MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................3
2. Mục đích của đề tài.............................................................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................4
B. PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN NGHỊ LUẬN VÀ NGHỊ LUẬN
XÃ HỘI........................................................................................................................4
1.1 Tìm hiểu chung về văn nghị luận...................................................................4
1.1.1 Khái niệm:......................................................................................................4
1.1.2 Đặc điểm:.......................................................................................................4
1.1.3 Phân loại:.......................................................................................................5
1.2. Những nét khái quát về Nghị luận xã hội....................................................5
1.2.1. Khái niệm:.....................................................................................................5
1.2.2 Yêu cầu chung của bài văn nghị luận xã hội.................................................5
1.2.3 Phân loại các dạng bài nghị luận xã hội.......................................................6
1.2.3.1. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí..............................................................7
1.2.3.2 Nghị luận về một hiện tượng đời sống........................................................9
1.2.3.3. Nghị luận về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học.........................10
CHƯƠNG 2: DẪN CHỨNG TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT SỰ
VIỆC, HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG..........................................................................11
2.1. Dẫn chứng là gì?...........................................................................................11
2.2. Vai trò của dẫn chứng trong bài văn nghị luận xã hội..............................11
2.3 Những yêu cầu về dẫn chứng trong bài văn nghị luận về hiện tượng đời
sống.......................................................................................................................12
2.4. Cách lựa chọn dẫn chứng trong bài văn nghị luận về sự việc, hiện tượng
đời sống................................................................................................................13
CHƯƠNG 3: RÈN KĨ NĂNG ĐƯA DẪN CHỨNG VÀO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
VỀ SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG.............................................................15
3.1 Các bước đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận về hiện tượng đời sống.15
3.1.1. Sưu tầm dẫn chứng......................................................................................15
3.1.1.1 Sổ tay dẫn chứng mảng giáo dục:.............................................................16
3.1.1.2. Sổ tay dẫn chứng mảng đạo đức xã hội...................................................22
3.1.1.3 Sổ tay dẫn chứng mảng môi trường..........................................................26
1
3.1.2. Lựa chọn và sắp xếp dẫn chứng phù hợp....................................................31
3.1.3. Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn trình bày thực trạng............................33
3.2 Bài tập thực hành các bước..........................................................................36
3.2.1. Đề 1.............................................................................................................36
3.2.2. Đề 2.............................................................................................................39
3.2.3. Đề 3.............................................................................................................42
3.2.4. Đề 4.............................................................................................................46
3.2.5. Đề 5.............................................................................................................50
C. PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................................54
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................55
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn
Ngữ văn bởi vì đó là môn học vừa hình thành nhân cách, vừa hình thành tâm hồn.
Trong chương trình Tập làm văn cấp Trung học cơ sở, học sinh đã được làm quen với
2
văn nghị luận. Các em được bộc lộ thái độ, suy nghĩ của mình về nhiều vấn đề trong
xã hội. Đồng thời với xu thế xã hội ngày nay thì nghị luận xã hội - nghị luận về một
sự việc, hiện tượng đời sống ngày càng có vài trò thiết thực, giúp các em không chỉ
hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình mà còn cung cấp tri thức vô cùng
phong phú về những vấn đề xã hội. Trong đề thi môn Ngữ văn lớp 9 (cuối học kì,
tuyển sinh THPT, đắc biệt là kì thi chọn Học sinh giỏi) thường có bài tập yêu cầu học
sinh vận dụng kiến thức của đời sống để viết bài nghị luận xã hội về một sự việc, hiện
tượng đời sống.
Khi viết văn nghị luận, các em không cần phải thuộc lòng những tri thức đọc
hiểu trong sách lí thuyết nhiều mà vẫn có thể làm được bài. Các em có thể tự do trình
bày suy nghĩ, quan điểm của mình một cách khách quan mà không bị giới hạn, quy
định nào ràng buộc. Đồng thời có thể thể hiện sự hiểu biết phong phú của mình cho
bài viết sinh động hơn. Bởi dạng bài này thuộc dạng đề mở nên rất phù hợp với mọi
đối tượng học sinh.
Tuy nhiên, viết văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống không phải
là thích gì, thấy gì viết lấy, hay áp đặt ý kiến chủ quan của người viết. Bài viết cần
đảm bảo tính khách quan hoa học và hướng về vấn đề bàn luận. Người viết, cần có
vốn sống phong phú, tầm hiểu biết rộng và có óc tư duy sắc sảo mới làm bài tốt. Dẫn
chứng và lí lẽ là hai yếu tố quan trọng tạo nên luận cứ trong bài văn nghị luận nói
chung và nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống nói chung. Tuy nhiên, học
sinh thường mắc một số lỗi không đáng có trong quá trình chọn lọc dẫn chứng trong
văn nghị luận: Thường trích dẫn sai dẫn chứng, làm ảnh hưởng đến tính xác thực của
văn bản nghị luận; đưa dẫn chứng không kết hợp với việc phân tích dẫn chứng, khiến
lí lẽ đưa ra trở nên hời hợt và không sâu sắc; chọn lọc dẫn chứng không tiêu biểu nên
không làm sáng rõ được vấn đề cần nghị luận; đưa những dẫn chứng quá quen thuộc,
không mới mẻ làm giảm đi tính hấp dẫn của văn bản nghị luận; trong bài có quá ít
dẫn chứng dẫn đến không đủ sức thuyết phục cho luận điểm. Hoặc đưa quá nhiều dẫn
chứng vào bài khiến bài văn lan man, sáo rỗng và không sâu sắc…
Vậy làm thế nào để học sinh có thể có kĩ năng đưa dẫn chứng vào bài nghị luận
về một sự việc, hiện tượng đời sống? Đây là điều trăn trở không chỉ riêng tôi mà còn
nhiều các thầy cô giáo tâm huyết, yêu nghề khác. Là một giáo viên giảng dạy Ngữ
văn, vì những lí do, hoàn cảnh đó đã thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài: Rèn kĩ năng đưa
dẫn chứng vào bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
2. Mục đích của đề tài
- Đối với giáo viên: Chuyên đề có thể phần nào cung cấp thêm tài liệu tham
khảo về kiểu bài nghị luận xã hội nói chung và cách đưa dẫn chứng vào bài nghị luận
về một sự việc hiện tượng đời sống để xác định phương hướng giảng dạy phù hợp với
từng đối tượng học sinh.
3
- Đối với học sinh: Được cung cấp những kiến thức cơ bản về cách đưa dẫn
chứng vào bài nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản: phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khái quát
hóa…
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN NGHỊ LUẬN VÀ NGHỊ LUẬN
XÃ HỘI
1.1 Tìm hiểu chung về văn nghị luận
1.1.1 Khái niệm:
Văn nghị luận là kiểu văn bản mà ở đó người nói, người viết chủ yếu sử dụng lí
lẽ, dẫn chứng, lập luận nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một quan điểm, tư
tưởng nhất định. Văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết
phục. Những tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận phải hướng tới giải quyết
những vấn đề đặt ra trong cuộc sống, xã hội thì mới có ý nghĩa.
1.1.2 Đặc điểm:
Đặc trưng cơ bản của văn nghị luận là tính chất thuyết phục. Bởi vậy, trong
mỗi bài văn nghị luận đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận. Trong đó:
- Luận điểm là ý kiến, thể hiện tư tưởng, quan điểm của người viết đối với vấn đề
nghị luận. Luận điểm trong bài văn nghị luận được thể hiện dưới hình thức những câu
khẳng định hay phủ định, được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán.
- Luận cứ là những lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Luận cứ phải
chân thật, đúng đắn, tiêu biểu có mối liên hệ logic với luận điểm.
- Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Những lí lẽ, bằng chứng của lập
luận sẽ dẫn người đọc, người nghe đến một kết luận nào đó mà người nói muốn đạt
tới.
- Để bài văn có sức thuyết phục, các luận điểm, luận cứ và lập luận phải thật đúng
đắn, chặt chẽ, hợp lí.
* Các phép lập luận thường sử dụng trong văn bản nghị luận:
+ Phép phân tích: Phép phân tích là chia sự vật, hiện tượng ra các bộ phận tạo thành
nó nhằm tìm ra nhưng điểm, bản chất từng bộ phận và mối quan hệ của từng bộ phận
4
với nhau. Để phân tích nội dung của sự vật, hiện tượng, người ta có thể vận dụng các
biện pháp nêu giả thuyết, so sánh, đối chiếu.
+ Phép tổng hợp: Tổng hợp là rút ra cái chung từ những điều phân tích, không có
phân tích thì không có tổng hợp, nhưng ngược lại có thể có phân tích mà không cần
tồng hợp.
+ Kết hợp hai phép phân tích và tổng hợp trong bài văn: Khi kết hợp hai phép lập
luận này bài văn sẽ sâu sắc hơn, hai phép này thực chất là đối lập nhưng không tách
rời, phân tích và tổng hợp lại vấn đề thì bài văn mới sâu sắc được.
1.1.3 Phân loại:
Căn cứ vào nội dung nghị luận, có thể chia văn nghị luận thành hai loại: nghị
luận văn học và nghị luận xã hội. Theo đó: Nghị luận văn học có nội dung bàn luận
về một vấn đề văn học, còn Nghị luận xã hội lại hướng tới bàn luận về một vấn đề
nảy sinh trong xã hội.
1.2. Những nét khái quát về Nghị luận xã hội
1.2.1. Khái niệm:
Dựa theo cách hiểu của Từ điển từ và ngữ Hán-Việt, “nghị luận” là dùng lí
luận để phân tích ý nghĩa trái phải, bàn bạc, mở rộng vấn đề. Còn “xã hội” trước hết
là một tập thể người cùng sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các quan
hệ khác. Cũng có thể hiểu “xã hội” là những gì thuộc về quan hệ giữa người với
người về các mặt chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, văn học, ngôn ngữ… Từ đó,
chúng ta có thể hiểu Nghị luận xã hội là kiểu bài hướng tới phân tích, bàn bạc về các
vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội.
Phạm vi của nghị luận xã hội rất rộng, có thể kể tới những nội dung quan trọng
như: mối quan hệ của con người với môi trường sống, mối quan hệ của cá nhân với
cộng đồng, các vấn đề về lối sống, lý tưởng sống, những hiện tượng tích cực hoặc
tiêu cực của đời sống xã hội… Việc bàn luận về những vấn đề trên sẽ góp phần làm
cho nhận thức và tâm hồn của con người thêm phong phú, tạo cho mỗi người ý thức chăm
sóc cuộc sống tinh thần của mình và xây dựng các mối quan hệ trong xã hội, trong cộng
đồng ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn. Không chỉ vậy, nó còn có khả năng rèn năng lực tư
duy, giúp con người có thể đối diện với các vấn đề xã hội và biết cách giải quyết những
vấn đề ấy.
1.2.2 Yêu cầu chung của bài văn nghị luận xã hội
- Phải đọc kĩ đề, phân biệt được đề thuộc kiểu (dạng) nào?
- Nắm được cấu trúc từng loại, từng dạng để bám vào viết cho đúng.
- Nội dung trọng tâm, lời văn, câu văn, đoạn văn viết phải cô đúc, ngắn gọn. Lập
luận phải chặt chẽ, cảm xúc phải trong sáng, lành mạnh.
5
- Không lấy dẫn chứng chung chung mà phải có tính thực tế và thuyết phục.
- Phải đọc kĩ đề, gạch chân dưới những từ, cụm từ quan trọng để giải thích và lập
luận cho đúng. Những từ, cụm từ này phải thường xuyên được nhắc lại trong các luận
điểm.
- Có năng lực thâu tóm, nắm bắt các vấn đề xã hội xảy ra ngoài cuộc sống…
- Mạnh dạn đề xuất quan điểm, cách nghĩ của bản thân, lập luận sao cho thuyết
phục được người đọc.
- Biết lật ngược vấn đề, soi chiếu vấn đề ở nhiều khía cạnh để luận bàn – yêu cầu
đòi hỏi bản lĩnh của người viết.
1.2.3 Phân loại các dạng bài nghị luận xã hội
- Nghị luận xã hội thường được chia thành ba dạng:
+ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
+ Nghị luận về một hiện tượng đời sống
+ Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Ba dạng đề này có những nét tương đồng và khác biệt:
Dạng đề
So sánh
Khác nhau
Nghị luận về một vấn
đề xã hội đặt ra trong
TPVH
Nghị luận về một
tư tưởng, đạo lí
Nghị luận về một
hiện tượng đời sống
Bàn luận về một
vấn đề tư tưởng,
đạo đức, lối sống…
của con người.
Bàn luận về một hiện
tượng, một vấn đề có
tính thời sự, được dư
luận xã hội quan tâm.
Bàn luận về một vấn đề
xã hội (một tư tưởng,
đạo đức, lối sống hoặc
một hiện tượng đời
sống) được rút ra từ
một câu/ một đoạn
trích hoặc rút ra từ nội
dung của một tác phẩm
văn học nào đó.
Mang tính khái quát
cao về những chân
lí, những bài học
đạo đức; góp phần
định hướng cho con
người có lẽ sống tốt
đẹp.
Thường
đi
vào
những vấn đề cụ thể
(như những biểu hiện
tích cực hoặc tiêu
cực) trong cuộc
sống. Từ đó, gợi ý
cho con người những
Xuất phát từ nội dung
xã hội cụ thể trong một
tác phẩm văn học, đề
bài hướng đến mục
tiêu: Hình thành cho
học sinh năng lực khái
quát vấn đề, thể hiện
6
hành vi và cách ứng quan điểm của mình
xử đúng đắn.
trước những vấn đề đời
sống.
* Về nội dung: Cùng đề cập đến những vấn đề xã hội, góp phần nâng
cao nhận thức và định hướng về lối sống, cách ứng xử cho con người.
Giống nhau * Về phương pháp nghị luận: Để thực hiện các dạng bài trên, người
viết đều cần vận dụng kết hợp các thao tác lập luận như: giải thích,
bình luận, phân tích, chứng minh, bác bỏ để bàn luận, trình bày quan
điểm của mình xoay quanh vấn đề xã hội được đề cập.
1.2.3.1. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
* Khái niệm:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư
tưởng, đạo đức, quan điểm nhân sinh (như các vấn đề về nhận thức, về tâm hồn nhân
cách, về các quan hệ gia đình, xã hội, cách ứng xử, lối sống của con người trong xã
hội…).
Đối với học sinh trong nhà trường phổ thông, do đặc điểm tâm lý, lứa tuổi, tầm
nhận thức nên những vấn đề đặt ra để bàn luận không phải là những vấn đề quá phức
tạp, lớn lao mà chỉ là những vấn đề đạo đức, tư tưởng, tình cảm gắn liền với cuộc
sống hàng ngày như tình cảm quê hương, bạn bè, ý thức trách nhiệm, tinh thần học
tập… Những vấn đề này có thể được đặt ra một cách trực tiếp, nhưng thông thường là
được gợi mở qua một câu danh ngôn, châm ngôn, ngạn ngữ, ca dao hay câu nói của
một nhà văn hóa, nhà khoa học, người nổi tiếng…
* Phân loại:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý thường tồn tại ở các dạng:
- Dạng luận bàn về một tính cách hoặc một trạng thái tâm lý
VD:
+ Tự trọng và tự kiêu
+ Luận về sự bình yên.
- Dạng đề đưa ra một hoặc hai nhận định, nhận định ấy có thể xuất hiện qua một câu
nói, một câu thơ/ một lời hát, một châm ngôn, một tục ngữ, ca dao…
VD:
7
+ Anh/chị nghĩ gì về câu nói: “Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen
ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”.
(Tuân Tử)
+ Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: “Sống trong đời sống, cần có một tấm
lòng. Để làm gì, em biết không? Để gió cuốn đi…”. Suy nghĩ của anh/chị về lời bài
hát.
+ Anh/chị hãy trả lời câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu: “Ôi! Sống đẹp là thế
nào, hỡi bạn?”.
+ Có ý kiến cho rằng: “Nếu anh bắn súng lục vào quá khứ, tương lai sẽ bắn
anh bằng đại bác”.
Nhưng Tổng Giám độc tập đoàn Coca Cola, Bryan Dion lại khẳng định:
“Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn cứ mãi đắm chìm trong quá khứ
hay ảo tưởng về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng khoảnh
khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời mình”
Anh/chị suy nghĩ như thế nào trước những lời khuyên ấy?
+ Có người nói: “Hãy làm theo sự mách bảo của con tim”. Suy nghĩ của
anh/chị như thế nào về câu nói đó.
Đối với học sinh chuyên, thì dạng nhận định về hai nhận định là dạng thường
được đề xuất.
* Cách làm:
- Phần mở bài: phải giới thiệu khái quát tư tưởng, đạo lý cần nghị luận. Nêu ý chính
(vấn đề) hoặc câu nói về tư tưởng, đạo lý mà đề bài đưa ra.
- Phần thân bài: có nhiều luận điểm. Tuy nhiên cần đảm bảo:
+ LĐ 1: Giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lý. Bao gồm:
· Giải thích các từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, nghĩa đen/nghĩa bóng (nếu có)
· Rút ra ý nghĩa chung của tư tưởng, đạo lý
Thực chất là đi trả lời cho câu hỏi LÀ GÌ?
+ LĐ 2: Phân tích, chứng minh các mặt đúng của tư tưởng, đạo lý. Dùng dẫn chứng
để chứng minh. Từ đó, chỉ ra tầm quan trọng, tác dụng của tư tưởng, đạo lý đối với
đời sống xã hội.
Thực chất là đi trả lời cho câu hỏi TẠI SAO? NHƯ THẾ NÀO?
+ LĐ 3: Bình luận, mở rộng vấn đề, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến
tư tưởng, đạo lý vì có những tư tưởng, đạo lý đúng trong thời đại này nhưng hạn chế
8
trong thời đại khác, đúng trong hoàn cảnh này nhưng chưa đúng trong hoàn cảnh
khác. Dùng dẫn chứng minh họa.
Thực chất của luận điểm này là trả lời một số câu hỏi nhằm lật ngược vấn đề, nhìn
nhận vấn đề trong nhiều chiều, nhiều góc độ, thấu đáo hơn, tránh áp đặt khiên cưỡng
(VD, các câu hỏi như: có ngoại lệ hay không? Vấn đề có thể đúng/sai trong những
hoàn cảnh khác nhau như thế nào? ...)
+ LĐ 4: Rút ra bài học nhận thức (đúng hay sai?) và hành động (cần làm gì?). Đây là
một luận điểm nhỏ nhưng là vấn đề cơ bản của nghị luận xã hội bởi mục đích của
việc nghị luận là rút ra những kết luận đúng để thuyết phục người đọc.
- Phần kết bài: liên hệ bản thân, đánh giá chung về vấn đề.
1.2.3.2 Nghị luận về một hiện tượng đời sống
* Khái niệm:
Là bàn về một hiện tượng đang diễn ra trong thực tế đời sống xã hội, mang tính
chất thời sự, thu hút sự quan tâm của nhiều người (như ô nhiễm môi trường, tai nạn
giao thông, bạo hành gia đình, bệnh vô cảm…). Đó có thể là hiện tượng tốt hoặc xấu,
đáng khen hoặc đáng chê.
*Cách làm:
Để làm được kiểu bài này học sinh cần phải hiểu hiện tượng đời sống được đưa
ra nghị luận, có thể có ý nghĩa tích cực cũng có thể là tiêu cực, có hiện tượng vừa tích
cực vừa tiêu cực… Do vậy, cần căn cứ vào yêu cầu cụ thể của đề để gia giảm liều
lượng cho hợp lí, tránh làm bài chung chung, không phân biệt được mặt tích cực hay
tiêu cực.
Các nội dung chính:
- Mở bài: Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Thân bài:
+ LĐ1: Giải thích sơ lược hiện tượng đời sống, làm rõ những từ ngữ, hình ảnh, khái
niệm có trong đề bài (nếu có).
+ LĐ2: Nêu rõ thực trạng, biểu hiện và ảnh hưởng của hiện tượng đời sống (thực tế
vấn đề đang diễn ra như thế nào? có ảnh hưởng ra sao đối với đời sống? thái độ của
xã hội đối với vấn đề như thế nào?). Chú ý liên hệ thực tế địa phương để đưa ra
những dẫn chứng sắc bén, thuyết phục. Từ đó, làm nổi bật tính cấp thiết phải giải
quyết vấn đề.
+ LĐ3: Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng (nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân
khách quan, nguyên nhân do thiên nhiên, do con người…).
9
+ LĐ4: Nêu hậu quả/ hệ quả của hiện tượng đối với đời sống con người (hiện tượng
đó chi phối như thế nào đối với cá nhân, cộng đồng, xã hội?)
+ LĐ5: Đề xuất giải pháp để giải quyết hiện tượng (chú ý, nguyên nhân nào thì giải
pháp đó). Cần chỉ rõ những việc cần làm, cách thức thực hiện, đòi hỏi phải phối hợp
với những lực lượng nào?
- Kết bài: Cần khái quát lại vấn đề đang nghị luận, bày tỏ thái độ của bản thân về hiên
tượng đời sống.
Lưu ý: Có những đề nhìn bề ngoài thì là một phát biểu, một ý kiến, nhận định (có thể
ở dạng danh ngôn, châm ngôn…) nhưng bản chất lại bàn về một hiện tượng đời sống
(VD: "Trong thế gian này chúng ta xót xa không chỉ vì lời nói và hành động của
những kẻ xấu mà còn là sự im lặng đáng sợ của những người tốt"). Khi đó, cần nhận
diện đúng đề, sau đó đưa về cấu trúc dạng Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
1.2.3.3. Nghị luận về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học
* Khái niệm:
Nghị luận về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học là kiểu bài nghị luận xã hội
tích hợp giữa tác phẩm văn học và các vấn đề xã hội.
Đối tượng trực tiếp đề bài yêu cầu bàn luận là một vấn đề xã hội chứ không phải một
nội dung văn học; tác phẩm văn học chỉ đóng vai trò là phạm vi, xuất xứ của vấn đề
xã hội được yêu cầu bàn luận trong đề bài. Về nội dung nghị luận có thể là một tư
tưởng đạo lí hoặc một hiện tượng đời sống. Về hình thức đề ra: Đề bài có thể trực tiếp
đưa ra một vấn đề xã hội nào từ tác phẩm văn học cho học sinh bàn luận hoặc yêu cầu
học sinh tự rút ra vấn đề có ý nghĩa xã hội từ tác phẩm để luận bàn. Các vấn đề xã hội
có thể rút ra từ một tác phẩm văn học trong chương trình sách giáo khoa nhưng cũng
có thể là một câu chuyện, văn bản mà học sinh chưa từng học.
* Cách làm:
- Mở bài:
+ Dẫn dắt, giới thiệu tác phẩm, tác giả có liên quan.
+ Giới thiệu vấn đề cần bàn luận trong tác phẩm.
- Thân bài:
+ Phân tích vắn tắt văn bản để đúc rút ý nghĩa vấn đề xã hội được đề cập trong tác
phẩm văn học
+ Nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học (Làm rõ vấn đề
trong thực tế xã hội)
Đây là phần trọng tâm của bài viết. Trên cơ sở xác định được nội dung xã hội
đặt ra trong tác phẩm văn học là gì, thuộc phạm trù tư tưởng, đạo lí hay hiện tượng
10
đời sống mà người viết sẽ tiến hành bàn luận về vấn đề đó theo trình tự nghị luận phù
hợp với từng dạng bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí hoặc Nghị luận về một hiện
tượng đời sống.
- Nếu vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một tư tưởng, đạo lí;
học sinh có thể bàn luận về vấn đề đó theo trình tự:
+ Giải thích (nếu cần). Với những vấn đề xã hội được diễn đạt bằng những từ
ngữ, hình ảnh ít nhiều mang nghĩa ẩn dụ, biểu tượng hoặc có nhiều cách hiểu thì
người viết cần giải thích nội dung của những từ ngữ đó trước khi tiến hành bàn luận
vấn đề.
+ Bàn luận vấn đề: Soi chiếu vấn đề tư tưởng, đạo lí đó trên các phương diện
khác nhau để nhìn nhận cả mặt đúng đắn (chính đề) hoặc chỗ chưa đầy đủ, thuyết
phục của nó (phản đề).
- Nếu vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là hiện tượng đời sống,
học sinh có thể bàn luận về vấn đề đó theo trình tự:
+ Giải thích (nếu cần)
+ Bàn luận: Làm rõ về hiện tượng thông qua biểu hiện của hiện tượng, ý nghĩa
của hiện tượng (tích cực hay tiêu cực), cắt nghĩa nguyên nhân của hiện tượng và rút
ra những bài học có ý nghĩa giải pháp để khắc phục hiện tượng tiêu cực hoặc nhân
rộng hiện tượng tích cực ...
+ Mở rộng vấn đề nghị luận: Để bài viết được sâu sắc, toàn diện; sau khi bàn luận về
vấn đề xã hội thì người viết nên có cái nhìn đối sánh về nội dung xã hội được đề cập
trong tác phẩm văn học và hiện thực cuộc sống hiện nay. Chỉ ra nét ổn định và biến
đổi của vấn đề; lý giải nguyên nhân của nét ổn định và biến đổi đó (do hoàn cảnh,
điều kiện xã hội, cái nhìn riêng của tác giả ...)
- Kết bài:
+ Khái quát lại vấn đề cần bàn luận;
+ Liên hệ bản thân.
CHƯƠNG 2: DẪN CHỨNG TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT SỰ
VIỆC, HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG
2.1. Dẫn chứng là gì?
- Dẫn chứng là những minh hoạ, ví dụ cụ thể được diễn đạt bằng lời, nhằm khắc họa
lại sự vật, sự việc để giúp bài văn nghị luận có sức thuyết phục hơn.
- Dẫn chứng thường xen tự sự và miêu tả.
11
2.2. Vai trò của dẫn chứng trong bài văn nghị luận xã hội:
Đối với bất cứ dạng văn nghị luận nào (tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời
sống), dẫn chứng có vai trò vô cùng quan trọng. Trong bài văn nghị luận, dẫn chứng
và lí lẽ là hai bộ phận cấu thành luận điểm và làm tăng thêm tính thuyết phục, hấp
dẫn cho hệ thống lập luận.
Nếu không có dẫn chứng, những lí lẽ được đưa ra dù hay và sắc sảo đến đâu thì
vẫn không đủ sức thuyết phục và không thể tác động mạnh mẽ đến người đọc, người
nghe. Bài văn nghị luận sẽ trở thành những lời bàn luận mang tính chất là những khái
niệm, lí thuyết suông.
- Đối với dạng bài nghị luận về tư tưởng, đạo lí: trong dạng bài này thì dẫn chứng có
trong phần phân tích, chứng minh.
- Đối với dạng bài nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống: phần cần nhiều dẫn
chứng nhất chính là nêu thực trạng.
2.3 Những yêu cầu về dẫn chứng trong bài văn nghị luận về hiện tượng đời sống
Dẫn chứng có vai trò quan trọng. Tuy nhiên khi đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận,
học sinh cần lưu ý những vấn đề sau:
– Thứ nhất, dẫn chứng phải đảm bảo sự chính xác: Nếu không đảm bảo được yếu
tố chính xác, dẫn chứng sẽ không làm sáng rõ được luận điểm. Đối với dẫn chứng là
thơ, người viết cần trích dẫn đúng nguyên văn. Đối với văn xuôi thì tóm lược ý
nhưng cần đảm bảo tính chính xác về nội dung, tác giả, tác phẩm. Có không ít trường
hợp trích dẫn sai dẫn chứng, chẳng hạn như trường hợp trích dẫn ngữ liệu từ bài thơ
“Tràng giang” của tác giả Huy Cận: Nắng xuống, trời lên cao chót vót (Đúng phải
là Nắng xuống, trời lên sâu chót vót); hoặc nhầm lẫn về chi tiết, cốt truyện trong “Vợ
chồng A Phủ”: Mị vốn là người yêu của A Phủ nhưng bị A Sử bắt về làm vợ.
Những sai sót này ảnh hưởng không nhỏ đến tính thuyết phục của bài văn nghị luận.
Do đó, chúng ta cần nắm dẫn chứng một cách chính xác, rõ ràng.
– Thứ hai, dẫn chứng phải đảm bảo yếu tố cần và đủ: Bài văn nghị luận cần có
nhiều hơn một dẫn chứng. Lấy quá ít dẫn chứng thì vấn đề nghị luận sẽ không được
làm sáng tỏ. Bên cạnh những dẫn chứng mang tính chất bản lề và bắt buộc, người viết
cần liên hệ thêm những dẫn chứng để có sự liên hệ, so sánh. Tuy nhiên, nếu đưa quá
nhiều dẫn chứng vào bài sẽ khiến bài văn nghị luận bị loãng. Bởi vậy, khi đưa dẫn
chứng vào bài cần lưu ý yếu tố cần và đủ, không thiếu dẫn chứng nhưng cũng không
có quá nhiều dẫn chứng. Việc đưa dẫn chứng tùy thuộc vào việc có bao nhiêu vấn đề
được nêu ra trong luận điểm. Thông thường, với mỗi một lí lẽ, người viết cần đưa ra
ít nhất một dẫn chứng đi kèm.
12
– Thứ ba, dẫn chứng phải đảm bảo tính điển hình, tiêu biểu: Ngoài việc đưa dẫn
chứng phong phú, người viết còn cần biết chọn lọc dẫn chứng, ưu tiên những dẫn
chứng điển hình và tiêu biểu. Thông thường, học sinh thường chọn những dẫn chứng
quen thuộc. Chẳng hạn như khi bàn luận về vấn đề “Nghị lực sống vượt lên trên hoàn
cảnh”, học sinh thường lấy những dẫn chứng về thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí kiên trì
luyện viết chữ bằng chân. Hay Mạc Đĩnh Chi bắt đom đóm cho vào vỏ trứng, lấy ánh
sáng học bài. Rõ ràng, những dẫn chứng này đều đúng. Nhưng vì đã quá quen thuộc
nên sẽ không tạo ra được tính hấp dẫn cho bài văn.
Người viết nên sử dụng những dẫn chứng mới mẻ hơn. Chẳng hạn như câu chuyện về
Nic Vujic - tấm gương vượt khó, dù sinh ra không có tay chân nhưng vẫn mạnh mẽ
vượt lên để trở thành diễn giả nổi tiếng. Rõ ràng dẫn chứng này sẽ truyền thêm cảm
hứng cho rất nhiều người. Như vậy, chúng ta nên chọn lọc những dẫn chứng mới mẻ
thông qua việc thường xuyên tìm hiểu và cập nhật các thông tin về đời sống văn hóaxã hội.
– Thứ tư, phải kết hợp với việc phân tích dẫn chứng: Khi đưa dẫn chứng vào bài,
cần kết hợp với việc phân tích, đánh giá dẫn chứng. Thao tác này sẽ khiến cho dẫn
chứng phát huy hết vai trò, hiệu quả. Nếu không phân tích, đánh giá, bài văn sẽ trở
nên hời hợt, sáo rỗng. Không sâu sắc và đủ sức tác động đến người đọc. Để làm được
điều này, người viết cần hiểu đúng, đánh giá đúng và cảm thụ đúng về giá trị của dẫn
chứng.
– Thứ năm, dẫn chứng cần đảm bảo tính logic và hệ thống: Nghĩa là các dẫn chứng
phải được sắp xếp theo một trình tự, quy luật nhất định. Ví dụ như việc sắp xếp dẫn
chứng theo trục thời gian tuyến tính (từ lịch sử, quá khứ đến thời điểm hiện tại). Hoặc
theo chiều không gian (từ rộng đến hẹp, từ xa đến gần, …. hoặc ngược lại). Tính hệ
thống sẽ giúp cho người viết tránh được tình trạng đưa dẫn chứng một cách tràn lan
và mất kiểm soát.
- Thứ sáu, dẫn chứng phải đảm tính thời sự: Khi làm bài, cần lấy dẫn chứng càng
mới, càng gần thời điểm làm đề càng tốt. Những dẫn chứng đã quá quen thuộc, được
sử dụng từ trước đến nay trong các bài văn thì học sinh không nên tiếp tục sử dụng.
Muốn có dẫn chứng mang tính thời sự cần tích cực theo dõi báo, đài, truy cập nguồn
mới nhất từ in-tơ-nét…
2.4. Cách lựa chọn dẫn chứng trong bài văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời
sống
– Lấy dẫn chứng là những số liệu cụ thể, rõ ràng:
Khi đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận là những số liệu cụ thể, rõ ràng vào bài viết,
chúng sẽ trở thành những “con số biết nói” gia tăng sức thuyết phục của lí lẽ. Đó là
những số liệu thống kê, những con số, … nói lên thực trạng của vấn đề nghị luận.
13
Ví dụ:
+ Khi nghị luận về vấn đề tác hại của việc hút thuốc lá đối với đời sống con người,
người viết có thể vận dụng những con số sau:
Đưa ra con số về tỉ lệ số người hút thuốc lá: “Ở Việt Nam, có khoảng 18
triệu người hút thuốc lá. Trong đó có khoảng 50% nam giới đang hút thuốc
lá, và có 85% trong số đó hút thuốc mỗi ngày”.
Đưa ra số liệu thống kê về số người bị chết do thuốc lá: “Tại Việt Nam,
trung bình mỗi năm có khoảng 40.000 người chết vì khói thuốc. Tỷ lệ này
cao gấp 4 lần so với số người thương vong vì tai nạn giao thông”.
Rõ ràng, với những con số trên, tác hại của hút thuốc lá sẽ được nhấn mạnh hơn. Do
đó, hồi chuông cảnh tỉnh về việc hút thuốc sẽ tăng thêm tính báo động.
+ Khi nghị luận về vấn đề ô nhiễm môi trường, người viết có thể đưa vào bài những
dẫn chứng về:
Những con số, số liệu về số lượng rác thải: “Mỗi ngày có 35 tấn rác đổ ra
các đại dương”, “9 triệu là con số tử vong mỗi năm do ô nhiễm”, “Mỗi năm,
nước ta sử dụng hơn 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật, trung bình mỗi
ngày thải ra hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, trong đó số lượng rác thải
nguy hại là 630.000 tấn”, ….
Những con số về số người chết do ảnh hưởng từ ô nhiễm môi trường:
“Trong năm 2015, có gần 9 triệu người chết vì các căn bệnh từ ô nhiễm môi
trường (Theo thống kê của của tạp chí Lancet).”
Qua những con số này, độc giả có thế thấy được tình trạng báo động của vấn đề ô
nhiễm môi trường. Như vậy, việc đưa những số liệu, con số thống kê chính xác, cụ
thể sẽ khiến cho lập luận của bài văn nghị luận trở nên chặt chẽ, thuyết phục, lí lẽ xác
đáng.
– Lấy dẫn chứng là những sự thật hiển nhiên:
Trong bài văn nghị luận, những sự thật hiển nhiên chính là những biểu hiện cụ thể,
tiêu biểu đã được công nhận rộng rãi trong dư luận. Khi chọn những sự thật hiển
nhiên làm dẫn chứng vào bài văn nghị luận, tính chính xác sẽ được đảm bảo, khiến
người đọc hoàn toàn tin tưởng hơn nữa vào những lí lẽ mà người đọc nêu ra.
Ví dụ:
Khi nghị luận về vấn đề ô nhiễm môi trường, ngoài việc đưa số liệu, chúng ta có thể
đưa vào bài những biểu hiện, sự thật về tình trạng ô nhiễm như: “hiện tượng Trái Đất
đang nóng lên, hiện tượng biến đổi khí hậu”, “nguồn nước bị ô nhiễm, nhiều con
14
sông đã qua đời, và nhiều con sông đang kêu cứu”, “môi trường sinh thái đang mất
cân bằng và bị phá hủy” ….
– Lấy dẫn chứng vào bài văn nghị luận bằng nhân vật nổi tiếng:
Nhân vật nổi tiếng là những người đã được dư luận công nhận, đánh giá về phẩm chất
cũng như năng lực. Khi lấy nhân vật nổi tiếng làm dẫn chứng trong bài văn nghị luận,
những dẫn chứng này sẽ làm tạo nên một hiệu ứng bất ngờ trong việc đi vào lòng độc
giả. Đây cũng là cách đưa dẫn chứng tiêu biểu thường xuyên xuất hiện trong bài văn
nghị luận.
Khi đưa dẫn chứng là nhân vật nổi tiếng, cần lưu ý câu chuyện của nhân vật cần liên
quan chặt chẽ đến vấn đề cần nghị luận. Và mỗi một câu chuyện có thể trở thành dẫn
chứng cho nhiều vấn đề nghị luận khác nhau. Đồng thời, chúng ta có thể lấy dẫn
chứng là những nhân vật nổi tiếng trong đời sống lẫn trong văn học.
Ví dụ:
+ Dẫn chứng Nguyễn Hải An - cô bé 7 tuổi hiến giác mạc: “Mặc dù chỉ mới 7 tuổi
nhưng em đã mang trong mình căn bệnh ung thư. Biết mình sẽ qua đời, An quyết
định hiến giác mạc đem lại ánh sáng cho người khác”. Với câu chuyện cảm động
trên, các em có thể đưa vào những bài viết về chủ đề “tình yêu thương”, “sống đẹp”
hoặc “cho đi là còn mãi”, …
+Câu chuyện về Phạm Đình Quý - vị kiến trúc sư xây dựng 105 điểm trường cho trẻ
em vùng cao. “Trong vòng 5 năm, anh đã vượt hơn 365.000 km dọc khắp nước ta để
đặt chân đến những vùng đất xa xôi, hẻo lánh. Kết quả anh đã xây dựng được 105
điểm trưởng, giúp trẻ em có thể đến gần hơn với con chữ.” Với câu chuyện này,
chúng ta có thể đưa vào bài văn nghị luận về “tình yêu thương”, “sống là cho đi”,
hoặc “sự hi sinh cao đẹp”.
– Lấy dẫn chứng vào bài văn nghị luận bằng những câu nói nổi tiếng:
Khi những câu nói nổi tiếng trở thành dẫn chứng vào bài văn nghị luận, chúng sẽ là
công cụ hữu hiệu để gia tăng tính xác thực. Ngoài ra, những câu nói này sẽ khiến cho
bài văn tăng tính hấp dẫn và không hề khô khan.
CHƯƠNG 3: RÈN KĨ NĂNG ĐƯA DẪN CHỨNG VÀO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
VỀ SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG
3.1 Các bước đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận về hiện tượng đời sống:
3.1.1. Sưu tầm dẫn chứng
- Giáo viên chia lớp thành các nhóm độc lập, mỗi nhóm sẽ phụ trách một mảng liên
quan tới các sự việc, hiện tượng trong đời sống.
15
- Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm: mỗi nhóm sẽ có nhiệm vụ sưu tầm các dẫn
chứng liên quan đến một vấn đề lớn thuộc mảng các sự việc, hiện tượng trong đời
sống.
Cụ thể: giáo viên chia làm 3 vấn đề lớn ứng với 3 nhóm trong lớp:
- Vấn đề 1: GIÁO DỤC
- Vấn đề 2: ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI
- Vấn đề 3: MÔI TRƯỜNG
- Ở mỗi vấn đề, các nhóm trưởng sẽ phân nhiệm vụ cho các thành viên nhóm:
+ Trang trí tờ bìa của cuốn sổ tay;
+ Tìm các dẫn chứng, số liệu liên quan tới các vấn đề đã nêu ở trên (bằng cách đọc
sách, báo; tham khảo trên internet…)
Trong mỗi vấn đề lớn lại chia thành từng nhóm nhỏ hơn để sưu tầm dẫn chứng ở các
vấn đề nhỏ mà mình phụ trách (1-2 học sinh một nhóm).
Cụ thể:
Vấn đề
lớn
GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI
Vấn đề - Việc giữ gìn bản sắc - An toàn thực phẩm (làm
cụ thể văn hóa dân tộc của giới thực phẩm bẩn);
trẻ;
- Vấn đề sử dụng mạng
- Tấm gương vượt khó, xã hội;
dung cảm;
- Văn hóa ứng xử của con
- Bạo lực gia đình, bạo người hiện nay
lực học đường;
MÔI TRƯỜNG
- Ô nhiễm môi
trường nước, đất,
không khí;
- Cháy rừng;
- “Rác” trong cuộc
sống;
- Văn hóa đọc sách
- Các nhóm sẽ làm việc, thảo luận và chia sẻ cuốn sổ tay. Từ đó, bước đầu học sinh
nắm được các dẫn chứng liên quan đến từng vấn đề cụ thể. (Thời gian: 10 -15 ngày)
CUỐN SỔ TAY CÁC VẤN ĐỀ
3.1.1.1 Sổ tay dẫn chứng mảng giáo dục:
* Phần bìa cuốn sổ tay:
16
17
* Nội dung các vấn đề lớn:
1. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của giới trẻ:
* Tích cực:
Nhiều bạn trẻ am hiểu, tích cực giữ gìn văn hóa truyền thống:
- Sống và làm theo phong tục của người Việt;
- Yêu tiếng Việt: dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, có các công trình nghiên cứu
về vẻ đẹp của tiếng Việt;
- Say mê học nhạc cụ dân tộc: nhiều bạn trẻ biết đánh được nhiều loại nhạc cụ dân
tộc, đưa nhạc cụ dân tộc vào trong các MV ca nhạc của mình (ca sĩ Hương Ly, nhạc sĩ
– ca sĩ KCIM…);
- Nhiều ca sĩ gợi lại những nét văn hóa độc đáo của dân tộc thông qua những MV ca
nhạc (tái hiện lại các tác phẩm văn học, phong tục tập quán của dân tộc…): ca sĩ
Hoàng Thùy Linh…
- Quảng bá hình ảnh văn hóa Việt Nam ra thế giới:
+ Tất cả các cuộc thi sắc đẹp của Việt Nam đều có phần thi mặc trang phục truyền
thống (Hoa hậu Hoàn Vũ, hoa hậu Trái Đất, hoa hậu thế giới người Việt…); giới thiệu
những món ăn mang đậm bản sắc dân tộc trong các cuộc thi sắc đẹp thế giới (hoa hậu
H’Hen Nie…);
- Nhiều bạn trẻ làm video giới thiệu về danh lam thắng cảnh của đất nước, cách làm
những món ăn của dân tộc…
* Tiêu cực:
- Nhiều bạn trẻ sùng văn hóa ngoại:
+ Cách ăn mặc;
+ Ngôn ngữ: đua nhau học tiếng Anh, pha tạp tiếng Anh – tiếng Việt: 2day = today =
hôm nay; 2day U co ranh ko? = hôm nay bạn có rảnh không? ; sử dụng nhiều tiếng
lóng: cá sấu (xấu), tủ đè (thi không trúng phần đã ôn tập), chuồn chuồn (chuồn, lỉnh)
…; Sử dụng nhiều từ ngữ viết tắt tự tạo: bit rui = biết rồi; không = 0, ko, hok, kg…
làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt;
+ Phong cách sinh hoạt: không muốn ăn Tết cổ truyền trong nước mà thích đi du lịch,
nhiều người không biết đến bánh trưng, không đi chúc tết…
- Thích nhạc điện tử, thuộc nhiều bài hát quốc tế nhưng khi hỏi về các làn điệu dân ca
truyền thống thì không hề biết;
2. Tấm gương vượt khó, dũng cảm
a. Tấm gương vượt khó:
18
* Trên thế giới:
- Nhà soạn nhạc Beethoven: là nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Hồi nhỏ, ông bị
khiếm thính, sau đó bị điếc hoàn toàn. Tuy vậy, vượt qua mọi trở ngại, ông vẫn trở
thành một nhà soạn nhạc vĩ đại, nổi tiếng thế giới. Ông là hình tượng âm nhạc quan
trọng trong giai đoạn giao thời, từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang âm nhạc lãng mạn.
Beethoven được coi là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất và có ảnh hưởng
tới rất nhiều nhà soạn nhạc, nhạc sỹ và khán giả về sau.
- Niu- tơn: là nhà toán học, vật lí học, cơ học, thiên văn học vĩ đại người Anh. Sinh ra
thiếu tháng là một đứa trẻ yếu ớt, thường phải tránh những trò chơi hiếu động của bạn
bè. Do đó ông đã tự tạo ra những trò chơi cho mình và trở thành người tài năng.
- Andecxen: Sinh ra trong một gia đình nghèo ở thành phố Odense, cuộc sống nghèo
khổ, không lúc nào có đủ bành mì để ăn. Đi học lại luôn bị bạn bè chê cười vì ngoại
hình xấu xí. Vượt qua tất cả với ước mơ trở thành nghệ sĩ, Andecxen đã lang thang
lên thành phố Copenhaghen, đóng những vai kịch tầm thường, làm quét dọn. Cuối
cùng nghị lực và tình yêu nghệ thuật đã giúp ông thành công. Những câu chuyện của
ông mãi mãi tồn tại trong tâm trí độc giả, mang lại cho trẻ thơ niềm hạnh phúc, thắp
lên những ước mơ đẹp.
- Picaso: Thuở thiếu thời Picaso là một hoạ sĩ vô danh, nghèo túng ở Pa ris. Đến lúc
chỉ còn 15 đồng bạc, ông quyết định đánh canh bạc cuối cùng. Ông thuê sinh viên
dạo các cửa hàng tranh và hỏi: “Ở đây có bán tranh của Picaso không?”. Chưa đầy
một tháng tên rtuổi của ông đã nổi tiếng khắp Paris, tranh của ông bán đước và nổi
tiếng từ đó.
* Ở Việt Nam:
- Trong quá khứ:
+ Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù yêu nước. Ông dùng ngòi bút của mình đánh
giặc. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là tấm gương tiêu biểu cho ý chí và nghị lực của
con người vượt qua hoàn cảnh, số phận. Ở cương vị nào, một nhà thơ, một thầy giáo,
một thầy thuốc… ông cũng đều cống hiến hết mình.
+ Nhà giáo nhân dân Nguyễn Ngọc Ký dù bị liệt cả hai tay vẫn quyết chí học hành;
tập viết bằng tay;
+ Bác Hồ khi bôn ba nước ngoài dù phải làm việc cả ngày vẫn đêm đêm miệt mài đèn
sách;
+ Trạng nguyên Nguyễn Hiền vì nhà nghèo không có tiền đi học nên ngồi ngoài nghe
thầy giảng;
- Hiện nay:
19
+ Công Phượng bắt đầu nổi tiếng khi thi đấu chính thức cho đội tuyển U19 Hoàng
Anh Gia Lai và có những đường bóng kiến tạo đẹp mắt. Anh chàng bắt đầu được
mệnh danh là “Messi của Việt Nam”. Tuy nhiên, để có được thành công này ít ai biết
rằng Công Phượng đã nuôi đam mê từ nhỏ, từng bị đánh trượt tại lò luyện đào tạo
Sông Lam Nghệ An nhưng vẫn không bỏ cuộc. Từ khi trở thành người nổi tiếng,
Công Phượng luôn được dư luận theo dõi và không ít lần bị săm soi về đời tư, chuyện
tình cảm. Trước những áp lực này, Công Phượng đều từ tốn, chọn cách im lặng để
sóng gió đi qua.
+ Thầy Trần Quốc Hoàn ở Quảng Trị bị liệt nửa người, đôi chân không thể đi lại
nhưng vẫn quyết tâm học tập, mở lớp tại nhà để dạy cho những đứa trẻ nghèo nơi
mình sinh sống và anh còn là một vận động viên thể thao với nhiều thành tích đáng
nể.
+ Nguyễn Thị Kim Anh – thủ khoa đại học Ngoại Thương vượt khó thành công.
Nguyễn Thị Kim Anh quê ở xã Chấn Hưng, huyện Vĩnh Tường, bởi em đã mồ côi mẹ
từ khi mới 10 tuổi, bố em lại bị câm, điếc bẩm sinh, không có khả năng lao động. Là
chị cả của 2 em nhỏ, Kim Anh luôn phải tự làm tất cả mọi việc trong gia đình và
chăm sóc các em. Đi học về là em lại dành hết thời gian cho việc chăm sóc các em và
lo nhà cửa, đồng ruộng. Còn phần thời gian ít ỏi vào buổi tối hoặc khuya em giành
cho việc học để chuẩn bị bài ngày hôm sau. Những nỗ lực của Kim Anh đã được đền
đáp xứng đáng khi em đạt 27 điểm trong kì thi đại học năm nay và trở thành thủ khoa
Đại học Ngoại thương Hà Nội.
+ Nguyễn Thị Ca hiện là học sinh lớp 9A, trường THCS Hà Châu, huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ bị bệnh rồi bị gãy cột sống,
tưởng chừng không qua khỏi; anh trai bị đuối nước; bố - trụ cột chính trong nhà thì
mắc vào tệ nạn xã hội; Ca chính là người phải thay mẹ lo toan mọi việc trong gia đình
từ việc đồng áng đến cơm nước, chăm sóc mẹ và em. Bao nhiêu vất vả, lo toan dồn
lên đôi vai Ca, nhưng không vì thế mà em gục ngã. Sức học của em ngày một tốt lên.
Căn nhà nhỏ cũ kỹ, tường vôi nham nhở nhưng treo đầy những tấm giấy khen và
chứng nhận học sinh giỏi của em.
+ Cậu bé người dân tộc Nùng: Lâm Tiến Thăng, học sinh lớp 9B, Trường Trung học
cơ sở Phan Thiết, tỉnh Tuyên Quang.
Gia đình em rất khó khăn, bố Thăng đang bị liệt nửa người, mẹ đang có khối u ở thực
quản, bản thân Thăng lại mang trong mình căn bệnh ung thư máu, đã từng phải nghỉ
học 1 năm để chữa bệnh.
Trong quá trình điều trị bệnh, chứng kiến sự ham học của Thăng, có người đã tặng
em một chiếc máy tính để “bầu bạn”, cũng từ đây, món quà này đã giúp Thăng hình
thành niềm đam mê môn tin học, mày mò để học hỏi những kiến thức về viết phần
20
mềm, lập trình... Niềm đam mê và sự ham học hỏi đã giúp Thăng đạt được thành tích
giải nhất cấp tỉnh môn tin học.
3. Vấn đề bạo lực:
* Bạo lực gia đình:
- Ngày càng gia tăng, diễn ra ở mọi nơi, từ nông thôn đến thành thị; mọi thành phần
xã hội từ nhừng người nghèo đến cả những người có điều kiện thu nhập cao.
- Bạo lực cả về thể xác (chồng đánh đập vợ, bố mẹ đánh đập con cái, thậm chí gây ra
án mạng…) lẫn tinh thần (mắng mỏ, chửi bới, lăng mạ, xúc phạm danh dự…)
- Cụ thể: vụ việc người chồng đánh đập dã man người vợ dưới hồ nước ở Tây Ninh,
chồng võ sư đánh vợ trước mặt con ở Long Biên (Hà Nội) …; bố đánh đập 2 người
con dã man ở Thái Bình…
* Bạo lực học đường:
- Trên thế giới:
+ Hàn Quốc, nam sinh bị bốn bạn học hành hung tập thể rồi đẩy ngã từ chung cư 15
tầng xuống đất tử vong;
+ Trung Quốc, học sinh 14 tuổi tử vong bị bạn cùng trường đánh hội đồng
- Tại Việt Nam:
+ Bạo lực học đường đang diễn ra trên trên toàn quốc, từ nông thôn đến thành thị,
bao gồm nhiều thành phần: giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh…
+ Cụ thể:
Một nữ sinh ở Quảng Bình bị bạn đánh và tung clip lên mạng; nộp bài thi học kỳ
chậm, học sinh lớp 2 bị cô giáo tát tím mặt; Ở Hà Nội, nữ sinh bị nhóm bàn đánh hội
đồng ngồi lên đầu, lột áo ngay tại lớp; Hải Phòng: Cô giáo phạt học sinh uống nước
vắt giẻ lau bảng vì nói chuyện riêng; Cô giáo phạt học sinh 231 cái tát do nói bậy…
4. Văn hóa đọc sách:
* Tích cực:
- Nhiều bạn trẻ yêu thích đọc sách, trân trọng, nâng niu sách;
- Họ coi việc đọc sách là niềm say mê, thú vui không thể thiếu trong cuộc sống…
* Tiêu cực:
- Học sinh lười đọc sách nhiều chữ, thay vào đó là lên mạng để tra cứu đáp án, trong
khi thông tin trên mạng không sâu, chưa được kiểm duyệt…
21
- Một tháng, trung bình 1 người Nhật Bản đọc được vài chục cuốn sách, trong khi ở
Việt Nam, theo báo điện tử Vietnamnet đưa tin, 1 năm người Việt chỉ đọc được 4 đầu
sách, chỉ bằng 1/5 lượng sách đọc được của người Nhật…
- Giới trẻ hiện nay thích đọc sách mang tính giải trí: truyện tranh, truyện ngôn tình…
mà ít đọc sách về văn học, lịch sử, khoa học, kĩ năng…
- Nhiều bạn trẻ cố tỏ ra mình thích đọc sách, yêu sách nhưng thực ra với họ, sách như
là một thứ để khoe khoang;
- Giới trẻ ngày nay còn khó khăn trong việc lựa chọn sách hay; một phần do không
hiểu mình cần gì ở những cuốn sách mà chỉ a dua theo số đông, một phần do trên thị
trường, cuốn sách nào cũng được trình bày hấp dẫn, bắt mắt, quảng cáo rầm rộ… nên
họ bị “nhiễu” thông tin.
3.1.1.2. Sổ tay dẫn chứng mảng đạo đức xã hội
* Phần bìa cuốn sổ tay:
22
23
* Nội dung các vấn đề lớn:
1.Vấn đề an toàn thực phẩm hiện nay
* Tích cực:
- Nhờ sự kết hợp giữa tiềm năng sẵn có và cùng với chính sách hỗ trợ kịp thời đã tạo
ra nhiều ngành chế biến thực phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
- Các nhóm ngành chế biến các sản phẩm chăn nuôi thủy hải sản ngày càng phát triển
đặc biệt là thực phẩm đông lạnh rất an toàn.
- Nhiều cơ sở bánh kẹo, đồ ăn đông lạnh được thành lập với uy tin và chất lượng cao.
* Tiêu cực:
- Hiện nay thực phẩm bẩn đang tràn lan trên thị trường. Các thực phẩm này không
đảm bảo về chất lượng, không rõ nguồn gốc khiến người tiêu dùng khó để lựa chọn
được các sản phẩm đảm bảo an toàn.
- Một bài báo trên Tienphong.vn ngày 11/6/2016 cung cấp: theo Cục ATTP, trung
bình mỗi năm có khoảng 170 vụ ngộ độc thực phẩm với gần 70000 người trúng độc
và 37 người chết;
- Ngày càng có nhiều người sản xuất kinh doanh sử dụng thuốc kích thích tăng
trưởng, sử dụng cám tăng trưởng trong chăn nuôi, những hóa chất biến nông thủy
sản, sử dụng nhiều loại chất tẩy rửa thịt cá ôi thối: tẩy trắng bì lợn thối thành đặc sản
ở Thành Phố Hồ Chí Minh; bơm tạp chất vào tôm nguyên liệu ở Bạc Liêu; Phát hiện
cơ sở chuyên thu gom nội tạng, xương trâu, bò thối ở Phú Xuyên, Hà Nội…
- Tình hình hàng giả hàng lậu hàng kém chất lượng về an toàn vệ sinh thực phẩm còn
khá phổ biến trong đó chủ yếu là rượu giả, đồ hộp quá hạn, bánh kẹo kém chất lượng.
2.Vấn đề sử dụng mạng xã hội ngày nay
* Tích cực:
- Giúp bạn kết nối với bạn bè. Với việc sử dụng mạng xã hội, bạn có thể dễ dàng làm
quen với nhiều người; tính năng trò chuyện miễn phí, không giới hạn giúp dễ dàng
trò chuyện, tán ngẫu;
- Là một công cụ giải trí, vào mạng ta có thể xem những video giải trí, hài hước giúp
giải tỏa căng thẳng sau giờ làm việc hoặc sau giờ học
- Là công cụ hữu hiệu trong việc truyền tải thông điệp, thông tin đến hàng tỉ người
trên khắp hành tinh: kêu gọi cộng đồng chung tay giúp đỡ nhiều người có hoàn cảnh
khó khăn hay để tôn vinh những việc làm tốt trong cuộc sống hàng ngày;
- Là địa điểm kinh doanh, mua bán lí tưởng; có nhiều người kinh doanh online rất
thành công - họ sẽ rao bán những mặt hàng của mình trên mạng xã hội.Bên cạnh đó
24
thì người mua hàng sẽ rất tiện khi không cần phải đi đâu xa mà vẫn có thể tìm cho
mình những sản phẩm ưng ý.
* Tiêu cực:
- Giảm tương tác giữa người với người; mạng xã hội khiến nhiều người dùng dành ít
thời gian cho người thân xung quanh, ít giao tiếp với mọi người; có những trường
hợp trở nên vô cảm, thờ ơ với những sự việc xung quanh mình.
- Việc đăng những hình ảnh hay những video lên mạng xã hội để được nhiều lượt
thích và lượt xem không còn là một chuyện xa lạ; có thời điểm cư dân mạng bức xúc,
sửng sốt về hành động một cô gái trẻ tạo dáng, chụp hình trên bia mộ liệt sĩ thì không
lâu sau đó là hình ảnh một chàng tra ngồi trên tượng đài Lí Thái Tổ chụp ảnh được
đăng tải trên Facebook => sự thiếu ý thức, vô văn hóa…;
- Mạng xã hội đã trở thành nơi để không ít bạn trẻ có những phát ngôn lời lẽ thô tục
thiếu văn hóa thậm chí bôi nhọ người khác, tung tin thất thiệt; miệt thị nhiều người có
xuất thân nghèo khó, có thái độ phân biệt đối xử, dùng lời lẽ thô thiển để xúc phạm lẫn
nhau.
- Hiện nay còn xuất hiện trào lưu ném đá hội đồng trên mạng xã hội, không cần biết
thật giả đúng sai như thế nào chỉ cần 1 hành động sai của 1 cá nhân thì cả cộng đồng
mạng cứ thế a dua theo lao vào chửi bớI;
- Nhiều người sử dụng mạng xã hội để livestream bán hàng, khi ở trên mạng đó là 1
món hàng lung linh đến khi giao tay người nhận lại không đúng như những gì đã giới
thiệu trên mạng xã hội;
- Nhiều người do nghiện mạng xã hội, không quan tâm đến cuộc sống bên ngoài,
không giao tiếp => mắc bệnh trầm cảm, tâm thần…
3. Văn hóa ứng xử của con người hiện nay
* Tích cực:
- Đa số học sinh, sinh viên có đạo đức tốt, lễ phép, kính trọng ông bà, cha mẹ, thầy
cô giáo, người lớn tuổi, sống lành mạnh, không sa vào tệ nạn xã hội.
- Các phẩm chất như nhân ái, tương thân tương ái giúp đỡ nhau, sống có nghĩa tình,
đoàn kết được phát huy:
+ Xây nhà tình nghĩa, quyên góp ủng hộ cho vùng thiên tai, vùng sâu vùng xa, tình
nguyện dạy học cho các em nhỏ vùng cao;
+ Nhìn thấy người cơ nhỡ, người vô gia cư đang ngồi co ro, ngủ lăn lóc trước cửa
một ngôi nhà, sẽ có những người hối hả dừng lại, nhường cho họ một chiếc áo ấm,
quan tâm và giúp đỡ họ…
25