Đó là một bộ phận hay cả cộng đồng xã hội rộng lớn của
một quốc gia, khu vực hoặc cả thế giới.
Nội dung các thông điệp mang tính phổ biến, có ý nghĩa xã hội liên
quan ảnh hưởng đến nhiều người trong xã hội. Nó đáp ứng nhu cầu hiểu biết
của nhiều người, đặt ra và giả thiết những vấn đề mang tính xã hội.
Bản chất của tiện truyền thông đại chúng là một hoạt động truyền thông
xã hội. Truyền thông đại chúng thể hiện tính phổ biến rộng rãi về nội dung và
đối tượng tác động của thông tin. Nó phân biệt với các loại hình thông tin
chuyên biệt như: thông tin liên lạc, thông tin khoa học, thông tin nghề nghiệp,
thông tin cá nhân, ...trong đó, thông tin được sử dụng với ý nghĩa chỉ một loại
hình hoạt động để chuyển đi các nội dung thông báo.
Là sản phẩm của kiến trúc thượng tầng, tham gia trực tiếp vào hoạt
động tư tưởng, chính trị. Truyền thông đại chúng là một loại hình hoạt động
chính trị xã hội. Hoạt động truyền thông đại chúng không diễn ra rời rạc, đơn
lẻ mà có tính hệ thống, thông qua hệ thống phương tiện truyền thông đại
chúng.
Phương tiện truyền thông đại chúng là khái niệm chỉ một loại hình hoạt
động xã hội bao gồm tổ chức nhân sự, hệ thống thiết bị kỹ thuật, cơ chế vận
hành và phương pháp, cách thức làm việc đặc thù để mang thông tin đến cho
công chúng xã hội. Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại
gồm có: xuất bản sách, báo in, báo phát thanh, báo truyền hình, báo điện tử, ...
Là một hệ thống xã hội, các phương tiện truyền thông đại chúng chịu
sự quy định, ảnh hưởng chặt chẽ, đồng thời có sự tác động trở lại một cách
thường xuyên và rộng rãi đối với các hệ thống xã hội khác như tư tưởng, luật
pháp, hành chính, kinh tế. Các phương tiện truyền thông đại chúng là sản
phẩm ra đời từ nhu cầu khách quan của xã hội về thông tin giao tiếp, đồng

thời là sản phẩm của kiến trúc tượng tầng xã hội. Các phương tiện truyền
thông đại chúng chịu sự chi phối của cơ sở hạ tầng xã hội, bởi trình độ
5


phương tiện kỹ thuật cũng như trình độ của nền sản xuất vật chất trong từng
thời kỳ lịch sử của mỗi quốc gia.
Trong xã hội theo chế độ xã hội chủ nghĩa, các phương tiện truyền
thông đại chúng được sử dụng nhiều nhằm mục đích thực hiện mục tiêu xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và tăng cường lợi ích, quyền lực, điều
kiện phương tiện toàn diện của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Vì vậy, hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng mang tính
khuynh hướng, tính mục đích cao thể hiện qua cơ chế tác động của truyền
thông đại chúng vào đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị là một bộ phận của quyền lực trong xã hội có giai
cấp. Quyền lực chính trị cũng là một loại quan hệ xã hội, nhưng đó là mối
quan hệ xã hội liên quan đến vấn đề chính trị. Chính trị là mối quan hệ giữa
các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia trong vấn đề giành, giữ và sử dụng
quyền lực nhà nước; là những mục tiêu quy định bởi lợi ích cơ bản của các
giai cấp, các đảng phái; là hoạt động thực tiễn chính trị của các giai cấp, các
đảng phái, các nhà nước để thực hiện đường lối đã lựa chọn nhằm đi tới mục
tiêu đề ra.
Như vậy, quyền lực chính trị là quyền lực được sử dụng sức mạnh của
nhà nước nhằm thực hiện lợi ích khách quan của giai cấp, dân tộc, ... trên cơ
sở sự thừa nhận của nhà nước bằng pháp luật.
Theo đó, quyền lực chính trị là một kiểu quan hệ xã hội có liên quan
đến vấn đề nhà nước. Đó có thể là quan hệ giữa người với người ở nhiều cấp
độ tồn tại, nhiều hình thức tồn tại khác nhau của họ (giai cấp, dân tộc, quốc
gia, đoàn thể, đảng phái, ...) trong quá trình ảnh hưởng tới nhà nước nhằm

giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước vì lợi ích của mình.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, một khi lợi ích căn bản của giai cấp
này được hiện thực hóa thì lợi ích căn bản của giai cấp khác bị triệt tiêu. Xung
đột giai cấp là điều không thể tránh khỏi. Quyền lực chính trị đóng vai trò như
6


là công cụ để giai cấp nắm đucợ nó sẽ thực hiện được lợi ích của mình. Có thể
nhận thấy rằng, quyền lực chính trị không tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của
quá trình phát triển kinh tế và đấu tranh giai cấp.
Lực lượng sản xuất của xã hội nằm trong quá trình phát triển không
ngừng. Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức nào đó sẽ đòi hỏi thay đổi
quan hệ sản xuất hiện tồn. Trong phương thức sản xuất dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, quá trình này sẽ sản sinh ra các giai cấp
đối kháng đặc trưng cho phương thức sản xuất đó. Các lực lượng chính trị
mới với tư cách là chủ thể tương ứng của các lợi ích giai cấp đó sẽ xuất hiện.
Sự xung đột quyền lực ngày càng gay gắt giữa các lực lượng mới đại
diện cho phương thức sản xuất mới với lực lượng chính trị cũ đại diện cho
phương thức sản xuất cũ, lạc hậu nhưng còn nắm quyền thống trị. Do xu
hướng tất yếu, lực lượng chính trị mới với yêu cầu quyền lực chính trị tương
ứng sớm hay muốn nó sẽ vượt lên tự khẳng định chính mình về một nhà
nước. Khi đó, quyền lực chính trị của lực lượng xã hội mới với tư cách là đại
diện cho một giai cấp sẽ được xác lập.
Như vậy, quyền lực chính trị là một khái niệm có nội hàm rộng, bao
gồm cả quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị và bao hàm quyền lực của
các giai cấp khác nhau trong mối quan hệ biện chứng với quyền lực nhà nước
để bênh vực và bảo vệ quyền lợi của mình.
Với tư cách là hình thức tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp thống
trị, quyền lực nhà nước có vai trò như là công cụ để giai cấp thống trị thực
hiện quyền lực chính trị của mình trên tất cả các lĩnh vực khác của đời sống

xã hội. Điều đó được xem xét trên các mặt sau:
Một là, Nhà nước điều khiển hoạt động của xã hội về kinh tế, văn hóa, xã
hội bằng các chiến lược, các kế hoạch định hướng; can thiệp vào các hành vi, quá
trình kinh tế, văn hóa, xã hội bằng nhiều công cụ kinh tế - xã hội khác nhau.
Hai là, sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội, nhân văn là sự thể hiện vai trò, quyền lực chính trị của giai
7


cấp thống trị trên hai phương diện: một mặt, pháp luật là công cụ cưỡng chế
hành vi của các chủ thể quyền lực trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
nhân văn. Nếu như hành vi của các chủ thể quyền lực trên các lĩnh vực đó có
thể dẫn tới nguy cơ làm tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội; mặt khác, pháp
luật là công cụ tạo hành lang pháp lý mang tính chất xã hội hợp pháp rộng rãi
cho các chủ thể quyền lực biết được điều cho phép và cấm làm. Do vậy,
quyền lực chính trị đúng đắn, phù hợp quy luật sẽ có tác động tích cực đến sự
phát triển mọi mặt của đất nước.
Như vậy, quyền lực chính trị là quyền lực của một hay liên minh giai
cấp để thực hiện sự thống trị của giai cấp mình đối với toàn xã hội trên cơ sở
thực hiện chức năng công quyền, là năng lực áp đặt sự phân bố giá trị xã hội
đảm bảo lợi ích của giai cấp mình, đồng thời thực hiện mức độ nhất định sự
công bằng xã hội.
Cuộc đấu tranh của nhân dân đòi giai cấp chính trị thực hiện chức năng
công quyền để đảm bảo lợi ích của chính mình là cuộc đấu tranh đòi dân chủ
về chính trị, đòi làm chủ và kiểm soát quyền lực chính trị. Xuất hiện quyền
lực chính trị trong đời sống xã hội thì đồng thời cũng xuất hiện quyền lực nhà
nước. Khi xã hội phân chia thành giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp không
thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện để kìm giữ sự xung đột ấy không dẫn
đến các giai cấp tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt cả xã hội. Song, cuộc đấu tranh
giữa các giai cấp lại tập trung ở việc giành, giữ vfa thực thi quyền lực nhà nước.

Vì nhà nước là nơi biểu hiện cơ bản của quyền lực công, đoạt được quyền lực ấy
mới có thể thực hiện được sự thống trị giai cấp đối với toàn xã hội.
1.2. Cơ chế tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng
trong thực hiện quyền lực chính trị
Truyền thông đại chúng tác động vào xã hội bằng thông ti qua mối
quan hệ thông tin – ý thức xã hội – hành vi xã hội. Nói khách khác, thông tin
trong các thông điệp tác động vào ý thức xã hội, làm thay đổi nhận thức của
cộng đồng. Nhận thức mới sẽ dẫn đến những hành vi xã hội mới. Hành vi xã
8


hội chính là hiệu quả cuối cùng mang tính chất của hoạt động truyền thông
đại chúng. Nhờ vậy mà xã hội vận động theo hướng này hay hướng khác phù
hợp với ý đồ của nguồn phát.
Quy mô, tính chất của hành vi xã hội bị quy định bởi quy mô, tính chất
của thông tin. Đến lượt thông tin bị chi phối bởi thái độ, quan điểm, mục đích
của chủ thể khai thác và phát thông tin. Từ cùng một sự kiện, vấn đề khách
quan, người ta có thể đưa ra những nhận xét, đánh giá hoàn toàn khác nhau do
phương pháp, mục đích, lựa chọn chi tiết phân tích, lý giải, thiết lập các mối
quan hệ khác nhau.
Việc hình thành các thông điệp và cách thức, phương pháp truyền tải
thông điệp đến công chúng xã hội là một trong hai yếu tố quyết định hiệu quả
tác động của truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, phương pháp, cách thức hình
thành và chuyển tải thông điệp trong truyền thông đại chúng lại liên quan chặt
chẽ, hữu cơ với yếu tố thứ hai là sự hiểu biết về công chúng. Chính sự hiểu
biết này cùng với mục đích và chất liệu thông tin là cơ sở để hình thành
phương pháp, cách thức tạo lập và truyền tải thông điệp.
Quá trình tiếp nhận thông tin của công chúng xã hội trải qua các
bước sau:
Thứ nhất, tiền đề nhận thức của đối tượng. Tiền đề này phụ thuộc vào

trình độ dân trí, trình độ văn hóa, kinh nghiệm sống, thái độ, quan điểm chính
trị xã hội của công chúng. Tất cả những yếu tố này tạo thành nền tảng, điều
kiện để đối tượng đón nhận thông tin bắt đầu bằng trực giác.
Thứ hai, sự quan tâm của đối tượng. Trong bước này, công chúng sẽ tập
trung chú ý vào nguồn thông tin khi nguồn thông tin đó có một ý nghĩa nào đó
đối với họ.
Thứ ba, sự đánh giá của đối tượng về nguồn thông tin. Sau khi đối
tượng có thông tin đầy đủ về vấn đề quan tâm, công chúng sẽ phân tích, so
sánh, đánh giá tính chất, quy mô, hiệu quả và vai trò của vấn đề. Sự đánh giá
cũng là con đường, cách thức để chấp nhận thông tin truyền thông.
9


Thứ tư, sự thử nghiệm của đối tượng. Sự thử nghiệm này có thể là thử
nghiệm thực tế hoặc thử nghiệm logic tưởng tượng. Bằng thử nghiệm, đối
tượng hình thành niềm tin vào tính đúng đắn của nhận thức của mình, xác
định dứt khoát thái độ trong hành động.
Thứ năm, đối tượng chấp nhận và thực hiện các kỹ năng phù hợp với
mục đích của vấn đề được truyền thông. Đây là bước có ý nghĩa quyết định
cuối cùng đến hiệu quả của truyền thông, là cái xác định mục đích của truyền
thông được thực hiện.
Trên cơ sở hiểu biết về quá trình tiếp nhận thông tin, người ta tiến hành
nghiên cứu công chúng, tìm ra những căn cứ để tiến hành truyền thông có
hiệu quả. Việc nghiên cứu công chúng chủ yếu nhằm phân tích đối tượng, tìm
ra các thông số về cộng đồng công chúng như: dân tộc, giới, trình độ văn hóa,
thói quen, đặc điểm tâm lý, nhu cầu, lợi ích, quan điểm, thái độ chính trị xã
hội, các tín đồ tôn giáo, .. những thông số này sẽ là cơ sở để xác định nội
dung thông tin, cách thức hình thành thông điệp để tác động một cách có hiệu
quả vào xã hội. Hiệu quả xã hội của các phương tiện truyền thông đại chúng
được đánh giá chủ yếu qua hiệu ứng xã hội của truyền thông đại chúng.

1.3. Quyền lực chính trị được thực hiện thông qua chức năng cơ
bản của truyền thông đại chúng
“Chức năng” được hiểu là tổng hợp của những vai trò và tác động của
một tiến trình hay một hoạt động nào đó (có tính tổ chức) trong tự nhiên và xã
hội. Mỗi loại hình hoạt động trong đời sống xã hội loài người đều được đặc
trưng bởi chức năng của nó. Phù hợp với các đặc trưng đó là vai trò, vị trí và
cả tính chất vận động của mỗi loại hình hoạt động. Chính vì vậy, những tri
thức về chức năng có ý nghĩa rất quan trọng kể cả phương diện lý luận và
phương diện thực tiễn. Nó cho phép con người nắm được mối liên hệ chủ yếu
của đối tượng nghiên cứu, là cơ sở để xác định phương hướng và phương
pháp hành động một cách có hiệu quả. Nói đến việc thực hiện các chức năng

10


xã hội cũng có nghĩa là nói đến vai trò to lớn của các phương tiện truyền
thông đại chúng trong xã hội định hướng xã hội chủ nghĩa.
Là một loại hình hoạt động đặc thù, ra đời do những nhu cầu khách
quan của xã hội và trên nền tảng của nền sản xuất xã hội đã đạt tới một trình
độ nhất định, truyền thông đại chúng mang trong mình những tiềm năng có ý
nghĩa xã hội to lớn. Chính những tiềm năng đó quy định tính chất khách quan
các chức năng của truyền thông đại chúng. Nói cách khác, bản thân sự ra đời
của truyền thông đại chúng đã khẳng định một cách khách quan vai trò, tác
dụng và ý nghĩa của nó trong xã hội. Tổng hợp những vai trò, tác dụng và ý
nghĩa của truyền thông đại chúng cũng chính là chức năng xã hội của nó.
Trước khi thực hiện công việc nào đó, con người đều hình dung, xác
định trước về mục đích cần đạt tới, con đường và phương pháp hành động để
tác động vào đối tượng, ... Do vậy, tính mục đích cũng luôn thể hiện một cách
rõ ràng và nhất quán trong thực tiễn hoạt động báo chí, truyền thông đại
chúng. Vì thế, các chức năng trong hoạt động thực tiễn của truyền thông đại

chúng còn là ccá chức năng có tính hướng đích nhằm đạt tới những kết quả
nhất định. Nói cách khác, phương tiện truyền thông đại chúng được sử dụng
để nhằm đạt được những mục tiêu đã định trước.
Lý luận báo chí và thực tiễn hoạt động của các phương tiện truyền
thông đại chúng cho thấy truyền thông đại chúng bao gồm các chức năng sau:
- Chức năng tư tưởng: là chức năng quan trọng nhất trong các nhóm
chức năng của hoạt động truyền thông đại chúng. Mục đích của công tác tư
tưởng là nhằm tác động vào ý thức xã hội, hình thành và củng cố một hệ tư
tưởng chủ đạo với những định hướng nhất định. Việc xây dựng một ý thức hệ
xã hội chủ đạo là một trong những điều kiện tiên quyết, cơ sở quan trọng đảm
bảo sự làm chủ quyền lực trong lĩnh vực tinh thần xã hội của giai cấp lãnh đạo
xã hội. Trong nền chính trị xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng, củng cố các giá
trị của chủ nghĩa Mác – Lênin là một trong những đòi hỏi hàng đầu để đảm
bảo tăng cường quyền lực chính trị cũng như phát huy quyền làm chủ của
11


nhân dân lao động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đồng thời, đó cũng là
cơ sở cho sự tập hợp lực lượng quần chúng, phát huy những tiềm năng to lớn
của nhân dân nhằm xây dựng, phát triển xã hội theo định hướng mà Đảng và
nhân dân đã lựa chọn.
Trên phạm vi toàn xã hội, nhiệm vụ đặt ra cho công tác tư tưởng chính
là liên kết những thành viên riêng rẽ của xã hội thành một khối thống nhất
trên cơ sở một lập trường chính trị chúng, thái độ trách nhiệm tích cực nhằm
thực hiện các mục tiêu đề ra. Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh
chóng và mạnh mẽ vào toàn bộ xã hội, hoạt động của các phương tiện truyền
thông đại chúng có vai trò và ý nghĩa hết sức to lớn trong công tác tư tưởng.
Lý luận báo chí vô sản và thực tiễn hoạt động của các phương tiện truyền
thông đại chúng đã chỉ ra vai trò và ý nghĩa của truyền thông đại chúng trong
việc hình thành ý thức, quan điểm, lập trường giai cấp của quần chúng nhân

dân lao động. Tính chất mới mẻ và triệt để của cuộc cách mạng này đòi hỏi
trình độ tự giác cao của mọi thành viên trong xã hội. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho
truyền thông đại chúng là phải lôi cuốn tất cả mọi bộ phận, lực lượng xã hội,
phát huy trí tuệ và tài năng của họ trong công cuộc sáng tạo lịch sử. Quy mô
của cuộc sáng tạo lịch sử ngày càng mở rộng, trình độ văn hóa chung của
nhân dân lao động càng được nâng lên thì quy mô hoạt động và khả năng tác
động của truyền thông đại chúng càng phát triển.
Chức năng có tính mục đích đầu tiên trong hoạt động tư tưởng của
truyền thông đại chúng chính là nâng cao tính tự giác của quần chúng nhân
dân. Để nâng cao tính tự giác của quần chúng, nhiệm vụ đặt ra cho báo chí là
phát triển nhận thức của họ. Trình độ nhận thức chính là tiền đề quy định trình
độ tự giác của nhân dân lao động, tính tự giác sẽ trở thành động lực mạnh mẽ
cho những hành động sáng tạo trong lao động sản xuất và xây dựng xã hội.
Việc nâng cao trình độ và mở rộng giới hạn nhận thức nhằm hình thành
sự tự giác trong nhân dân lao động. Việc này đòi hỏi truyền thông đại chúng
phải quan tâm tới việc thông tin một cách đầy đủ, sinh động các sự kiện, hiện
12


tượng đa dạng, phong phú của tự nhiên và xã hội, phân tích các mối quan hệ
bên trong và giữa chúng với nhau, chỉ ra các biểu hiện cụ thể của những mối
quan hệ đó. Hơn nữa, truyền thông đại chúng giúp cho công chúng có sự nhìn
nhận, đánh giá bắc tranh đó trên quan điểm, lập trường chính trị của mình, từ
đó xác định được vị trí, ý nghĩa sự tham gia của bản thân họ vào những hoạt
động chính trị xã hội và tự định hướng lại các hành vi cho phù hợp.
Nội dung của tính định hướng xã hội toàn diện trước hết là khả năng
nhìn nhận và thẩm định đời sống hiện thực một cách hệ thống. Đời sống xã
hội ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp. Mỗi sự kiện, hiện tượng, tiến
trình diễn ra trong những điều kiện lịch sử cụ thể với những hình thức, tính
chất, nội dung, phương thức khác nhau. Yêu cầu đặt ra cho hoạt động truyền

thông đại chúng không chỉ dừng lại ở sự mô tả, phản ánh số lượng to lớn
những sự kiện, hiện tượng và quá trình đó mà phải phát hiện trong những mối
quan hệ, qua đó chỉ ra cho quần chúng những vấn đề có tính bản chất, chiều
hướng vận động chính của hiện thực.
Với vai trò to lớn của nó trong mặt trận tư tưởng, truyền thông đại
chúng trở thành một trong những phương tiện quan trọng của Đảng trong việc
thực hiện chức năng giáo dục chính trị tư tưởng. Hoạt động chính trị - tư
tưởng của báo chí dựa trên sự tác động có tính thuyết phục đối với những giá
trị ấy, báo chí phải đưa ra được những minh chứng dựa trên những cơ sở khoa
học đúng đắn, khách quan trong mỗi nhận định, đánh giá và luận điểm của
mình. Sự minh chứng chặt chẽ và khoa học kết hợp với sự phản ánh kịp thời,
phong phú các sự kiện, hiện tượng, vấn đề của đời sống hiện thực. Đó là nền
tảng nảy sinh và quy định tính chất, mức độ của chính kiến, niềm tin vào tình
cảm cách mạng của công chúng.
- Chức năng quản lý và giám sát xã hội: Song song với các chức năng
tư tưởng, truyền thông đại chúng cũng thực hiện chức năng quản lý và giám
sát xã hội. Quản lý xã hội là sự tác động có tính định hướng và thường xuyên
của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý nhằm đảm bảo sự hoạt động,
13


phát triển của tổ chức đó đucợ đồng bộ, hiệu quả, đạt được những kết quả
mong muốn. Để đảm bảo hiệu quả tác động của chủ thể quản lý đối với khách
thể, nhất thiết đòi hỏi một quá trình nhận thức sâu sắc, đầy đủ và toàn diện về
những mối quan hệ liên quan, những quy luật vận động phát triển khách quan
và về bản thân khách thể quản lý. Chỉ với nguồn thông tin chính xác, toàn
diện về đối tượng mới có thể xử lý, lựa chọn được những phương hướng và
cách thức tác động hợp lý, có hiệu quả. Sự tác động ấy được thể hiện bằng
quyết định quản lý và được truyền đến khách thể quản lý dưới dạng thông tin.
Khách thể của quá trình quản lý là tất cả các bộ phận, đơn vị, các lĩnh vực

khác nhau trong xã hội. Phương tiện truyền thông đại chúng thực hiện chức
năng quản lý thông qua dòng thông tin hai chiều liên tục từ chủ thể quản lý
đến khách thể và ngược lại.
Bản thân xã hội là một tổ chức hết sức phức tạp, đa dạng và phong phú.
Những mối quan hệ bên trong các hệ thống và bên ngoài các hệ thống với
nhau luôn có tác động chi phối lẫn nhau. Do vậy, hiệu quả của quá trình quản
lý phụ thuộc vào trước hết là tính đồng bộ của thông tin hai chiều (thuận,
ngược), đó cũng là điều kiện cần thiết cho khả năng tác động một cách có
hiệu quả của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý, làm cho khách thể quản
lý vận động phát triển theo chiều hướng định trước.
Truyền thông đại chúng chính là phương tiện để thực hiện sứ mạng
cầu nối giữa thông tin hai chiều đó. Bằng cách thu – phát thông tin hai
chiều, các phương tiện truyền thông đại chúng thực hiện chức năng quản lý
của mình. Xã hội càng phát triển, nhu cầu đối với hoạt động truyền thông
đại chúng ngày càng lớn và toàn diện, do đó vai trò quản lý của truyền
thông đại chúng cũng lớn dần. Trong quá trình hoạt động của mình, các
phương tiện truyền thông đại chúng luôn phải duy trì khả năng đảm bảo
nguồn thông tin hai chiều.
Chức năng quản lý, giám sát xã hội của hoạt động truyền thông đại
chúng không chỉ trong cơ chế thông tin hai chiều của nó, mà còn được biểu
14


hiện ở khả năng lôi cuốn, tạo điều kiện cho sự tham gia rộng rãi và tự giác
của quần chúng nhân dân vào các công việc quản lý xã hội, phát huy tính
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
- Chức năng nâng cao trình độ văn hóa: Đây là chức năng khách quan
của truyền thông đại chúng, liên hệ chặt chẽ với các chức năng tư tưởng và
chức năng quản lý. Khi truyền bá những tri thức văn hóa toàn diện nhằm nâng

cao trình độ hiểu biết về tự nhiên và xã hội cho nhân dân. Sự phát triển của
các phương tiện truyền thông đại chúng là điều kiện quan trọng để phổ cập,
quần chúng hóa những giá trị văn minh của nhân loại, giúp cho mỗi thành
viên của xã hội không ngừng bổ sung vốn tri thức, làm phong phú đời sống
tinh thần. Đây cũng là điều kiện, phương tiện để thực hiện việc phát triển con
người một cách toàn diện.
Chức năng nâng cao trình độ dân trí của truyền thông đại chúng được
thể hiện ở quá trình xã hội hóa các hiểu biết, kinh nghiệm sống, những tri thức
có giá trị tinh thần cao. Những giá trị tinh thần này, nguồn gốc xã hội ban đầu
của nó chỉ ở một bộ phận xã hội nhất định, chính nhờ hoạt động của truyền
thông đại chúng nó đã dần trở thành cái chung phổ biến. Điều này cũng có
nghĩa là phương tiện truyền thông đại chúng đã mở rộng tầm mắt cho mỗi
thành viên trong xã hội. Do vậy, phương tiện truyền thông đại chúng là một
nhân tố góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, bởi xã hội hóa các tri thức, các
kinh nghiệm là một điều kiện quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội nói
chung.
Một trong những nội dung quan trọng của chức năng nâng cao trình độ
văn hóa của hoạt động truyền thông đại chúng là vấn đề giáo dục lối sống.
Các phương tiện truyền thông đại chúng thông qua khả năng phổ cập rộng rãi,
thường xuyên của nó luôn uốn nắn, xây dựng lối sống lành mạnh, tích cực và
nâng cao tinh thần trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Đây còn là một
nhiệm vụ đặt ra thường xuyên đối với xã hội và ở mọi thời điểm lịch sử. Sự
15


mở rộng của không gian giao tiếp, những khác biệt về nhận thức, quan niệm
giữa các thế hệ cùng với những thay đổi trong đời sống xã hội luôn làm nảy
sinh những nhu cầu mới. Nhiệm vụ này không chỉ đặt ở tỏng gia đình, nhà
trường, trong các tổ chức mà quan trọng hơn hết chính là các phương tiện
truyền thông đại chúng phải gánh vác lấy trách nhiệm đó, bởi chỉ có các

phương tiện truyền thông đại chúng mới có khả năng phổ cập, xã hội hóa các
tri thức đucợ định hướng một cách thường xuyên, liên tục và nhanh chóng ở
quy mô toàn xã hội.
Xã hội ngày càng phát triển, truyền thông đại chúng càng mở rộng
phạm vi, quy mô, đa dạng hóa tính chất, phương thức hoạt động. Sự phát triển
của truyền thông đại chúng suy cho cùng cũng chỉ nhằm đáp ứng những yêu
cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Vì vậy, truyền thông đại chúng còn có các
chức năng khác như: giải trí, chức năng dịch vụ xã hội, chức năng giao lưu, ...
Các phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng giữ vai trò như một
phương tiện giải trí không thể thiếu. Truyền thông đại chúng lôi kéo cư dân
vào các sân chơi, tạo ra các nội dung thông tin có sức hấp dẫn, thu hút hàng
triệu người. Không có phương tiện nào khác có thể thu hút thời gian rảnh rỗi
của cư dân toàn cầu bằng truyền hình, phim ảnh, âm nhạc giải trí, ...
Chức năng dịch vụ xã hội được hiểu là những nội dung nhằm giải quyết
những công việc dịch vụ phục vụ cho cuộc sống xã hội. Xã hội càng phát
triển thì nhu cầu dịch vụ càng phong phú, tỷ lệ lao động dịch vụ càng lớn, tính
chất của các dịch vụ càng phức tạp, chuyên môn hóa. Đó là các loại dịch vụ
thông tin, dịch vụ du lịch, dịch vụ chăm sóc sức khỏe,.. Các phương tiện
truyền thông đại chúng ngày nay triển khai các hoạt động nhằm đáp ứng, giải
quyết ngày càng nhiều các yêu cầu dịch vụ.
Các chức năng của truyền thông đại chúng luôn có mối quan hệ chặt
chẽ, đan xen nhau. Bản thân các chức năng này cũng tạo điều kiện, thúc đẩy
lẫn nhau. Truyền thông đại chúng là một phương tiện quan trọng trong việc
đặt ra và giải quyết các công việc. Với sức mạnh và ảnh hưởng to lớn của hàm
16


lượng thông tin với sự tác động nhiều chiều và đa dạng, các phương tiện
truyền thông đại chúng thúc đẩy sự nhận thức xã hội và tăng cường quyền lực
chính trị trong xã hội đương thời.


17


Chương 2:
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
TRONG THỰC THI QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
2.1. Hệ thống truyền thông đại chúng ở Việt Nam
Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, truyền thông đại chúng và báo
chí cách mạng Việt Nam trong những năm qua đã phát triển nhanh về số
lượng và chất lượng, thực sự là những chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng của
Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, các loại hình
báo chí trở thành một trong những động lực trực tiếp tham gia và thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Quá trình phát triển của truyền thông đại chúng trong những năm đổi
mới là thành quả của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, là sự vận động biện chứng của mối quan
hệ báo chí, công cụ tư tưởng, sắc bén của Đảng ngay từ những ngày đầu đã
hưởng ứng tích cực quá trình đổi mới và sự nghiệp đổi mới vượt qua mọi khó
khăn, từng bước giành thắng lợi đã tác động tích cực trở lại với báo chí, thúc
đẩy các phương tiện truyền thông đại chúng phát triển.
Sự đổi mới và phát triển không ngừng của các phương tiện truyền
thông đại chúng có nguyên nhân sâu xa, trực tiếp là đường lối đổi mới công
tác tư tưởng của Đảng. Đề ra khẩu hiệu “đổi mới tư duy”, Đảng chủ trương
triệt để giải phóng tư tưởng, phát huy cao độ sự năng động, sáng tạo của mọi
cán bộ, đảng viên của nhân dân trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng, tạo động lực
to llớn cho quá trình đổi mới. Xóa bỏ bao cấp về tư tưởng, Đảng để ra cho hệ
thống thông tin và các phương tiện truyền thông đại chúng khác yêu cầu vừa
là: “tiếng nói của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội”, vừa là “diễn đàn tin
cậy của nhân dân”. Với chủ trương này, báo chí trở thành đầu mối thông tin

hai chiều: vừa tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước tới
quần chúng và tổ chức quần chúng thực hiện, vừa phản ánh đời sống, tâm tư,
18


nguyện vọng của người dân. Quá trình vận động của các đường lối, chính
sách đó trong thực tiễn giúp các cơ quan lãnh đạo các cấp điều chỉnh, hoàn
thiện nó. Đây là nguyên nhân có tính quyết định trong đổi mới tư duy của
người làm báo, đổi mới nội dung thông tin, tăng tính chiến đấu, hiệu quả của
báo chí cách mạng trong giai đoạn mới.
Xóa bao cấp về kinh tế, tài chính trong hoạt động báo chí cũng là chủ
trương “cởi trói” cho hoạt động báo chí, khơi dậy tính chủ động, tinh thần
sáng tạo của đội ngũ những người làm báo phù hợp với quy luật khách quan,
với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Báo chí được xã hội hóa,
từng bước hội nhập cơ chế thị trường đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị,
văn hóa từng tự trang trải, tự tích lũy để phát triển và thoát ly dần sự lệ thuộc
vào “bầu sữa” bao cấp về kinh phí. Nhờ đó báo chí không ngừng đổi mới
nghiệp vụ, nội dung thông tin phong phú, đa dạng, hấp dẫn. Báo chí ngày
càng đến với đông đảo bạn đọc nghĩa là không khiếm khuyết, bất cập, yếu
kém mà được hoàn thiện, khắc phục dần thông qua hoạt động thực tế.
Phát huy truyền thống trong cách mạng, trong những năm đổi mới hệ
thống truyền thông đại chúng của Việt Nam luôn trung thành với lợi ích của
dân tộc, đất nước, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, tự nguyện tập
hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng, không ngừng phấn đấu vì sự nghiệp bảo vệ tổ
quốc và vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn mới của cách mạng đặt ra
những yêu cầu mới; cuộc cách mạng như vũ bão về công nghệ thông tin diễn
ra trên phạm vi toàn cầu, đời sống vật chất và trình độ dân trí không ngừng
tăng lên đòi hỏi khách quan đến sự đổi mới của thông tin.
Trong những năm qua, nhiều sự kiện trong nước và thế giới đem lại
thuận lợi nhưng cũng đăth ra nhiều thách thức mới. Quá trình đổi mới ở Việt

Nam phải trải qua nhiều cơ khủng hoảng nhiều mặt, trong đó có kinh tế. Kinh
tế trì trê, đời sống khó khăn lòng dân không yên. Chưa thoát khỏi khủng
hoảng, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan ra,
phaong trào cách mạng lâm vào thoái trào trên phạm vi toàn thế giới. Cùng
19


với những khó khăn về tư tưởng là khó khăn về kinh tế tuognử chừng không
thể vượt qua khi mọi nguồn viện trợ không còn trong khi Mỹ tiếp tục xiết chặt
vòng vây cấm vận.. bvừa ra khỏi khủng hoảng, nước ta lại chịu ảnh hưởng
nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực và trên thế
giới. Các thế lực cơ hội trong nước tiếp tục cấu kết với lực lượng thù địch bên
ngoài, đứng đầu là Mỹ đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm lật đổ
chế độ của nhân dân ta. Góp sức cùng toàn Đảng, toàn dân tranh thủ thuận lợi,
vượt qua khó khăn, các phương tiện truyền thông đại chúng đã đổi mới nội
dung tuyên truyền, đặc biệt là tuyên truyền chính trị đối nội đối ngoại. Bằng
nhiều hình thức phong phú, nhanh nhạy, sắc bén, có sức thuyết phục cao, vừa
tuyên truyền, vừa tích lũy kinh nghiệm, hệ thống truyền thông đại chúng nước
ta thường xuyên cổ vũ toàn dân đoàn kết, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hòa bình”, kịp thời vạch trần những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù
địch nhân danh cái gọi là nhân quyền, dân chủ để gây mất ổn định chính trị xã hội trên đất nước ta. Cổ vũ nhân dân tôn trọng kỷ cương, sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật, đồng tâm hiệp lực xây dựng nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Qua 30 năm đổi mới, hệ thống truyền thông đại chúng đã nhiệt thành
ủng hộ sự nghiệp đổi mới ở cả hai chiều thông tin. Một mặt tiếp tục là lực
lượng mạnh mẽ “tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể” tập
hợp quần chúng hưởng ứng và qua các phong trào thi đua yêu nước biến các
chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Mặt khác, phát huy chức
năng “là diễn đàn tin cậy của nhân dân”, các phương tiện truyền thông đại
chúng đã có mặt ở mọi lĩnh vực đời sống, nắm bắt thực tiễn, biểu dương các

điển hình và cá nhân tiên tiến, nhân rộng kinh nghiệm thành công. Đồng thời,
truyền thông đại chúng kiên quyết đi đầu trong cuộc đấu tranh chống các mặt
tiêu cực, đặc biệt là chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, vi phạm quyền
dân chủ, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
và các tệ nạn xã hội khác. Cuộc đấu tranh chống tiêu cực trên hệ thống truyền
20


thông đại chúng diễn ra vô cùng phức tạp. Không ít thất bại, sai lầm, khuyết
điểm nhưng truyền thông đại chúng đã trở thành chỗ dựa tin cậy của Đảng và
Nhà nước trong quá trình đổi mới, làm trong sạch đội ngũ đảng, lành mạnh
hóa bộ máy nhà nước, bảo vệ chế độ, khôi phục và giữ vững niềm tin của
quần chúng, làm thất bại âm mưu chống phá của kẻ thù và những phần tử bất
mãn, cơ hội. Từ đây, nhiều kinh nghiệm quý báu trong hoạt động truyền thông
đại chúng đã được tập hợp để những người làm công tác tuyên truyền tham
khảo, nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ nghiệp vụ chuyên môn.
Truyền thông đại chúng đã trở thành nơi truyền bá văn hóa, sáng tạo
văn hóa, nâng cao dân trí, thỏa mãn nhu cầu văn hóa ngày càng cao của toàn
xã hội. Nội dung về thông tin văn hóa trên các phương tiện truyền thông hết
sức phong phú, bao gồm các lĩnh vực đạo đức, đời sống, văn học – nghệ
thuật, giới thiệu và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; giới thiệu tinh hoa
văn hóa nhân loại, ... Nhiều nội dung thông tin giáo dục từ xa như truyền bá
khoa học công nghệ, giới thiệu kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, vượt khó
làm giàu, ...đã góp phần to lớn trong sự nghiệp nâng cao dân trí, đời sống tinh
thần của nhân dân. Nội dung thông tin trên các phương tiện truyền thông đại
chúng đã đóng góp tích cực vào quá trình hộ nhập, giao lưu quốc tế, nâng cao
vụ thế của Việt Nam trên thế giới. Đã tổ chức, khơi dậy, biến nhiều hoạt động
xã hội từ thiện thành phong trào của toàn xã hội như: đền ơn đáp nghĩa, xóa
đói giảm nghèo, khuyến học, khuyến tài năng, khuyến thiện, ...
Sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung thông tin đã tạo lập bầu không khí

dân chủ trong đời sống xã hội, góp phần đấu tranh giữ gìn ổn định về
chính trị, xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới đất nước làm cho dân giàu,
nước mạnh.
Hệ thống truyền thông đại chúng ở Việt Nam đã đạt được bước tiến bộ
toàn diện về số lượng và chất lượng. Đên snay, cả nước có hơn 50 cơ quan
báo chí, trong đó báo in xuất bản hơn 650 ấn phẩm các loại, số lượng phát
hành khoảng hơn 600 triệu bản trên một năm. Ngày nay, công suất phát sóng,
21


diện phủ sóng, phát thanh và truyền hình tăng lên đáng kể, phủ sóng rộng
khắp không chỉ ở hải đảo, vùng sâu vùng xa và vươn xa nhiều nucớ trên thế
giới. Thông qua mạng Internet, báo điện tử đang ngày càng phát huy tác dụng,
đặc biệt là trong công tác thông tin đối ngoại. Công nghệ làm báo có bước
tiến nhanh về nhiều mặt và ngày càng hiện đại.
Trong bối cảnh công nghệ thông tin toàn cầu hóa, cuộc đấu tranh trên
mặt trận tư tưởng, thông tin, văn hóa ngày càng phức tạp. Đây là một binh
chủng rộng lớn , trong đó, truyền thông đại chúng là một trong các lực lượng
chủ lực. Truyền thông đại chúng Việt Nam phục vụ tốt việc thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hóa, đa phương hóa các
quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng làm bạn, là đối tác tin cậy của các nước
tỏng cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì độc lập, hòa bình và phát triển.
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhiều cơ quan báo chí đã tích lũy, từng bước tự chủ nền tài chính, lấy thu bù
chi, có cơ quan báo chí tự hạch toán, tự đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, giảm
bớt gánh nặng đầu tư của cơ quan chủ quản. Đã có một số cơ quan báo chí
không chỉ hoàn thành nhiệm vụ chính trị, vừa tăng nguồn thu, vừa đóng góp
đáng kẻ cho ngân sách nhà nước, giảm chi cho ngân sách. Vấn đề kinh tế báo
chí đã bước đầu hình thành trong cơ quan báo chí.
Hiên nay, báo chí hoạt động theo hai cơ chí phổ biến sau:

Một là, cơ quan báo chí hoạt động bằng ngân sách nhà nước, theo cơ
chế đơn vị sự nghiệp có thu, cấp kinh phí hoạt động. Các cơ quan chủ quản
cấp kinh phí hoạt động, bố trí trụ sở, đầu tư trang thiết bị. Do yêu cầu phục vụ
nhiệm vụ chính trị, một số báo, tạp chí phải bán dưới giá thành và đucợ cơ
quan chủ quản bù lỗ. Hàng năm, báo chí của tỉnh trung bình được cấp từ 500
– 700 triệu đồng; báo chí của bộ ngành đucợ cấp từ 700 triệu đồng đến 1 tỷ
đồng; các đài phát thanh truyền hình địa phương được cấp từ 1 – 2 tỷ đồng;
tạp chí khoa học được cấp từ 50 - 200 triệu đồng.

22


Hai là, cơ quan báo chí và đài phát thanh truyền hình tự cân đối thu chi,
tự hạch toán kinh tế, tự đầu tư trang thiết bị và một số cơ quan báo chí tự mua
hoặc thuê trụ sở làm việc.
Là đơn vị sự nghiệp có thu, nhưng một số cơ quan báo chí đã cân đối
thu chi và có lãi, thậm chí có ấn phẩm báo chí sau khi nộp thuế còn nộp cho
cơ quan chủ quản hàng tỷ đồng/năm.
Những thành tựu, tiến bộ và đóng góp của các cơ quan báo chí đều gắn
với vai trò chỉ đạo quản lý trực tiếp của các cơ quan chủ quản. Căn cứ vào
chức năng, nhiệm vụ, đối tượng phục vụ, phạm vi phát hành, nhiều cơ quan
chủ quản đã quan tâm quy hoạch báo chí, xác định tôn chỉ, mục đích cho từng
cơ quan thuộc quyền, nhiều cơ quan chủ quản có sự phân công người phụ
trách báo chí. Các phương thức chỉ đạo, quản lý này đã có vai trò, tác dụng
quan trọng đối với việc định hướng, cung cấp thông tin báo chí. Nhờ đó, nâng
cao được chất lượng nội dung chính trị, tư tưởng, hạn chế được các vi phạm,
khuyết điểm.
Nhiều cơ quan chủ quản đã quan tâm xây dựng bộ máy tổ chức, xác
định biên chế và kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ chính trị, năng ực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức của người làm báo.

2.2. Truyền thông đại chúng góp phần xác lập ý thức hệ chính trị
trong nhân dân
Trong những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng, Nhà
nước, các phương tiện truyền thông đại chúng đã đóng góp một phần quan
trọng trong cuộc đấu tranh trên mặt trận lý luận và trở thành diễn đàn phản
ánh thường xuyên thực tiễn xây dựng Đảng, Nhà nước. Các phương tiện
truyền thông đại chúng đã thực hiện tốt chức năng tư tưởng, giáo dục định
hướng với việc thường xuyên đưa các tin, bài viết chỉ đạo và có tính chất tổng
kết kinh nghiệm và lý luận sâu sắc của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà
nước kết hợp với việc mở rộng các chuyên mục cùng trao đổi và phát động

23


sâu rộng trong quần chúng các phong trào thi đua tìm hiểu và viết về Đảng,
Bác Hồ, cách mạng, ...
Bằng việc thực hiện tốt chức năng tư tưởng, giáo dục định hướng với
nhiều hoạt động cụ thể, có ý nghĩa, các phương tiện truyền thông đại chúng đã
bước đầu khơi dậy sự quan tâm của công chúng đối với các hoạt động và công
tác sinh hoạt lý luận của Đảng. Quan trọng hơn, các phương tiện truyền thông
đại chúng đã tạo ra một động lực thúc đẩy đội ngũ cán bộ đảng viên tự giác
tham gia nghiên cứu học tập để nâng cao nhận thức về các vấn đề lý luận, bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng. Hiện nay, các phương tiện truyền thông
đại chúng đã bước đầu xác lập được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình
trong việc cuốn hút, động viên đông đảo các tầng lớp xã hội tham gia vào các
hoạt động, các phong trào do Đảng phát động. Nhìn chung, trên góc độ định
hướng, các phương tiện truyền thông đại chúng đã góp phần quan trọng vào
việc xã hội hóa tri thức, kể cả các vấn đề trước kia thường chỉ giới hạn trong
không gian các cuộc hội thảo, các đề tài nghiên cứu, báo cáo khoa học.
Đấu tranh chống lác luận điệu phản tuyên truyền, xuyên tạc, đầu độc tư

tưởng của các thế lực thù địch là một lĩnh vực cực kỳ khó khăn, phức tạp và
quyết liệt trên mặt trận tư tưởng. Trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng
này, phát huy truyền thống tiến công của báo chí cách mạng, trong giai đoạn
hiện nay, các phương tiện thông tin đại chúng không ngừng rèn luyện, nâng
cao sức chiến đấu tập trung mũi nhọn đấu tranh, kiên quyết bác bỏ, bóc trần
những âm mưu, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Đòng thời, nêu
cao truyền thống cách mạng, khẳng định những thành quả to lớn đạt được
trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Với bề dày lịch sử ra đời và trưởng thành cùng với quá trình đấu tranh
cách mạng, các phương tiện truyền thông đại chúng khẳng định được uy tín
chính trị, sức chiến đấu bền bỉ, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Phương
tiện truyền thông đại chúng trở thành người truyền tải nưhnxg tư tưởng, lý
luận cách mạng, đường lối chính sách của Đảng tới nhân dân.
24


Trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trong giai
đoạn hiện nay, phát huy sức mạnh của hệ thống phương tiện truyền thông đại
chúng với tư cách là một vũ khí lợi hại trên mặt trận tư tưởng, trong việc thực
hiện chức năng tư tưởng, giáo dục định hướng, các phương tiện truyền thông
đại chúng không dừng lại ở việc tuyên truyền giáo dục lý luận thuần túy. Gắn
liền với công tác tư tưởng, với việc vận hành một diễn đàn văn nghệ quần
chúng thấm đẫm các giá trị văn hóa dân tộc, giá trị nhân đạo cách mạng. Qua
đó, các phương tiện truyền thông đại chúng đã góp phần tích cực vào việc
hình thành và xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời
thấm đậm những giá trị nhân đạo cách mạng, đưa những giá trị của hệ tư
tưởng trong đời sống văn nghệ.
Nhìn lại nưhnxg thành quả bước đầu đạt được trong những năm đổi
mới gần đây trên lĩnh vực tư tưởng có thể thấy rằng, trong quá trình hoạt
động, các phương tiện truyền thông đại chúng đã góp phần quan trọng trong

việc truyền bá rộng rãi những giá trị khoa học, cách mạng và nhân đạo của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương đường lối của
Đảng đến mọi tầng lớp, bộ phận khác nhau trong xã hội, góp phần quyết định
vào việc đánh bại mọi luận điệu xuyên tạc, phản tuyên truyền của các lực
lượng phản động trong và ngoài nước. Hiện nay, để góp phần củng cố và tăng
cường quyền lực chính trị trong nhân dân, nhiệm vụ hàng đầu đặt ra đối với
Việt Nam là phải giữ vững mặt trận tư tưởng. Điều đó đòi hỏi các phương tiện
truyền thông đại chúng phải phát huy bản lĩnh chính trị, trở thành lực lượng
tiên phong, xung kích trên mặt trận tư tưởng.
2.3. Truyền thông đại chúng góp phần hoàn thiện thể chế chính trị,
đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân
Việc hoàn thiện thể chế chính trị đảm bảo quyền lực chính trị của nhân
dân thực chất là việc từng bước củng cố hệ thống chính trị, nhằm tạo ra sự cân
bằng, ổn định và phối hợp nhịp nhàng giữa Đảng – Nhà nước – Nhân dân theo
nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
25


×